Mức độ tự tin trong thực hành chăm sóc người bệnh của điều dưỡng mới tốt nghiệp Đại học Y Dược Thái Bình

Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu mô tả mức độ tự tin trong thực hành chăm sóc người bệnh

của điều dưỡng sau tốt nghiệp Trường Đại học Y Dược Thái Bình đang làm việc tại các cơ sở y tế trong

thời gian 3 năm đầu tiên và một số yếu tố liên quan. Sử dụng phương pháp mô tả cắt ngang thực hiện

trên 131 điều dưỡng, mức độ tự tin được đánh giá theo thang điểm sự tin tưởng hiệu quả cá nhân (PEBS

- Personal Efficacy Belief Scale) do Riggs và Knight phát triển. Kết quả cho thấy mức độ tự tin của điều

dưỡng ở mức trung bình (35,2 ± 5,25). Có mối liên quan giữa sự hỗ trợ của các kiến thức đại học với sự tự

tin của điều dưỡng mới tốt nghiệp, trong đó thể hiện rõ sự tương quan thuận giữa sự hỗ trợ của module học

kỹ thuật điều dưỡng (r = 0,186, p < 0,05)="" và="" module="" kỹ="" năng="" tiền="" lâm="" sàng="" (r="0,295," p="">< 0,05)="" với="" sự="" tự="">

pdf 8 trang phuongnguyen 60
Bạn đang xem tài liệu "Mức độ tự tin trong thực hành chăm sóc người bệnh của điều dưỡng mới tốt nghiệp Đại học Y Dược Thái Bình", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mức độ tự tin trong thực hành chăm sóc người bệnh của điều dưỡng mới tốt nghiệp Đại học Y Dược Thái Bình

Mức độ tự tin trong thực hành chăm sóc người bệnh của điều dưỡng mới tốt nghiệp Đại học Y Dược Thái Bình
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
128 TCNCYH 122 (6) - 2019
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Huyền, 
Trường Đại học Y Dược Thái Bình
Email: [email protected]
Ngày nhận: 22/08/2019
Ngày được chấp nhận: 29/08/2019
MỨC ĐỘ TỰ TIN TRONG THỰC HÀNH CHĂM SÓC NGƯỜI BỆNH 
CỦA ĐIỀU DƯỠNG MỚI TỐT NGHIỆP 
ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÁI BÌNH
Nguyễn Thị Huyền1, Trương Quang Trung2, Trần Thị Vân Anh1
1Trường Đại học Y Dược Thái Bình
2Khoa Điều dưỡng - Hộ sinh, Trường Đại học Y Hà Nội
Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu mô tả mức độ tự tin trong thực hành chăm sóc người bệnh 
của điều dưỡng sau tốt nghiệp Trường Đại học Y Dược Thái Bình đang làm việc tại các cơ sở y tế trong 
thời gian 3 năm đầu tiên và một số yếu tố liên quan. Sử dụng phương pháp mô tả cắt ngang thực hiện 
trên 131 điều dưỡng, mức độ tự tin được đánh giá theo thang điểm sự tin tưởng hiệu quả cá nhân (PEBS 
- Personal Efficacy Belief Scale) do Riggs và Knight phát triển. Kết quả cho thấy mức độ tự tin của điều 
dưỡng ở mức trung bình (35,2 ± 5,25). Có mối liên quan giữa sự hỗ trợ của các kiến thức đại học với sự tự 
tin của điều dưỡng mới tốt nghiệp, trong đó thể hiện rõ sự tương quan thuận giữa sự hỗ trợ của module học 
kỹ thuật điều dưỡng (r = 0,186, p < 0,05) và module kỹ năng tiền lâm sàng (r = 0,295, p < 0,05) với sự tự tin.
Từ khóa: sự tự tin, điều dưỡng mới tốt nghiệp, Đại học Y Dược Thái Bình.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự tự tin là một yếu tố thiết yếu trong thực 
hành điều dưỡng, đặc biệt là trong những năm 
đầu sau khi tốt nghiệp [1]. Điều dưỡng mới ra 
trường thường phải đối mặt với những khó 
khăn do môi trường làm việc yêu cầu cao gây 
ra [2]. Họ thường gặp khó khăn trong thời gian 
đầu vì cảm giác lo lắng, không an toàn, không 
tự tin bởi vai trò, trách nhiệm tăng lên đột ngột 
trong khi thiếu hụt các kiến thức, kinh nghiệm 
thực hành, Do đó, cần thiết phải có các đánh 
giá chính xác, khách quan và các giải pháp 
nhằm bù đắp sự thiếu hụt này [3; 4].
Người điều dưỡng có sự tự tin sẽ có đủ 
tư duy thấu đáo, làm chủ được các quy trình, 
kỹ thuật chăm sóc, có sự sáng tạo trong công 
việc cũng như tạo được mối quan hệ tốt với 
đồng nghiệp, bác sĩ và người hướng dẫn [5, 
6]. Từ đó, giúp họ thích nghi môi trường làm 
việc cường độ cao và đối mặt với bất kỳ sự 
thay đổi nào trong môi trường lâm sàng. Người 
điều dưỡng có mức độ tự tin thấp khó có khả 
năng xây dựng lòng tin ở các đồng nghiệp có 
kinh nghiệm, đặc biệt là trong môi trường lâm 
sàng [5].
Mặc dù vậy, đến thời điểm hiện tại yếu tố tự 
tin của điều dưỡng chưa được tìm hiểu và đánh 
giá một cách đầy đủ. Nghiên cứu về mức độ tự 
tin trong thực hành chăm sóc người bệnh của 
điều dưỡng giúp các đơn vị đào tạo thay đổi các 
phương án giảng dạy phù hợp, khích lệ tính tự 
tin ngay từ khi còn học tập trong trường bằng 
khả năng thích ứng dựa trên vấn đề, nhằm có 
những phương án hỗ trợ cho sinh viên sau tốt 
nghiệp [7; 8] 
Hiện nay, tại Việt Nam, nghiên cứu về mức 
độ tự tin của điều dưỡng còn rất hạn chế hoặc 
chưa được công bố. Đặc biệt, chưa có nghiên 
cứu nào đánh giá mức độ tự tin của điều dưỡng 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
129TCNCYH 122 (6) - 2019
trong vòng 3 năm sau khi tốt nghiệp tại các cơ 
sở y tế ở Việt Nam được công bố gần đây.
Trường Đại học Y Dược Thái Bình là trường 
Đại học được phép tuyển sinh và giảng dạy điều 
dưỡng trình độ đại học chính quy từ năm 2006, 
cung cấp nhân lực điều dưỡng cho ngành Y tế 
trong và ngoài nước. Tìm hiểu về mối liên hệ 
giữa quá trình đào tạo với mức độ tự tin trong 
thực hành của điều dưỡng mới tốt nghiệp là 
rất cần thiết. Vì vậy, nghiên cứu này được thực 
hiện nhằm mục tiêu:
1. Mô tả mức độ tự tin trong thực hành 
lâm sàng của điều dưỡng chính quy tốt nghiệp 
từ trường Đại học Y Dược Thái Bình trong giai 
đoạn 2014 - 2017 đang công tác tại các cơ sở y 
tế
2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến mức 
độ tin tin trong thực hành của nhóm điều dưỡng 
này.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Điều dưỡng tốt nghiệp chương trình điều 
dưỡng chính quy tại trường Đại học Y Dược 
Thái Bình từ 2014 - 2017 và đang công tác tại 
các cơ sở y tế 
2. Phương pháp
- Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang được 
tiến hành từ tháng 01 năm 2018. Phương 
pháp chọn mẫu thuận tiện được lựa chọn để 
mời sinh viên điều dưỡng tốt nghiệp tham gia 
nghiên cứu dựa trên danh sách cựu sinh viên 
được thu thập từ phòng Quản lý đào tạo đại 
học, trường Đại học Y Dược Thái Bình. Trong 
giai đoạn 2014 - 2017 có tổng cộng 215 sinh 
viên tốt nghiệp điều dưỡng chính quy, trong đó, 
25 sinh viên hiện không làm việc ở cơ sở Y tế, 
tổng quần thể nghiên cứu còn lại 190 sinh viên 
đủ tiêu chuẩn chọn mẫu. Nhóm nghiên cứu liên 
hệ với cựu sinh viên thông qua số điện thoại, 
email, zalo, facebook Điều dưỡng đồng ý 
tham gia sẽ trả lời bộ câu hỏi tự điền thiết kế 
theo dạng trực tuyến hoặc trả lời câu hỏi giấy, 
có 131 người trả lời phiếu điều tra, tỷ lệ phản 
hồi đạt 131/190 (68,94%). 
- Công cụ nghiên cứu được phát triển và sử 
dụng trên tổng quan tài liệu hướng dẫn đánh 
giá năng lực cựu sinh viên điều dưỡng tại Đại 
học Y Hà Nội [4], bộ câu hỏi gồm 2 phần:
+ Phần 1: Thông tin nhân khẩu học, đào tạo 
và đặc điểm công việc, kinh nghiệm, mối quan 
hệ, sự hỗ trợ nhận được. 
Mô tả sự tự đánh giá mức độ hỗ trợ của các 
môn học trong chương trình đào tạo với sự tự 
tin thông qua thang đo sự khác biệt từ 1 đến 5 
điểm (trong đó 1 điểm là không hỗ trợ, 5 điểm 
là hỗ trợ rất nhiều)
+ Phần 2: Đánh giá sự tự tin qua bộ câu 
hỏi sự tin tưởng hiệu quả cá nhân (Personal 
Efficacy Belief Scale) do Riggs và Knight phát 
triển gồm 10 câu, đánh giá theo thang điểm 
Likert từ 1 đến 5 điểm (tương ứng từ “rất không 
đồng ý” đến “rất đồng ý”). Điểm tổng từ 10 đến 
50 điểm, trong đó điểm cao có mức tự tin cao. 
3. Phân tích số liệu
Số liệu kiểm tra, làm sạch trước khi được 
nhập và phân tích bằng phần mềm SPSS 20.0, 
sử dụng thống kê mô tả về tần số, tỷ lệ, trung 
bình, độ lệch chuẩn và phép kiểm định T-test, 
ANOVA, tương quan Pearson.
4. Đạo đức nghiên cứu
Người tham gia được giải thích về mục tiêu 
và ý nghĩa của nghiên cứu, mọi thông tin liên 
quan sẽ được bảo mật hoàn toàn và người 
tham gia có thể rời nghiên cứu tại bất cứ thời 
điểm nào. Nghiên cứu được Hội đồng đề cương 
cao học của trường Đại học Y Hà Nội thông qua 
ngày 26 tháng 6 năm 2018 và cho phép thực 
hiện đề tài tại Quyết định số 165/QĐ-ĐHYHN 
ngày 25 tháng 01 năm 2019.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
130 TCNCYH 122 (6) - 2019
III. KẾT QUẢ
1. Một số thông tin về đặc điểm chung và quá trình đào tạo của đối tượng nghiên cứu
Có 131 điều dưỡng mới thoả mãn điều kiện chọn mẫu, đồng ý tham gia và hoàn thiện trả lời bộ 
câu hỏi nghiên cứu. 
Bảng 1. Thông tin chung và đặc điểm đào tạo của đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm n (%)
Giới
Nam 21 (16,0)
Nữ 110 (84,0)
Đào tạo chuyên ngành đang làm việc
Có 108 (82,4)
Không 23 (17,6)
Thời gian đào tạo chuyên ngành đang làm việc
< 3 tháng 22 (20,3)
3 tháng - 6 tháng 37 (34,3)
> 6 tháng 49 (45,4)
Vị trí công tác hiện tại
Điều dưỡng chăm sóc 94 (71,8)
Điều dưỡng quản lý 7 (5,3)
Vị trí khác 30 (22,9)
Số năm kinh nghiệm làm việc
1 - 12 tháng 73 (55,7)
12 - 24 tháng 43 (32,8)
Trên 24 tháng 15 (11,5)
Kiến thức từ bậc đại học hỗ trợ cho công việc 
hiện tại
Hỗ trợ ít 15 (11,5)
Hỗ trợ trung bình 50 (38,2)
Hỗ trợ nhiều 66 (50,4)
Điều dưỡng tham gia nghiên cứu có độ tuổi trung bình là 25,38 ± 1,06 trong đó, điều dưỡng là nữ 
chiếm đa số (84%). 71,8% đảm nhận vị trí điều dưỡng chăm sóc, 7 người (5,3%) đang là điều dưỡng 
trưởng nhóm chăm sóc. Đa số người tham gia nghiên cứu là nhóm điều dưỡng tốt nghiệp trong thời 
gian 24 tháng gần đây (88,5%). Hơn một nửa số điều dưỡng được hỏi (50,4%) có câu trả lời tự nhận 
thấy sự hỗ trợ từ kiến thức bậc đại học đối với công việc hiện tại hỗ trợ từ mức trung bình đến nhiều.
Bảng 2. Sự hỗ trợ của chương trình đào tạo với công việc hiện tại
Module học 
Hỗ trợ từ môn kỹ thuật điều dưỡng 4,13 ± 0,87
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
131TCNCYH 122 (6) - 2019
Module học 
Hỗ trợ từ môn kỹ năng tiền lâm sàng 3,33 ± 0,94
Hỗ trợ từ môn điều dưỡng chuyên ngành chính 3,50 ± 0,88 
Hỗ trợ từ môn điều dưỡng chuyên khoa lẻ 2,80 ± 0,97
Sự hỗ trợ từ các môn kỹ thuật điều dưỡng được đánh giá cao nhất, tiếp theo là từ các môn điều 
dưỡng chuyên ngành chính. Sự hỗ trợ của các môn điều dưỡng chuyên khoa lẻ được đánh giá thấp 
nhất.
 2. Mức độ tự tin của đối tượng nghiên cứu và một số yếu tố liên quan
Mức độ tự tin được đánh giá bằng bảng điểm tự tin trong thực hành. Điểm trung bình tự tin của 
đối tượng nghiên cứu là 35,2 ± 5,2. Tổng điểm nhỏ nhất các tiêu chí đánh giá sự tự tin của đối tượng 
nghiên cứu là 20 điểm, tổng điểm lớn nhất là 50 điểm. 
Sự tự tin của điều dưỡng được đánh giá theo 4 lĩnh vực, bao gồm:
+ Tự tin về kiến thức
+ Tự tin về kỹ năng trong thực hành chăm sóc điều dưỡng
+ Tự tin về khả năng hoàn thành công việc
+ Tự tin về khả năng phối hợp, hướng dẫn.
 Kết quả về mức độ tự tin từng lĩnh vực được biểu thị tóm tắt qua biểu đồ 1.
Biểu đồ 1. Mức độ tự tin của đối tượng nghiên cứu theo từng lĩnh vực
 Phần lớn điều dưỡng tham gia nghiên cứu tự tin về lĩnh vực kiến thức được trang bị (điểm trung 
bình tự tin: 3,72); tiếp đó là tự tin về những kỹ năng trên lâm sàng (3,62) và khả năng hoàn thành 
công việc (3,55). Lĩnh vực có mức độ tự tin thấp nhất là khả năng phối hợp, giáo dục, hướng dẫn 
trong thực hành điều dưỡng (3,15) 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
132 TCNCYH 122 (6) - 2019
Bảng 3. Mối liên quan giữa một số đặc điểm về vị trí việc làm, đặc điểm đào tạo và
 mức độ tự tin của đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm
Mức độ tự tin
T/F p
Giới
Nam 37,19 ± 5,90 
1,872 0,063
Nữ 34,87 ± 5,10 
Được đào tạo chuyên ngành làm 
việc hiện tại 
Có 35,60 ± 5,20 
1,612 0,109
Không 33,70 ± 5,30
Thời gian đào tạo chuyên ngành 
làm việc hiện tại
Dưới 3 tháng 33,82 ± 4,00
2,305 0,105Từ 3 - 6 tháng 35,30 ± 5,18
Trên 6 tháng 36,59 ± 5,19
Vị trí công việc hiện tại của điều 
dưỡng
Điều dưỡng chăm sóc 34,69 ± 5,55
2,393 0,095Điều dưỡng quản lý 38,43 ± 4,50 
Điều dưỡng vị trí khác 36,23 ± 3,99
Số năm kinh nghiệm làm việc
1 - 12 tháng 34,14 ± 5,03 
6,040 0,00312 - 24 tháng 35,84 ± 5,31 
Trên 24 tháng 38,93 ± 4,38
Sự hỗ trợ từ kiến thức đại học 
đối với công việc hiện tại
Hỗ trợ ít 33,53 ± 7,67 
8,280 0,001Hỗ trợ trung bình 33,44 ± 4,01
Hỗ trợ nhiều 37,00 ± 4,63
Kết quả cho thấy không có mối liên quan của giới tính, công việc hiện tại, được đào tạo chuyên 
ngành và thời gian đào tạo chuyên ngành với mức độ tự tin của điều dưỡng mới tốt nghiệp. Nhóm 
điều dưỡng có kinh nghiệm trên 24 tháng có điểm tự tin cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm có 
kinh nghiệm ít hơn. Điều dưỡng nhận thấy sự hỗ trợ kiến thức đại học trung bình đến nhiều có mức 
độ tự tin cao hơn so với nhóm điều dưỡng cảm thấy được hỗ trợ ít và rất ít.
Bảng 4. Mối liên quan giữa mức độ tự tin và các nhóm môn học Đại học
Đặc điểm r p
Hỗ trợ từ môn kỹ thuật điều dưỡng 0,186* 0,033
Hỗ trợ từ môn kỹ năng tiền lâm sàng 0,295** 0,001
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
133TCNCYH 122 (6) - 2019
IV. BÀN LUẬN
Đặc điểm r p
Hỗ trợ từ môn điều dưỡng chuyên ngành chính 0,155 0,078
Hỗ trợ từ môn điều dưỡng chuyên khoa lẻ 0,147 0,094
p-value được tính từ test tương quan PEARSON, * p < 0.05; ** p < 0,01
Có mối tương quan có ý nghĩa ở mức 0,01 giữa module kỹ năng tiền lâm sàng và module kỹ thuật 
điều dưỡng với mức độ tự tin của đối tượng nghiên cứu. Không có liên quan nào giữa sự hỗ trợ của 
các môn học còn lại đối với mức độ tự tin của điều dưỡng mới tốt nghiệp. 
Tuổi trung bình của đối tượng tham gia 
nghiên cứu là 25,38 (SD:1,06). Độ tuổi này phù 
hợp với đối tượng nghiên cứu là điều dưỡng 
vừa tốt nghiệp đại học trong vòng 3 năm. So 
sánh với nghiên cứu của Trương Quang Trung, 
tuổi trung bình của nghiên cứu này cao hơn [4]. 
Tuy nhiên, so với điều dưỡng mới tốt nghiệp 
của các nghiên cứu nước ngoài khác thì điều 
dưỡng Việt Nam ra trường với độ tuổi khá trẻ. 
Nhóm điều dưỡng mới trong nghiên cứu của 
Parker [9] tại Úc có tuổi trung bình là 29, nghiên 
cứu của Pfaff tại Ontario, Canada là 29 ± 6,28 
[10]. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ nam 
giới chiếm 16,8%, thấp hơn nhiều so với nữ 
giới. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu 
ở Hàn Quốc, với tỷ lệ nam giới tham gia nghiên 
cứu chỉ chiếm 0,6% [1] hoặc ở Singapore với 
8,8% [11].
Vị trí công tác hiện tại đa phần là điều dưỡng 
chăm sóc (71,8%). Tỷ lệ này tương đương với 
nghiên cứu của Trương Quang Trung (73,3%) 
[4]. Đây là một vị trí công việc phù hợp với 
những đối tượng mới tốt nghiệp đại học và 
chưa có nhiều kinh nghiệm trong công việc, áp 
dụng được những kiến thức và kỹ năng được 
học tập tại trường đại học. Trong số điều dưỡng 
tham gia nghiên cứu, có tới hơn 50% điều 
dưỡng có kinh nghiệm làm việc dưới 1 năm. Có 
thể do sau khi tốt nghiệp điều dưỡng chưa có 
việc làm ngay và sự luân chuyển khoa đối với 
điều dưỡng mới trong thời kỳ đầu mới đi làm.
Có tới 50,4% điều dưỡng đánh giá chương 
trình đào tạo đại học hỗ trợ họ ở mức độ nhiều 
và rất nhiều, 38,2% cho rằng chương trình này 
có mức hỗ trợ trung bình. Điều này có thể thấy 
chương trình đào tạo hiện tại cơ bản đã đáp 
ứng được nhu cầu công việc. Phần lớn điều 
dưỡng đã trải qua một khóa học chuyên ngành 
trước khi làm việc ở vị trí hiện tại, do điều 
dưỡng được đào tạo chính quy chủ yếu là điều 
dưỡng đa khoa, nên rất cần thiết phải đào tạo 
lại chuyên sâu phù hợp với đối tượng chăm sóc. 
Một nghiên cứu ở Úc cũng cho kết quả tương 
đương với 91,0% đối tượng điều dưỡng vừa tốt 
nghiệp đã được đào tạo thêm về chuyên ngành 
[9]. Điều dưỡng tham gia các khóa học đào tạo 
lại có thời gian khác nhau tùy từng lĩnh vực, so 
sánh với nghiên cứu của Trương Quang Trung, 
điều dưỡng trong nghiên cứu của chúng tôi có 
thời gian đào tạo lại dài hơn [4]. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy điểm trung 
bình mức độ tự tin của điều dưỡng mới là 35,2 
điểm (SD:5,25). Đây là điểm tự tin ở mức độ 
trung bình. Kết quả này tương đồng với một 
nghiên cứu được thực hiện tại Hàn Quốc với 
điểm trung bình tự tin là 35,66 ± 4,54, cao hơn 
nghiên cứu của Trương Quang Trung [1; 4]. Kết 
quả cho thấy điều dưỡng nam có điểm trung 
bình tự tin cao hơn Điều điều dưỡng nữ, nhưng 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
134 TCNCYH 122 (6) - 2019
điều này không có ý nghĩa thống kê. Nghiên 
cứu của Pfaff cho kết quả tương đồng với 
nghiên cứu của chúng tôi [10]. 
Đánh giá mức độ tự tin theo từng lĩnh vực, 
kết quả nghiên cứu cho thấy lĩnh vực tự tin về 
kiến thức được trang bị có điểm trung bình tự 
tin cao nhất. Điều này hoàn toàn phù hợp với 
đối tượng nghiên cứu là những điều dưỡng mới 
tốt nghiệp đại học trong vòng 3 năm, vì những 
kiến thức lý thuyết còn khá mới mẻ được cung 
cấp trong quá trình đại học. Từ đó, người điều 
dưỡng tự cảm thấy có thể áp dụng những kiến 
thức đã học trên lâm sàng một cách thành thạo, 
háo hức, tự tin khi thực hiện những kỹ năng 
thực hành chăm sóc người bệnh. Nghiên cứu 
của Duchscher có cùng nhận định với nghiên 
cứu của chúng tôi [3]. Đối tượng nghiên cứu 
là những điều dưỡng mới tốt nghiệp, chưa 
có nhiều kiến thức thực hành cũng như kinh 
nghiệm trên lâm sàng nên sự tự tin về khả năng 
hoàn thành công việc, đặc biệt là khả năng phối 
hợp, giáo dục, hướng dẫn với đồng nghiệp 
trong đội, nhóm chăm sóc còn nhiều hạn chế 
[1].
Các môn học trong chương trình Đại học đã 
được các điều dưỡng mới đánh giá có mức độ 
hỗ trợ khác nhau, trong đó môn kỹ năng tiền 
lâm sàng và môn kỹ thuật điều dưỡng cho kết 
quả liên quan có ý nghĩa thống kê với sự tự tin. 
Theo Baldwin, Ortiz và Kim chương trình đào 
tạo Đại học cung cấp nền tảng giúp cho sinh 
viên tự tin khi thực hành chuyên môn ở môi 
trường lâm sàng [6; 8; 12]. Điều dưỡng được 
đào tạo chuyên ngành làm việc từ 6 tháng trở 
lên trên 6 tháng có điểm trung bình mức độ tự 
tin cao hơn nhưng không có sự khác biệt có 
ý nghĩa thống kê, điều này cho thấy, đào tạo 
chuyên ngành cần chú trọng nhiều hơn đến 
chất lượng đào tạo. Nghiên cứu của Pfaff cũng 
cho thấy không có sự khác biệt [10].
Vị trí công việc hiện tại không có sự khác 
biệt về mức độ tự tin nhưng kinh nghiệm công 
tác có mối quan hệ với mức độ tự tin của đối 
tượng nghiên cứu, điều dưỡng làm việc trên 
2 năm có điểm tự tin cao hơn hẳn nhóm còn 
lại. Do giai đoạn sốc chuyển tiếp diễn ra trong 
1 đến 2 năm đầu tiên khi điều dưỡng bắt đầu 
công việc trong môi trường y tế chuyên nghiệp, 
đây là quá trình điều dưỡng làm quen, thích 
nghi với môi trường và áp lực công việc [2; 3]. 
V. KẾT LUẬN
 Mức độ tự tin của điều dưỡng khi làm việc 
tại các cơ sở y tế trong thời gian 3 năm đầu 
tiên sau tốt nghiệp trường Đại học Y Dược Thái 
Bình ở mức trung bình 35,2/50 điểm, đạt 70,4% 
so với thang điểm tuyệt đối về mức độ tự tin. Có 
mối liên quan giữa sự hỗ trợ của kiến thức đại 
học với sự tự tin của đối tượng nghiên cứu (p < 
0,05). Có tương quan thuận giữa sự tự tin với 
sự hỗ trợ của module học kỹ thuật điều dưỡng 
(r = 0,186, p < 0,05) và module kỹ năng tiền lâm 
sàng (r = 0,295, p < 0,05).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lee T. W., Ko Y. K. (2010). Effects of 
self - efficacy, affectivity and collective efficacy 
on nursing performance of hospital nurses. 
Journal of advanced nursing, 66(4), 839 - 848.
2. Casey K., Fink R. R., Krugman A. M. 
et al. (2004). The graduate nurse experience. 
Journal of Nursing Administration, 34(6), 303 - 
311.
3. Duchscher J. E. B. (2009). Transition 
shock: the initial stage of role adaptation for 
newly graduated registered nurses. Journal of 
advanced nursing, 65(5), 1103 - 1113.
4. Trương Quang Trung, Vũ Thị Hương, 
Nguyễn Thị Hương Lan (2017). Mức độ tự tin 
và năng lực thực hành của Điều dưỡng mới tốt 
nghiệp Đại học Y Hà Nội trong năm đầu tiêu 
làm việc tại các cơ sở y tế. Tạp chí Điều dưỡng 
Việt Nam, (20 - 2017), 71 - 75.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
135TCNCYH 122 (6) - 2019
Summary
 SELF – CONFIDENCE IN NURSING PRACTICE AMONG NEW 
GRADUATED NURSES FROM THAI BINH UNIVERSITY OF 
MEDICINE AND PHARMACY
The objectives of the study is to “describe the self - confidence in the first three years of nursing 
practice among new graduated nurses from Thai Binh University of Medicine and Pharmacy and 
describe several factors associated with self – confidence on clinical nursing practice”. A cross 
– sectional study design was utilized to assess the self – confidence among 131 nurses with 
Personal Efficacy Belief Scale developed by Riggs and Knight. The study results showed that the 
self – confidence of participants was in the average level (35.2 ± 5.25). The gained knowledge 
from university was significant associated with the self – confidence level (p < 0.05). There 
was a significant positive correlation between the self – confidence and the support of nursing 
techniques module (r = 0.186, p < 0.05) and pre-clinical skills module (r = 0.295, p < 0.05). 
Keywords: self - confidence, new graduated nurse, Thai Binh University of Medicine and 
Pharmacy.
5. Luthans K. W., Jensen S. M. (2005). 
The linkage between psychological capital and 
commitment to organizational mission: A study 
of nurses. Journal of Nursing Administration, 
35(6), 304 - 310.
6. Ortiz J. (2016). New graduate nurses’ 
experiences about lack of professional 
confidence. Nurse education in practice, 19, 19 
- 24.
7. Chesser-Smyth P. A., Long T. 
(2013). Understanding the influences on self-
confidence among first-year undergraduate 
nursing students in Ireland. Journal of Advanced 
Nursing, 69(1), 145 - 157.
8. Kim K. H., Lee A. Y., Eudey L. et al. 
(2014). Improving clinical competence and 
confidence of senior nursing students through 
clinical preceptorship. International Journal of 
nursing, 1(2), 183 - 209.
9. Parker V., Giles M., Lantry G. et al. 
(2014). New graduate nurses’ experiences 
in their first year of practice. Nurse Education 
Today, 34(1), 150 - 156.
10. Pfaff K. A., Baxter P. E., Jack S. M. 
et al. (2014). Exploring new graduate nurse 
confidence in interprofessional collaboration: 
A mixed methods study. International journal of 
nursing studies, 51(8), 1142 - 1152.
11. Chang Y., Li H. H., Wu C. et al. (2010). 
The influence of personality traits on nurses’ 
job satisfaction in Taiwan. International Nursing 
Review, 57(4), 478 - 484.
12. Baldwin A., Bentley K., Langtree T. 
et al. (2014). Achieving graduate outcomes in 
undergraduate nursing education: following the 
Yellow Brick Road. Nurse education in practice, 
14(1), 9 - 11.

File đính kèm:

  • pdfmuc_do_tu_tin_trong_thuc_hanh_cham_soc_nguoi_benh_cua_dieu_d.pdf