Mức độ hoạt động thể lực ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện đa khoa Đông Anh

Hoạt động thể lực là một phương pháp điều trị đái tháo đường nền tảng, hiệu quả và rẻ tiền. Nghiên cứu

nhằm mô tả mức độ hoạt động thể lực trên bệnh nhân đái tháo đường typ 2 điều trị ngoại trú tại bệnh viện

đa khoa Đông Anh. Nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên 342 bệnh nhân đái tháo đường được chẩn

đoán theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới 2010. Hoạt động thể lực được đánh giá bằng bộ câu hỏi

GPAQ (Global Physical Activity Questionnaire) phiên bản 2.0. Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là

62,9 ± 9,5. Tỷ lệ bệnh nhân có mức độ hoạt động thể lực đạt theo khuyến cáo của WHO (≥ 600 METs-phút/

tuần) chiếm 86,5%. Hoạt động thể lực giảm dần theo tuổi và nhóm nghề, nhóm viên chức có thời gian hoạt

động thể lực thấp nhất. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa thời gian tĩnh tại trung bình của hai giới

(p < 0,05).="" do="" đó="" cần="" có="" các="" khuyến="" cáo="" và="" biện="" pháp="" phù="" hợp="" nhằm="" nâng="" cao="" hoạt="" động="" thể="" lực="" và="">

thời gian tĩnh tại trong ngày

pdf 7 trang phuongnguyen 200
Bạn đang xem tài liệu "Mức độ hoạt động thể lực ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện đa khoa Đông Anh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mức độ hoạt động thể lực ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện đa khoa Đông Anh

Mức độ hoạt động thể lực ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện đa khoa Đông Anh
 166 TCNCYH 113 (4) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
MỨC ĐỘ HOẠT ĐỘNG THỂ LỰC Ở BỆNH NHÂN 
ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYP 2 ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ 
TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA ĐÔNG ANH 
Nguyễn Thị Tâm1, Phạm Thắng2, Vũ Thị Thanh Huyền2,3 
1Bệnh viện Đa khoa Đông Anh, 2Bệnh viện Lão khoa Trung ương, 3Trường Đại học Y Hà Nội 
Hoạt động thể lực là một phương pháp điều trị đái tháo đường nền tảng, hiệu quả và rẻ tiền. Nghiên cứu 
nhằm mô tả mức độ hoạt động thể lực trên bệnh nhân đái tháo đường typ 2 điều trị ngoại trú tại bệnh viện 
đa khoa Đông Anh. Nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên 342 bệnh nhân đái tháo đường được chẩn 
đoán theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới 2010. Hoạt động thể lực được đánh giá bằng bộ câu hỏi 
GPAQ (Global Physical Activity Questionnaire) phiên bản 2.0. Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 
62,9 ± 9,5. Tỷ lệ bệnh nhân có mức độ hoạt động thể lực đạt theo khuyến cáo của WHO (≥ 600 METs-phút/
tuần) chiếm 86,5%. Hoạt động thể lực giảm dần theo tuổi và nhóm nghề, nhóm viên chức có thời gian hoạt 
động thể lực thấp nhất. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa thời gian tĩnh tại trung bình của hai giới 
(p < 0,05). Do đó cần có các khuyến cáo và biện pháp phù hợp nhằm nâng cao hoạt động thể lực và giảm 
thời gian tĩnh tại trong ngày. 
Từ khóa: đái tháo đường, mức độ hoạt động thể lực 
Địa chỉ liên hệ: Vũ Thị Thanh Huyền, Viện Đào tạo Y học 
Dự phòng và Y tế công cộng, Trường Đại học Y Hà Nội 
Email: [email protected] 
Ngày nhận: 13/6/2018 
Ngày được chấp thuận: 15/8/2018 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Đái tháo đường hiện trở thành vấn đề toàn 
cầu và được xem là đại dịch của thế kỷ 21 [1]. 
Tần suất lưu hành bệnh ngày càng tăng, sự 
gia tăng nhanh chóng này có liên quan mật 
thiết sự thay đổi lối sống như chế độ ăn không 
lành mạnh, giảm hoạt động thể lực [2]. Đái 
tháo đường là bệnh mạn tính và có thể gây ra 
nhiều biến chứng nghiêm trọng (tim mạch, 
thận, mắt, thần kinh,...) làm giảm chất lượng 
cuộc sống và tiên lượng sống của bệnh nhân 
[3]. Bên cạnh đó là sự gia tăng chi phí trực 
tiếp và chi phí gián tiếp của bản thân, gia đình 
người bệnh, của toàn ngành y tế cũng như 
của toàn xã hội [4]. 
Đái tháo đường là bệnh có thể dự phòng 
sớm và điều trị bằng nhiều phương pháp. 
Nguyên tắc điều trị gồm thay đổi lối sống lành 
mạch và dùng thuốc. Trong đó, thay đổi lối 
sống như tăng cường hoạt động thể lực là 
phương thức điều trị nền tảng, hiệu quả và tiết 
kiệm kinh phí với nhiều bằng chứng rõ ràng 
[5; 6]. 
Lối sống ít vận động đã trở thành một trong 
năm yếu tố nguy cơ tiên lượng tử vong (gồm: 
tăng huyết áp, hút thuốc lá, đường máu cao, 
lối sống không vận động, thừa cân và béo phì) 
[6]. Hoạt động thể lực đầy đủ về tần suất, thời 
gian và cường độ có rất nhiều lợi ích cho sức 
khỏe, làm giảm nguy cơ mắc các bệnh tim 
mạch, bệnh đái tháo đường typ 2. Đối với 
bệnh nhân đái tháo đường, theo Hội Đái tháo 
đường Hoa Kỳ (ADA), hoạt động thể lực theo 
đúng khuyến cáo giúp kiểm soát đường máu, 
kiểm soát cân nặng, giảm các yếu tố nguy cơ 
tim mạch [7]. 
Dù được biết tới với nhiều lợi ích nhưng 
hoạt động thể lực ở Việt Nam còn chưa được 
 TCNCYH 113 (4) - 2018 167 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
quan tâm đúng mức. Các nghiên cứu ở nước 
ta về hoạt động thể lực trên bệnh nhân đái 
tháo đường còn khá hạn chế và chưa có 
nghiên cứu nào được công bố về mức độ hoạt 
động thể lực trên bệnh nhân đái tháo đường 
ngoại trú. Bệnh viện Đa khoa Đông Anh là một 
bệnh viện hạng 2 trực thuộc Sở Y tế Hà Nội 
với số bệnh nhân đái tháo đường typ 2 được 
chẩn đoán và tham gia điều trị ngoại trú ngày 
càng tăng với tốc độ khá nhanh từ 200 bệnh 
nhân (năm 2004) đến trên 3000 bệnh nhân 
(2016). Tuy nhiên, tỷ lệ bệnh nhân được kiểm 
soát tốt glucose máu tốt còn thấp, đời sống 
kinh tế không cao. Vấn đề đặt ra là làm thế 
nào để có thể phòng ngừa được sự phát triển 
của đái tháo đường và giảm thiểu chi phí điều 
trị bệnh. Bởi vậy, nghiên cứu được tiến hành 
với mục tiêu đánh giá thực trạng mức độ hoạt 
động thể lực của bệnh nhân đái tháo đường 
typ 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đa khoa 
Đông Anh. 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
1. Đối tượng 
Bệnh nhân đái tháo đường đã được chẩn 
đoán là đái tháo đường typ 2 đang điều trị 
ngoại trú tại bệnh viện Đa khoa Đông Anh. 
Tiêu chuẩn lựa chọn 
- Được chẩn đoán đái tháo đường theo 
tiêu chuẩn của của Tổ chức Y tế Thế giới 
2010 [8]. 
- Có khả năng trả lời phỏng vấn 
Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhân không 
đồng ý tham gia nghiên cứu. 
2. Phương pháp 
Thời gian nghiên cứu: từ tháng 01/2016 
đến tháng 10/2016. 
Địa điểm nghiên cứu: Khoa Khám bệnh, 
Bệnh viện Đa khoa Đông Anh 
Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt ngang, 
chọn mẫu thuận tiện trên các bệnh nhân đái 
tháo đường điều trị ngoại trú tại bệnh viện đa 
khoa Đông Anh 
Phương pháp thu thập số liệu 
Bệnh nhân được hỏi trực tiếp bởi nghiên 
cứu viên đã được đào tạo sử dụng bộ câu hỏi 
GPAQ phiên bản 2.0 để đánh giá mức độ hoạt 
động thể lực của bệnh nhân [9]. Các ví dụ về 
hoạt động thể lực tương ứng tại địa phương 
và hình ảnh được đưa ra để giảm thiểu sai số. 
Bộ câu hỏi được phát triển từ bộ câu hỏi IPAQ 
(International Physical Activity Questionaire). 
Tuy không có giá trị cao hơn bộ câu hỏi IPAQ 
nhưng bộ câu hỏi GPAQ đã được đánh giá 
giá trị tại Việt Nam và cho thấy có sự tương 
ứng trung bình khi so sánh với phương pháp 
đo mức độ hoạt động thể lực trực tiếp [10]. 
Bộ câu hỏi gồm 16 câu về tần suất (ngày/
tuần), thời gian (giờ hoặc phút/ngày) sử dụng 
để hoạt động thể lực mức độ nặng hoặc trung 
bình ở 3 lĩnh vực: 1) Hoạt động tại nơi làm 
việc (P1- P6). 2) Hoạt động đi lại (P7- P9). 3) 
Hoạt động giải trí (P10 - P15). Và câu hỏi về 
thời gian hoạt động tĩnh tại (P16). 
Các chỉ tiêu nghiên cứu: Hỏi bệnh và khám 
lâm sàng theo mẫu bệnh án nghiên cứu:tuổi 
(được chia thành 4 nhóm tuổi: < 45 tuổi, 45 - 
55 tuổi, 55 - 65 tuổi, > 65 tuổi), nghề nghiệp 
(công nhân, nông dân, thủ công, viên chức, 
nội trợ, nghỉ hưu, thất nghiệp, nghề nghiệp 
khác), mức độ hoạt động thể lực (tính theo 
đơn vị METs-phút/tuần, trong đó: tổng số 
METs- phút/ tuần = [(P2 × P3 × 8) + (P5 × P6 
× 4) + (P8 × P9 × 4) + (P11 × P12 × 8) +(P14 
× P15 × 4)]), chỉ số khối cơ thể (BMI -Body 
 168 TCNCYH 113 (4) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Mass Index, đơn vị: kg/m²), vòng eo (cm), 
vòng hông (cm), chỉ số eo hông (WHR), huyết 
áp (mmHg), các xét nghiệm (glucose lúc đói, 
glucose máu sau ăn 2h, HbA1c). 
Mức độ hoạt động thể lực: Tổng số METs- 
phút/ tuần được tính bởi tổng tất cả các lĩnh 
vực. Mức độ hoạt động thể lực được gọi là đạt 
theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới 
khi đạt ≥ 600 METs-phút/tuần. 
3. Xử lý số liệu: sử dụng phần mềm SPSS 
16.0, tính các giá trị trung bình, so sánh các 
giá trị trung bình, p < 0,05 có ý nghĩa thống kê. 
4. Đạo đức nghiên cứu 
Tất cả các thông tin của bệnh nhân được 
sử dụng nhằm phục vụ nghiên cứu và được 
bảo mật hoàn toàn. Nghiên cứu được tiến 
hành nhằm cung cấp cơ sở khoa học cho các 
biện pháp can thiệp về hoạt động thể lực cho 
bệnh nhân đái tháo đường. 
III. KẾT QUẢ 
1. Đặc điểm chung của bệnh nhân 
Bảng 1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu (n = 342) 
Đặc điểm Giá trị trung bình ( ± SD) 
Tuổi (năm) 62,6 ± 9,5 
 BMI (kg/m2) 22,2 ± 2,6 
 Vòng eo (cm) 84,9 ± 7,8 
 Chỉ số eo hông (WHR) 0,92 ± 0,05 
 Huyết áp tâm thu (mmHg) 121,7 ± 15,1 
 Huyết áp tâm trương (mmHg) 76,8 ± 7,9 
Glucose đói (mmol/l) 6,9 ± 1,7 
HbA1c (%) 7,9 ± 2,9 
Glucose sau ăn 2h 12,0 ± 3,5 
Giá trị BMI trung bình là 22,2 ± 2,6 kg/m2, bệnh nhân thừa cân, béo phì chiếm 29,5%.Hầu hết 
có chỉ số eo hông (WHR) tăng gặp ở 336 bệnh nhân chiếm tới 98,2%. Trong 342 bệnh nhân 
nghiên cứu về mức độ hoạt động thể lực, giá trị đường máu đói trung bình là 6,9 ± 1,7 mmol/l; 
Giá trị HbA1c trung bình là 7,9 ± 2,9%. 
2. Mức độ hoạt động thể lực của bệnh nhân đái tháo đường typ 2 
2.1. Tỷ lệ bệnh nhân hoạt động thể lực đạt theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới 
Tỷ lệ có mức độ hoạt động thể lực đạt theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới ở nữ là 
88,1%, có xu hướng cao hơn so với ở nam là 84,5%, sự khác biệt giữa hai giới không có ý nghĩa 
thống kê (p > 0,05) (bảng 2). 
X
 TCNCYH 113 (4) - 2018 169 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Bảng 2. Tỷ lệ bệnh nhân có mức độ hoạt động thể lực đạt theo khuyến cáo 
của Tổ chức Y tế Thế giới theo giới (n = 342) 
Mức độ hoạt động thể lực 
Nam (n1 = 148) Nữ (n2 = 194) 
p 
Tần số % Tần số % 
Đạt 125 84,5 171 88,1 0,203 > 
0,05 Không đạt 23 15,5 23 11,9 
3.2.2. Mức độ hoạt động thể lực của bệnh nhân theo nhóm tuổi 
Biểu đồ 1. Mức độ hoạt động thể lực của bệnh nhân theo nhóm tuổi (n = 342) 
Mức độ hoạt động thể lực của bệnh nhân giảm dần theo tuổi. Giá trị METs/tuần đạt cao nhất ở 
nhóm < 45 tuổi, đạt khoảng 3000 và thấp nhất ở nhóm trên 65 tuổi, chỉ số này chỉ đạt dưới 500, 
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p = 0,001. 
3.2.3. Mối liên quan giữa thời gian hoạt động thể lực và nghề nghiệp 
Thời gian hoạt động thể lực tổng/tuần 
Công 
nhân 
Nông 
dân 
Thủ 
công 
Viên 
chức 
Nội 
trợ 
Thất 
nghiệp 
(có thể 
làm việc) 
Nghỉ 
hưu 
Khác Thất 
nghiệp 
(không 
thể làm 
việc) 
Thời gian hoạt động thể lực tổng/tuần 
Biểu đồ 2. Thời gian hoạt động thể lực của bệnh nhân theo nhóm nghề nghiệp (N = 342) 
 170 TCNCYH 113 (4) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Thời gian hoạt động thể lực trung bình của viên chức là thấp nhất (38,4 ± 22,9 phút/ngày). 
Công nhân, nông dân và các nghề lao động khác đều có thời gian hoạt động thể lực trung bình 
trên 60 phút/ngày. 
3.2.4. Thời gian tĩnh tại 
Bảng 3. Thời gian tĩnh tại của nhóm bệnh nhân được nghiên cứu 
về mức độ hoạt động thể lực (n = 342) 
Giới Thời gian tĩnh tại (phút/ngày) (± SD) p 
Nam (n1 = 148) 190,5 ± 101,4 
0,001 
Nữ (n2 = 194) 223,6 ± 129,9 
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa thời gian tĩnh tại trung bình của hai giới, trong đó 
thời gian tĩnh tại của nữ cao hơn của nam với p = 0,001. 
IV. BÀN LUẬN 
Độ tuổi trung bình nhóm đối tượng nghiên 
cứu của chúng tôi là 62,9 ± 9,5 tuổi, không có 
sự khác nhau giữa hai giới (p > 0,05). Nhóm 
tuổi 60 – 69 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất 46,5%. 
Kết quả này phù hợp với đặc điểm bệnh ĐTĐ 
typ 2 tiến triển âm thầm, thường được chẩn 
đoán ở độ tuổi trung niên. 
Giá trị chỉ số khối cơ thể trung bình là 22,2 
± 2,6 kg/m². Có 29 bệnh nhân thừa cân và 
béo phì chiếm 29,5% thấp hơn so với kết quả 
nghiên cứu của Lê Thị Thúy Hiền (2012) là 
56,5% [10] và cao hơn kết quả nghiên cứu 
của Tạ Văn Bình và cộng sự (2006) trên các 
bệnh nhân đái tháo đường đến khám lần đầu 
tiên, tỷ lệ thừa cân béo phì chiếm 33,8% [11]. 
Tỷ lệ béo bụng dựa vào vòng eo trong 
nghiên cứu của chúng tôi là 78,4 %, tương tự 
kết quả nghiên cứu của tác giả Lê Thị Thúy 
Hiền là 78,0% [10] và cao hơn kết quả của tác 
giả Tạ Văn Bình là 35% [11]. Hầu hết bệnh 
nhân trong nghiên cứu của chúng tôi có chỉ số 
eo hông tăng, thể hiện tình trạng thừa mỡ 
bụng - cũng là một trong các yếu tố thể hiện 
tình trạng kháng insulin. Kết quả trên khẳng 
định hơn nữa đặc điểm nhân trắc học cần lưu 
ý là với cùng trị số BMI, tỷ lệ béo bụng của 
người Châu Á cao hơn so với người châu Âu 
[2]. Vì vậy, trong thăm khám lâm sàng cần 
quan tâm hơn tới vòng eo và chỉ số eo hông 
ngoài BMI của bệnh nhân. 
Giá trị đường máu đói trung bình của bệnh 
nhân 6,9 ± 1,7 mmol/l, giá trị thấp nhất là 3,6 
mmol/l; giá trị cao nhất là 24,3 mmol/l. Giá trị 
HbA1c trung bình là 7,9 ± 2,9%, giá trị glucose 
sau ăn trung bình 12,0 ± 3,5 mmol/l. Kết quả 
trên cho thấy vấn đề kiểm soát đường máu ở 
đây còn gặp nhiều khó khăn. 
Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu có mức độ 
hoạt động thể lực đạt khuyến cáo của Tổ 
chức Y tế Thế giới chiếm 86,5%. Kết quả 
nghiên cứu của chúng tôi cao hơn kết quả 
nghiên cứu của Nguyễn Hồng Trang (2013), tỷ 
lệ có mức độ hoạt động thể lực đủ là 60,0% 
[12]. Cả hai nghiên cứu đều được tiến hành ở 
Hà Nội tại hai thời điểm cách nhau 3 năm, giải 
thích cho sự khác biệt một phần là do sự khác 
 TCNCYH 113 (4) - 2018 171 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
biệt về bộ câu hỏi sử dụng để đánh giá mức 
độ hoạt động thể lực, nghiên cứu của chúng 
tôi sử dụng bộ câu hỏi GPAQ còn tác giả 
Nguyễn Hồng Trang sử dụng bộ câu hỏi 
IPAQ. Bộ câu hỏi GPAQ là tương đối phù hợp 
với nhóm đối tượng nghiên cứu của chúng tôi 
với đa số đều nghỉ hưu, trong khi đó IPAQ là 
bộ câu hỏi thích hợp cho quần thể có mức độ 
hoạt động thể lực khác nhau [15]. 
Tỷ lệ bệnh nhân hoạt động thể lực đạt 
khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới theo 
kết quả nghiên cứu của chúng tôi cao hơn gấp 
hai lần so với nghiên cứu tại khu vực thành thị 
của Trung Quốc (2005), tỷ lệ này chỉ đạt 
21,8% [13]. Như vậy, cùng với sự thay đổi về 
cơ sở hạ tầng kết quả của quá trình đô thị hóa 
– công nghiệp hóa đất nước, những nghề 
nghiệp cần ít hoạt động thể lực tăng lên. Kết 
quả là tỷ lệ đối tượng hoạt động thể lực không 
đủ càng giảm khi nền kinh tế càng phát triển. 
Tỷ lệ bệnh nhân hoạt động thể lực đạt khuyến 
cáo của Tổ chức Y tế Thế giới giảm dần theo 
độ tuổi. Kết quả này tương tự kết quả của 
Nguyễn Hồng Trang (2013) và của Paul M và 
cộng sự (2005) [12; 13]. 
Thời gian tĩnh tại trung bình trong nghiên 
cứu là 3,49 ± 1,99 giờ/ngày. Kết quả nghiên 
cứu của chúng tôi thấp hơn theo nghiên cứu 
của Âu Bích Thủy tại Cần Thơ là 4,1 giờ/ngày 
và Nguyên Đô Nguyên là 5,7 ± 3,7 giờ/ngày 
[14; 15]. Theo Tatiana và cộng sự thời gian 
tĩnh tại cao hơn 3,29 giờ/ngày là yếu tố dự 
báo tăng nguy cơ tử vong do nguyên nhân tim 
mạch cao hơn 64% so với nhóm có thời gian 
tĩnh tại < 1,57 giờ/ngày [16]. Như vậy, tuy thời 
gian tĩnh tại theo các nghiên cứu ở nước ta là 
khác nhau nhưng đều cao hơn 3,29 giờ/ngày. 
Kết quả trên cho thấy cần tuyên truyền sâu 
rộng hơn nữa và có chiến lược can thiệp phù 
hợp để không những làm tăng mức độ hoạt 
động thể lực mà còn làm giảm thời gian tĩnh 
tại trong ngày, nhất là cho nhóm bệnh nhân 
đái tháo đường. 
V. KẾT LUẬN 
Kết quả nghiên cứu cho thấy cần có biện 
pháp can thiệp nhằm nâng cao hoạt động thể 
lực trên bệnh nhân đái tháo đường typ 2 ngoại 
trú, đặc biệt trên các đối tượng viên chức, tuổi 
cao (trên 65 tuổi). Bên cạnh cần có chiến lược 
phù hợp để giảm thời gian tĩnh tại trong ngày, 
đặc biệt trên nữ giới. 
Lời cảm ơn 
Nhóm nghiên cứu trân trọng cảm ơn Ban 
giám đốc và các phòng ban Bệnh viện Đa 
khoa Đông Anh đã tạo điều kiện giúp đỡ trong 
quá trình nghiên cứu 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. David C. Klonoff (2009). The Increasing 
Incidence of Diabetes in the 21st Century. J 
Diabetes Sci Technol, 3(1), 1 –2. 
2. Brugnara L, Murillo S, Novials A 
(2016). Low Physical Activity and Its Associa-
tion with Diabetes and Other Cardiovascular 
Risk Factors: A Nationwide, Population-Based 
Study. PLoS One, 11(8), 17. 
3. Aikaterini T, Athanasia K , Andreas M
(2017). Type 2 diabetes and quality of life. 
World J Diabetes, 8(4), 120 – 129. 
4. Juliana L , Shreekant P, Kelly F(2014). 
The high-cost, type 2 diabetes mellitus patient: 
an analysis of managed care administrative 
data. Arch Public Health, 72(1), 6. 
5. Miller YD, Dunstan DW (2014). The 
effectiveness of physical activity interven-
tions for the treatment of overweight and 
obesity and type 2 diabetes. J Sci Med 
Sport, 7(1), 52 - 59. 
6. Sadarangani KP, Hamer M, Mindell JS 
(2014). Physical activity and risk of all-cause 
 172 TCNCYH 113 (4) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
and cardiovascular disease mortality in dia-
betic adults from Great Britain: pooled analysis 
of 10 population-based cohorts. Diabetes 
Care, 37(4), 1016 - 1023. 
7. American Diabetes Association (ADA) 
(2014). Standards of Medical care in Diabetes. 
Diabetes Care, 37(1), 14 – 80. 
8. American Diabetes Association(2011). 
Diagnosis and Classification of Diabetes Melli-
tus. Diabetes Care, 34(1), S62 – S69. 
9. WHO (2006). Global Physical Activity 
Questionnaire (GPAQ): Analysis Guide. 
10. Lê Thị Thúy Hiền (2012). Khảo sát 
thực trạng thực hiện chế độ ăn và luyện tập 
trên bệnh nhân đái tháo đường typ 2 tại bệnh 
viện Lão khoa Trung ương. Trường đại học Y 
Hà Nội. 
11. Tạ Văn Bình (2006). Dịch tễ học đái 
tháo đường ở Việt Nam, các phương pháp 
điều trị và biện pháp dự phòng. Nhà xuất bản 
Y học. 
12. Nguyễn Hồng Trang (2013). Thực 
trạng hoạt động thể lực và một số yếu tố liên 
quan của bệnh nhân tăng huyết áp tại xã 
Trường Yên, huyện Chương Mỹ, Hà Nội năm 
2013. Trường đại học Y tế công cộng. 
13. Paul Muntner, Donfeng Gu (2005). 
Prevalence of Physical Activity Among Chi-
nese Adults: Results From the International 
Collaborative Study of Cardiovascular Disease 
in Asia. American Joural of Public Health, 95
(9), 1631 - 1636. 
14. Au Bich Thuy, Leigh Blizzard (2010). 
Reliability and Validity of the Global Physical 
Activity Questionnaire in Vietnam. Journal of 
Physical Activity and Health, 7, 410 - 418. 
15. Oanh T.H. Trinh, Nguyen Do Nguyen, 
and Hidde P. van der Ploeg et al (2009). 
Test-Retest Repeatability and Relative Validity 
of the Global Physical Activity Questionnaire in 
a Developing Country Context. Journal of 
Physical Activity and Health, 6(1), 46 - 53. 
16. Tatiana Y. Warren, Vaughn Barry et 
al (2010). Sedentary Behaviors Increase Risk 
of Cardiovascular Disease Mortality in Men. 
Medicine and Science in Sports and Exercise, 
42(5), 879 – 885. 
17. World Health Organization (WHO). 
(2009). Global health risks: Mortality and bur-
den of disease attributable to selected major 
risks 
Summary 
EVALUATION ON PHYSICAL ACTIVITY LEVEL OF OUTPATIENTS 
WITH TYPE 2 DIABETES IN DONG ANH GENERAL HOSPITAL 
Physical activity is one of the most basic, effective, and cost-effective strategies in 
the treatment of diabetes. This purpose of this study is to describe the level of physical activity in 
type 2 diabetic patients treated at outpatient clinic, Dong Anh General Hospital. A cross-sectional 
descriptive study was conducted in 342 patients, diagnosed with diabetes type 2 according to 
WHO 2010 criteria. Global Physical Activity Questionnaire (GPAQ) version 2.0 was used to ac-
cess the level of physical activity. The mean age of subjects was 62.9 ± 9.5. The proportion of 
patients who achieved a WHO recommended level of activity (≥ 600 METS-minutes/week) was 
86.5%. Reduction in physical activity was related with age and occupational groups; the profes-
sional group had the lowest physical activity time. There was a statistically significant difference in 
the mean static time between genders (p < 0.05). Therefore, appropriate recommendations are 
needed to improve physical activity and reduce sedentary hours. 
Key words: Diabetes, Physical activity, diabetes 

File đính kèm:

  • pdfmuc_do_hoat_dong_the_luc_o_benh_nhan_dai_thao_duong_typ_2_di.pdf