Mức độ hoạt động thể lực ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện đa khoa Đông Anh
Hoạt động thể lực là một phương pháp điều trị đái tháo đường nền tảng, hiệu quả và rẻ tiền. Nghiên cứu
nhằm mô tả mức độ hoạt động thể lực trên bệnh nhân đái tháo đường typ 2 điều trị ngoại trú tại bệnh viện
đa khoa Đông Anh. Nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên 342 bệnh nhân đái tháo đường được chẩn
đoán theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới 2010. Hoạt động thể lực được đánh giá bằng bộ câu hỏi
GPAQ (Global Physical Activity Questionnaire) phiên bản 2.0. Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là
62,9 ± 9,5. Tỷ lệ bệnh nhân có mức độ hoạt động thể lực đạt theo khuyến cáo của WHO (≥ 600 METs-phút/
tuần) chiếm 86,5%. Hoạt động thể lực giảm dần theo tuổi và nhóm nghề, nhóm viên chức có thời gian hoạt
động thể lực thấp nhất. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa thời gian tĩnh tại trung bình của hai giới
(p < 0,05).="" do="" đó="" cần="" có="" các="" khuyến="" cáo="" và="" biện="" pháp="" phù="" hợp="" nhằm="" nâng="" cao="" hoạt="" động="" thể="" lực="" và="">
thời gian tĩnh tại trong ngày
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mức độ hoạt động thể lực ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện đa khoa Đông Anh

166 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC MỨC ĐỘ HOẠT ĐỘNG THỂ LỰC Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYP 2 ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA ĐÔNG ANH Nguyễn Thị Tâm1, Phạm Thắng2, Vũ Thị Thanh Huyền2,3 1Bệnh viện Đa khoa Đông Anh, 2Bệnh viện Lão khoa Trung ương, 3Trường Đại học Y Hà Nội Hoạt động thể lực là một phương pháp điều trị đái tháo đường nền tảng, hiệu quả và rẻ tiền. Nghiên cứu nhằm mô tả mức độ hoạt động thể lực trên bệnh nhân đái tháo đường typ 2 điều trị ngoại trú tại bệnh viện đa khoa Đông Anh. Nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên 342 bệnh nhân đái tháo đường được chẩn đoán theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới 2010. Hoạt động thể lực được đánh giá bằng bộ câu hỏi GPAQ (Global Physical Activity Questionnaire) phiên bản 2.0. Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 62,9 ± 9,5. Tỷ lệ bệnh nhân có mức độ hoạt động thể lực đạt theo khuyến cáo của WHO (≥ 600 METs-phút/ tuần) chiếm 86,5%. Hoạt động thể lực giảm dần theo tuổi và nhóm nghề, nhóm viên chức có thời gian hoạt động thể lực thấp nhất. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa thời gian tĩnh tại trung bình của hai giới (p < 0,05). Do đó cần có các khuyến cáo và biện pháp phù hợp nhằm nâng cao hoạt động thể lực và giảm thời gian tĩnh tại trong ngày. Từ khóa: đái tháo đường, mức độ hoạt động thể lực Địa chỉ liên hệ: Vũ Thị Thanh Huyền, Viện Đào tạo Y học Dự phòng và Y tế công cộng, Trường Đại học Y Hà Nội Email: [email protected] Ngày nhận: 13/6/2018 Ngày được chấp thuận: 15/8/2018 I. ĐẶT VẤN ĐỀ Đái tháo đường hiện trở thành vấn đề toàn cầu và được xem là đại dịch của thế kỷ 21 [1]. Tần suất lưu hành bệnh ngày càng tăng, sự gia tăng nhanh chóng này có liên quan mật thiết sự thay đổi lối sống như chế độ ăn không lành mạnh, giảm hoạt động thể lực [2]. Đái tháo đường là bệnh mạn tính và có thể gây ra nhiều biến chứng nghiêm trọng (tim mạch, thận, mắt, thần kinh,...) làm giảm chất lượng cuộc sống và tiên lượng sống của bệnh nhân [3]. Bên cạnh đó là sự gia tăng chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp của bản thân, gia đình người bệnh, của toàn ngành y tế cũng như của toàn xã hội [4]. Đái tháo đường là bệnh có thể dự phòng sớm và điều trị bằng nhiều phương pháp. Nguyên tắc điều trị gồm thay đổi lối sống lành mạch và dùng thuốc. Trong đó, thay đổi lối sống như tăng cường hoạt động thể lực là phương thức điều trị nền tảng, hiệu quả và tiết kiệm kinh phí với nhiều bằng chứng rõ ràng [5; 6]. Lối sống ít vận động đã trở thành một trong năm yếu tố nguy cơ tiên lượng tử vong (gồm: tăng huyết áp, hút thuốc lá, đường máu cao, lối sống không vận động, thừa cân và béo phì) [6]. Hoạt động thể lực đầy đủ về tần suất, thời gian và cường độ có rất nhiều lợi ích cho sức khỏe, làm giảm nguy cơ mắc các bệnh tim mạch, bệnh đái tháo đường typ 2. Đối với bệnh nhân đái tháo đường, theo Hội Đái tháo đường Hoa Kỳ (ADA), hoạt động thể lực theo đúng khuyến cáo giúp kiểm soát đường máu, kiểm soát cân nặng, giảm các yếu tố nguy cơ tim mạch [7]. Dù được biết tới với nhiều lợi ích nhưng hoạt động thể lực ở Việt Nam còn chưa được TCNCYH 113 (4) - 2018 167 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC quan tâm đúng mức. Các nghiên cứu ở nước ta về hoạt động thể lực trên bệnh nhân đái tháo đường còn khá hạn chế và chưa có nghiên cứu nào được công bố về mức độ hoạt động thể lực trên bệnh nhân đái tháo đường ngoại trú. Bệnh viện Đa khoa Đông Anh là một bệnh viện hạng 2 trực thuộc Sở Y tế Hà Nội với số bệnh nhân đái tháo đường typ 2 được chẩn đoán và tham gia điều trị ngoại trú ngày càng tăng với tốc độ khá nhanh từ 200 bệnh nhân (năm 2004) đến trên 3000 bệnh nhân (2016). Tuy nhiên, tỷ lệ bệnh nhân được kiểm soát tốt glucose máu tốt còn thấp, đời sống kinh tế không cao. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để có thể phòng ngừa được sự phát triển của đái tháo đường và giảm thiểu chi phí điều trị bệnh. Bởi vậy, nghiên cứu được tiến hành với mục tiêu đánh giá thực trạng mức độ hoạt động thể lực của bệnh nhân đái tháo đường typ 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đa khoa Đông Anh. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Đối tượng Bệnh nhân đái tháo đường đã được chẩn đoán là đái tháo đường typ 2 đang điều trị ngoại trú tại bệnh viện Đa khoa Đông Anh. Tiêu chuẩn lựa chọn - Được chẩn đoán đái tháo đường theo tiêu chuẩn của của Tổ chức Y tế Thế giới 2010 [8]. - Có khả năng trả lời phỏng vấn Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu. 2. Phương pháp Thời gian nghiên cứu: từ tháng 01/2016 đến tháng 10/2016. Địa điểm nghiên cứu: Khoa Khám bệnh, Bệnh viện Đa khoa Đông Anh Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt ngang, chọn mẫu thuận tiện trên các bệnh nhân đái tháo đường điều trị ngoại trú tại bệnh viện đa khoa Đông Anh Phương pháp thu thập số liệu Bệnh nhân được hỏi trực tiếp bởi nghiên cứu viên đã được đào tạo sử dụng bộ câu hỏi GPAQ phiên bản 2.0 để đánh giá mức độ hoạt động thể lực của bệnh nhân [9]. Các ví dụ về hoạt động thể lực tương ứng tại địa phương và hình ảnh được đưa ra để giảm thiểu sai số. Bộ câu hỏi được phát triển từ bộ câu hỏi IPAQ (International Physical Activity Questionaire). Tuy không có giá trị cao hơn bộ câu hỏi IPAQ nhưng bộ câu hỏi GPAQ đã được đánh giá giá trị tại Việt Nam và cho thấy có sự tương ứng trung bình khi so sánh với phương pháp đo mức độ hoạt động thể lực trực tiếp [10]. Bộ câu hỏi gồm 16 câu về tần suất (ngày/ tuần), thời gian (giờ hoặc phút/ngày) sử dụng để hoạt động thể lực mức độ nặng hoặc trung bình ở 3 lĩnh vực: 1) Hoạt động tại nơi làm việc (P1- P6). 2) Hoạt động đi lại (P7- P9). 3) Hoạt động giải trí (P10 - P15). Và câu hỏi về thời gian hoạt động tĩnh tại (P16). Các chỉ tiêu nghiên cứu: Hỏi bệnh và khám lâm sàng theo mẫu bệnh án nghiên cứu:tuổi (được chia thành 4 nhóm tuổi: < 45 tuổi, 45 - 55 tuổi, 55 - 65 tuổi, > 65 tuổi), nghề nghiệp (công nhân, nông dân, thủ công, viên chức, nội trợ, nghỉ hưu, thất nghiệp, nghề nghiệp khác), mức độ hoạt động thể lực (tính theo đơn vị METs-phút/tuần, trong đó: tổng số METs- phút/ tuần = [(P2 × P3 × 8) + (P5 × P6 × 4) + (P8 × P9 × 4) + (P11 × P12 × 8) +(P14 × P15 × 4)]), chỉ số khối cơ thể (BMI -Body 168 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Mass Index, đơn vị: kg/m²), vòng eo (cm), vòng hông (cm), chỉ số eo hông (WHR), huyết áp (mmHg), các xét nghiệm (glucose lúc đói, glucose máu sau ăn 2h, HbA1c). Mức độ hoạt động thể lực: Tổng số METs- phút/ tuần được tính bởi tổng tất cả các lĩnh vực. Mức độ hoạt động thể lực được gọi là đạt theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới khi đạt ≥ 600 METs-phút/tuần. 3. Xử lý số liệu: sử dụng phần mềm SPSS 16.0, tính các giá trị trung bình, so sánh các giá trị trung bình, p < 0,05 có ý nghĩa thống kê. 4. Đạo đức nghiên cứu Tất cả các thông tin của bệnh nhân được sử dụng nhằm phục vụ nghiên cứu và được bảo mật hoàn toàn. Nghiên cứu được tiến hành nhằm cung cấp cơ sở khoa học cho các biện pháp can thiệp về hoạt động thể lực cho bệnh nhân đái tháo đường. III. KẾT QUẢ 1. Đặc điểm chung của bệnh nhân Bảng 1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu (n = 342) Đặc điểm Giá trị trung bình ( ± SD) Tuổi (năm) 62,6 ± 9,5 BMI (kg/m2) 22,2 ± 2,6 Vòng eo (cm) 84,9 ± 7,8 Chỉ số eo hông (WHR) 0,92 ± 0,05 Huyết áp tâm thu (mmHg) 121,7 ± 15,1 Huyết áp tâm trương (mmHg) 76,8 ± 7,9 Glucose đói (mmol/l) 6,9 ± 1,7 HbA1c (%) 7,9 ± 2,9 Glucose sau ăn 2h 12,0 ± 3,5 Giá trị BMI trung bình là 22,2 ± 2,6 kg/m2, bệnh nhân thừa cân, béo phì chiếm 29,5%.Hầu hết có chỉ số eo hông (WHR) tăng gặp ở 336 bệnh nhân chiếm tới 98,2%. Trong 342 bệnh nhân nghiên cứu về mức độ hoạt động thể lực, giá trị đường máu đói trung bình là 6,9 ± 1,7 mmol/l; Giá trị HbA1c trung bình là 7,9 ± 2,9%. 2. Mức độ hoạt động thể lực của bệnh nhân đái tháo đường typ 2 2.1. Tỷ lệ bệnh nhân hoạt động thể lực đạt theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới Tỷ lệ có mức độ hoạt động thể lực đạt theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới ở nữ là 88,1%, có xu hướng cao hơn so với ở nam là 84,5%, sự khác biệt giữa hai giới không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) (bảng 2). X TCNCYH 113 (4) - 2018 169 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Bảng 2. Tỷ lệ bệnh nhân có mức độ hoạt động thể lực đạt theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới theo giới (n = 342) Mức độ hoạt động thể lực Nam (n1 = 148) Nữ (n2 = 194) p Tần số % Tần số % Đạt 125 84,5 171 88,1 0,203 > 0,05 Không đạt 23 15,5 23 11,9 3.2.2. Mức độ hoạt động thể lực của bệnh nhân theo nhóm tuổi Biểu đồ 1. Mức độ hoạt động thể lực của bệnh nhân theo nhóm tuổi (n = 342) Mức độ hoạt động thể lực của bệnh nhân giảm dần theo tuổi. Giá trị METs/tuần đạt cao nhất ở nhóm < 45 tuổi, đạt khoảng 3000 và thấp nhất ở nhóm trên 65 tuổi, chỉ số này chỉ đạt dưới 500, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p = 0,001. 3.2.3. Mối liên quan giữa thời gian hoạt động thể lực và nghề nghiệp Thời gian hoạt động thể lực tổng/tuần Công nhân Nông dân Thủ công Viên chức Nội trợ Thất nghiệp (có thể làm việc) Nghỉ hưu Khác Thất nghiệp (không thể làm việc) Thời gian hoạt động thể lực tổng/tuần Biểu đồ 2. Thời gian hoạt động thể lực của bệnh nhân theo nhóm nghề nghiệp (N = 342) 170 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Thời gian hoạt động thể lực trung bình của viên chức là thấp nhất (38,4 ± 22,9 phút/ngày). Công nhân, nông dân và các nghề lao động khác đều có thời gian hoạt động thể lực trung bình trên 60 phút/ngày. 3.2.4. Thời gian tĩnh tại Bảng 3. Thời gian tĩnh tại của nhóm bệnh nhân được nghiên cứu về mức độ hoạt động thể lực (n = 342) Giới Thời gian tĩnh tại (phút/ngày) (± SD) p Nam (n1 = 148) 190,5 ± 101,4 0,001 Nữ (n2 = 194) 223,6 ± 129,9 Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa thời gian tĩnh tại trung bình của hai giới, trong đó thời gian tĩnh tại của nữ cao hơn của nam với p = 0,001. IV. BÀN LUẬN Độ tuổi trung bình nhóm đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là 62,9 ± 9,5 tuổi, không có sự khác nhau giữa hai giới (p > 0,05). Nhóm tuổi 60 – 69 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất 46,5%. Kết quả này phù hợp với đặc điểm bệnh ĐTĐ typ 2 tiến triển âm thầm, thường được chẩn đoán ở độ tuổi trung niên. Giá trị chỉ số khối cơ thể trung bình là 22,2 ± 2,6 kg/m². Có 29 bệnh nhân thừa cân và béo phì chiếm 29,5% thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của Lê Thị Thúy Hiền (2012) là 56,5% [10] và cao hơn kết quả nghiên cứu của Tạ Văn Bình và cộng sự (2006) trên các bệnh nhân đái tháo đường đến khám lần đầu tiên, tỷ lệ thừa cân béo phì chiếm 33,8% [11]. Tỷ lệ béo bụng dựa vào vòng eo trong nghiên cứu của chúng tôi là 78,4 %, tương tự kết quả nghiên cứu của tác giả Lê Thị Thúy Hiền là 78,0% [10] và cao hơn kết quả của tác giả Tạ Văn Bình là 35% [11]. Hầu hết bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi có chỉ số eo hông tăng, thể hiện tình trạng thừa mỡ bụng - cũng là một trong các yếu tố thể hiện tình trạng kháng insulin. Kết quả trên khẳng định hơn nữa đặc điểm nhân trắc học cần lưu ý là với cùng trị số BMI, tỷ lệ béo bụng của người Châu Á cao hơn so với người châu Âu [2]. Vì vậy, trong thăm khám lâm sàng cần quan tâm hơn tới vòng eo và chỉ số eo hông ngoài BMI của bệnh nhân. Giá trị đường máu đói trung bình của bệnh nhân 6,9 ± 1,7 mmol/l, giá trị thấp nhất là 3,6 mmol/l; giá trị cao nhất là 24,3 mmol/l. Giá trị HbA1c trung bình là 7,9 ± 2,9%, giá trị glucose sau ăn trung bình 12,0 ± 3,5 mmol/l. Kết quả trên cho thấy vấn đề kiểm soát đường máu ở đây còn gặp nhiều khó khăn. Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu có mức độ hoạt động thể lực đạt khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới chiếm 86,5%. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cao hơn kết quả nghiên cứu của Nguyễn Hồng Trang (2013), tỷ lệ có mức độ hoạt động thể lực đủ là 60,0% [12]. Cả hai nghiên cứu đều được tiến hành ở Hà Nội tại hai thời điểm cách nhau 3 năm, giải thích cho sự khác biệt một phần là do sự khác TCNCYH 113 (4) - 2018 171 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC biệt về bộ câu hỏi sử dụng để đánh giá mức độ hoạt động thể lực, nghiên cứu của chúng tôi sử dụng bộ câu hỏi GPAQ còn tác giả Nguyễn Hồng Trang sử dụng bộ câu hỏi IPAQ. Bộ câu hỏi GPAQ là tương đối phù hợp với nhóm đối tượng nghiên cứu của chúng tôi với đa số đều nghỉ hưu, trong khi đó IPAQ là bộ câu hỏi thích hợp cho quần thể có mức độ hoạt động thể lực khác nhau [15]. Tỷ lệ bệnh nhân hoạt động thể lực đạt khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi cao hơn gấp hai lần so với nghiên cứu tại khu vực thành thị của Trung Quốc (2005), tỷ lệ này chỉ đạt 21,8% [13]. Như vậy, cùng với sự thay đổi về cơ sở hạ tầng kết quả của quá trình đô thị hóa – công nghiệp hóa đất nước, những nghề nghiệp cần ít hoạt động thể lực tăng lên. Kết quả là tỷ lệ đối tượng hoạt động thể lực không đủ càng giảm khi nền kinh tế càng phát triển. Tỷ lệ bệnh nhân hoạt động thể lực đạt khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới giảm dần theo độ tuổi. Kết quả này tương tự kết quả của Nguyễn Hồng Trang (2013) và của Paul M và cộng sự (2005) [12; 13]. Thời gian tĩnh tại trung bình trong nghiên cứu là 3,49 ± 1,99 giờ/ngày. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn theo nghiên cứu của Âu Bích Thủy tại Cần Thơ là 4,1 giờ/ngày và Nguyên Đô Nguyên là 5,7 ± 3,7 giờ/ngày [14; 15]. Theo Tatiana và cộng sự thời gian tĩnh tại cao hơn 3,29 giờ/ngày là yếu tố dự báo tăng nguy cơ tử vong do nguyên nhân tim mạch cao hơn 64% so với nhóm có thời gian tĩnh tại < 1,57 giờ/ngày [16]. Như vậy, tuy thời gian tĩnh tại theo các nghiên cứu ở nước ta là khác nhau nhưng đều cao hơn 3,29 giờ/ngày. Kết quả trên cho thấy cần tuyên truyền sâu rộng hơn nữa và có chiến lược can thiệp phù hợp để không những làm tăng mức độ hoạt động thể lực mà còn làm giảm thời gian tĩnh tại trong ngày, nhất là cho nhóm bệnh nhân đái tháo đường. V. KẾT LUẬN Kết quả nghiên cứu cho thấy cần có biện pháp can thiệp nhằm nâng cao hoạt động thể lực trên bệnh nhân đái tháo đường typ 2 ngoại trú, đặc biệt trên các đối tượng viên chức, tuổi cao (trên 65 tuổi). Bên cạnh cần có chiến lược phù hợp để giảm thời gian tĩnh tại trong ngày, đặc biệt trên nữ giới. Lời cảm ơn Nhóm nghiên cứu trân trọng cảm ơn Ban giám đốc và các phòng ban Bệnh viện Đa khoa Đông Anh đã tạo điều kiện giúp đỡ trong quá trình nghiên cứu TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. David C. Klonoff (2009). The Increasing Incidence of Diabetes in the 21st Century. J Diabetes Sci Technol, 3(1), 1 –2. 2. Brugnara L, Murillo S, Novials A (2016). Low Physical Activity and Its Associa- tion with Diabetes and Other Cardiovascular Risk Factors: A Nationwide, Population-Based Study. PLoS One, 11(8), 17. 3. Aikaterini T, Athanasia K , Andreas M (2017). Type 2 diabetes and quality of life. World J Diabetes, 8(4), 120 – 129. 4. Juliana L , Shreekant P, Kelly F(2014). The high-cost, type 2 diabetes mellitus patient: an analysis of managed care administrative data. Arch Public Health, 72(1), 6. 5. Miller YD, Dunstan DW (2014). The effectiveness of physical activity interven- tions for the treatment of overweight and obesity and type 2 diabetes. J Sci Med Sport, 7(1), 52 - 59. 6. Sadarangani KP, Hamer M, Mindell JS (2014). Physical activity and risk of all-cause 172 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC and cardiovascular disease mortality in dia- betic adults from Great Britain: pooled analysis of 10 population-based cohorts. Diabetes Care, 37(4), 1016 - 1023. 7. American Diabetes Association (ADA) (2014). Standards of Medical care in Diabetes. Diabetes Care, 37(1), 14 – 80. 8. American Diabetes Association(2011). Diagnosis and Classification of Diabetes Melli- tus. Diabetes Care, 34(1), S62 – S69. 9. WHO (2006). Global Physical Activity Questionnaire (GPAQ): Analysis Guide. 10. Lê Thị Thúy Hiền (2012). Khảo sát thực trạng thực hiện chế độ ăn và luyện tập trên bệnh nhân đái tháo đường typ 2 tại bệnh viện Lão khoa Trung ương. Trường đại học Y Hà Nội. 11. Tạ Văn Bình (2006). Dịch tễ học đái tháo đường ở Việt Nam, các phương pháp điều trị và biện pháp dự phòng. Nhà xuất bản Y học. 12. Nguyễn Hồng Trang (2013). Thực trạng hoạt động thể lực và một số yếu tố liên quan của bệnh nhân tăng huyết áp tại xã Trường Yên, huyện Chương Mỹ, Hà Nội năm 2013. Trường đại học Y tế công cộng. 13. Paul Muntner, Donfeng Gu (2005). Prevalence of Physical Activity Among Chi- nese Adults: Results From the International Collaborative Study of Cardiovascular Disease in Asia. American Joural of Public Health, 95 (9), 1631 - 1636. 14. Au Bich Thuy, Leigh Blizzard (2010). Reliability and Validity of the Global Physical Activity Questionnaire in Vietnam. Journal of Physical Activity and Health, 7, 410 - 418. 15. Oanh T.H. Trinh, Nguyen Do Nguyen, and Hidde P. van der Ploeg et al (2009). Test-Retest Repeatability and Relative Validity of the Global Physical Activity Questionnaire in a Developing Country Context. Journal of Physical Activity and Health, 6(1), 46 - 53. 16. Tatiana Y. Warren, Vaughn Barry et al (2010). Sedentary Behaviors Increase Risk of Cardiovascular Disease Mortality in Men. Medicine and Science in Sports and Exercise, 42(5), 879 – 885. 17. World Health Organization (WHO). (2009). Global health risks: Mortality and bur- den of disease attributable to selected major risks Summary EVALUATION ON PHYSICAL ACTIVITY LEVEL OF OUTPATIENTS WITH TYPE 2 DIABETES IN DONG ANH GENERAL HOSPITAL Physical activity is one of the most basic, effective, and cost-effective strategies in the treatment of diabetes. This purpose of this study is to describe the level of physical activity in type 2 diabetic patients treated at outpatient clinic, Dong Anh General Hospital. A cross-sectional descriptive study was conducted in 342 patients, diagnosed with diabetes type 2 according to WHO 2010 criteria. Global Physical Activity Questionnaire (GPAQ) version 2.0 was used to ac- cess the level of physical activity. The mean age of subjects was 62.9 ± 9.5. The proportion of patients who achieved a WHO recommended level of activity (≥ 600 METS-minutes/week) was 86.5%. Reduction in physical activity was related with age and occupational groups; the profes- sional group had the lowest physical activity time. There was a statistically significant difference in the mean static time between genders (p < 0.05). Therefore, appropriate recommendations are needed to improve physical activity and reduce sedentary hours. Key words: Diabetes, Physical activity, diabetes
File đính kèm:
muc_do_hoat_dong_the_luc_o_benh_nhan_dai_thao_duong_typ_2_di.pdf