Mức độ đáp ứng đối với nhu cầu giáo dục mầm non Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay

Tóm tắt

Bài viết đề cập đến mức độ đáp ứng của giáo dục mầm non Thành phố Hồ Chí Minh với một số nhu cầu

giáo dục mầm non trong giai đoạn hiện nay. Kết quả cho thấy mức độ đáp ứng của giáo dục mầm non

với nhu cầu thực tế hiện nay trên các bình diện chỉ ở mức trung bình khá. Trong đó, các vấn đề cần quan

tâm nhiều nhất hiện nay là phát triển thêm hệ thống trường ngoài công lập, hoàn thiện hệ thống trường

công lập, chú ý các vấn đề về cơ sở vật chất lớp học, số lượng trẻ trong mỗi lớp và chuyên môn của giáo

viên mầm non.

Từ khóa: mức độ, đáp ứng, giáo dục mầm non, mức độ đáp ứng của giáo dục mầm non

pdf 8 trang phuongnguyen 660
Bạn đang xem tài liệu "Mức độ đáp ứng đối với nhu cầu giáo dục mầm non Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mức độ đáp ứng đối với nhu cầu giáo dục mầm non Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay

Mức độ đáp ứng đối với nhu cầu giáo dục mầm non Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 4(29) - Thaùng 6/2015 
25 
Mức độ đáp ứng đối với nhu cầu giáo dục mầm non 
Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay 
Level of responses of preschool education in Ho Chi Minh City with some needs during current 
PGS.TS. Huỳnh Văn Sơn 
Trường Đại học Sư phạm TP.HCM 
Assoc.Prof.,Ph.D. Huynh Van Son, 
Ho Chi Minh City University of Pedagogy 
Tóm tắt 
Bài viết đề cập đến mức độ đáp ứng của giáo dục mầm non Thành phố Hồ Chí Minh với một số nhu cầu 
giáo dục mầm non trong giai đoạn hiện nay. Kết quả cho thấy mức độ đáp ứng của giáo dục mầm non 
với nhu cầu thực tế hiện nay trên các bình diện chỉ ở mức trung bình khá. Trong đó, các vấn đề cần quan 
tâm nhiều nhất hiện nay là phát triển thêm hệ thống trường ngoài công lập, hoàn thiện hệ thống trường 
công lập, chú ý các vấn đề về cơ sở vật chất lớp học, số lượng trẻ trong mỗi lớp và chuyên môn của giáo 
viên mầm non. 
Từ khóa: mức độ, đáp ứng, giáo dục mầm non, mức độ đáp ứng của giáo dục mầm non 
Abstract 
The article mentions the level of responses of presschool education in HCM city with some needs 
currently. The results showed that on many aspects, the level of responses of presschool education in 
HCM city with the current reality are inadequate. It is only average. In particular, the issues of most 
concern now is to develop the non-public school systems, improve the system of public schools, pay 
attention to the classroom facilities, the number of children in each class and the expertise of preschool 
teachers. 
Keywords: level, responses, presschool education, level of responses of presschool education 
1. Đặt vấn đề 
Thành phố Hồ Chí Minh được xem là 
trung tâm phát triển kinh tế của cả nước. 
Với gia tốc phát triển dân số thì áp lực về 
giáo viên mầm non trở thành một vấn đề 
của giáo dục Thành phố. Theo số liệu 
chính thức của Sở GD và ĐT Thành phố 
Hồ Chí Minh thì năm học 2013 - 2014, 
tổng số giáo viên mầm non (cả công lập và 
tư thục) của Thành phố Hồ Chí Minh là 
18.585 giáo viên. Trong nhiều năm qua, 
các trường mầm non công lập đã được đầu 
tư khá nhiều. Nhiều trường rất quan tâm 
đến việc chuẩn bị cơ sở trường lớp nhưng 
yêu cầu về mặt nguồn nhân lực đúng nghĩa 
lại là một thách thức. Thực tế cho thấy, 
giáo dục mầm non ở Thành phố Hồ Chí 
Minh có một số điểm đặc điểm như sau: 
trình độ giáo viên mầm non không đồng 
đều, trong khi phụ huynh lại đòi hỏi có một 
đội ngũ giáo viên trình độ cao hơn chuẩn 
(Cao đẳng - Đại học), cơ sở vật chất của 
nhiều cơ sở giáo dục mầm non chưa tương 
thích hay đồng bộ với trình độ nhân lực, 
26 
Bên cạnh đó, tình trạng thiếu giáo viên 
mầm non ở Thành phố Hồ Chí Minh vẫn là 
một thách thức khi việc đào tạo vẫn liên 
tục nhưng thiếu giáo viên mầm non ở một 
số quận huyện vẫn diễn ra hàng năm, 
Với sự phát triển không ngừng nêu 
trên, liệu rằng giáo dục mầm non có đáp 
ứng được với những yêu cầu ngày càng cao 
của xã hội? Tìm hiểu mức độ đáp ứng của 
giáo dục mầm non TP.HCM với một số 
nhu cầu giáo dục từ thực tiễn trong giai 
đoạn hiện nay góp phần đưa ra những biện 
pháp phù hợp trong việc phát triển nền giáo 
dục mầm non nói chung và đội ngũ giáo 
viên mầm non nói riêng. 
2. Nội dung 
Hiện nay toàn Thành phố Hồ Chí Minh 
có số lượng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo 
viên mầm non với tổng số 20.669 người, 
trong đó cán bộ quản lý là 2.125 người 
(công lập: 1.179, ngoài công lập: 946) và 
giáo viên là 18.544 người (công lập: 9.076, 
ngoài công lập: 9.468). Để đảm bảo chất 
lượng khảo sát sâu sát nhất đến từng khách 
thể nghiên cứu, chúng tôi tiến hành khảo sát 
trên ba nhóm khách thể, bao gồm 240 khách 
thể thuộc nhóm Ban giám hiệu và cán bộ 
quản lý giáo dục mầm non, 435 giáo viên 
mầm non và 1210 phụ huynh của trẻ mầm 
non. Tỷ lệ này tương đối phù hợp và có ý 
nghĩa về mặt thống kê toán học. Số liệu 
nghiên cứu được tiến hành từ tháng 5 năm 
2013 đến tháng 5 năm 2014. Có thể mô tả 
khái quát kết quả nghiên cứu như sau: 
Bảng 1. Mức độ đáp ứng của Giáo dục mầm non TP.HCM 
về một số nhu cầu trên bình diện chung 
TT NỘI DUNG 
MỨC ĐỘ ĐÁP ỨNG Điểm trung bình 
Cao 
Khá 
cao 
Trung 
bình 
Khá 
thấp 
Thấp 
CB 
QL 
Giáo 
viên 
Phụ 
huynh 
1 
Loại 
hình 
trường 
Công lập 9 
(3.8) 
62 
(25.8) 
169 
(70.4) 
0 0 3.33 3.23 2.40 
Bán công 18 
(7.5) 
80 
(33.3) 
137 
(57.1) 
5 
(2.1) 
0 3.46 3.38 4.00 
Dân lập 35 
(14.6) 
99 
(41.3) 
101 
(42.1) 
5 
(2.1) 
0 3.68 3.54 4.00 
Tư thục 10 
(4.2) 
54 
(22.5) 
100 
(41.7) 
71 
(29.6) 
0 2.95 3.30 4.32 
Nhóm trẻ 
gia đình 
55 
(22.9) 
56 
(23.3) 
101 
(42.1) 
10 
(4.2) 
13 
(5.4) 
3.48 3.45 4.35 
27 
TT NỘI DUNG 
MỨC ĐỘ ĐÁP ỨNG Điểm trung bình 
Cao 
Khá 
cao 
Trung 
bình 
Khá 
thấp 
Thấp 
CB 
QL 
Giáo 
viên 
Phụ 
huynh 
2 
Điều 
kiện về 
lớp học 
Số lượng 
trẻ mỗi lớp 
58 
(24.2) 
85 
(35.4) 
97 
940.4) 
0 0 3.83 3.75 3.28 
Phòng sinh 
hoạt chung 
32 
(13.3) 
97 
(40.4) 
106 
(44.2) 
5 
(2.1) 
0 3.65 3.60 3.33 
Phòng học 27 
(11.3) 
93 
(38.8) 
115 
(47.9) 
5 
(2.1) 
0 3.60 3.65 3.53 
Phòng ngủ 47 
(19.6) 
88 
(36.7) 
96 
(40.0) 
9 
(3.8) 
0 3.72 3.68 3.54 
Phòng vệ 
sinh 
34 
(14.2) 
97 
(40.4) 
104 
(43.3) 
5 
(2.1) 
0 3.67 3.00 3.00 
Phòng thể 
chất, nghệ 
thuật 
48 
(20.0) 
89 
(37.1) 
99 
(41.3) 
4 
(1.7) 
0 3.75 3.40 3.35 
3 
Điều 
kiện về 
trường 
Diện tích, 
thiết kế, 
xây dựng 
70 
(29.2) 
75 
(31.3) 
95 
(39.6) 
0 0 3.90 3.00 3.23 
Cây cảnh - 
hoa viên 
57 
(23.8) 
87 
(36.3) 
96 (40) 0 0 3.84 3.02 3.54 
Sân chơi 56 
(23.3) 
79 
(32.9) 
101 
(42.1) 
0 0 3.75 3.40 3.30 
Vườn cây 
dành cho 
trẻ 
50 
74 
(30.4) 
105 
(43.8) 
5 
(2.1) 
6 3.65 3.44 3.60 
4 
Điều 
kiện về 
giáo 
viên 
Trình độ 39 
(16.3) 
91 
(37.9) 
101 
(42.1) 
4 
(1.7) 
5 
(2.1) 
3.65 4.00 3.89 
Độ tuổi - 
thâm niên 
35 
(14.6) 
88 
(36.7) 
113 
(47.1) 
4 
(1.7) 
0 3.64 3.57 3.70 
Giới tính 10 
(4.2) 
110 
(45.8) 
116 
(48.3) 
4 
(1.7) 
0 3.53 3.50 4.00 
28 
TT NỘI DUNG 
MỨC ĐỘ ĐÁP ỨNG Điểm trung bình 
Cao 
Khá 
cao 
Trung 
bình 
Khá 
thấp 
Thấp 
CB 
QL 
Giáo 
viên 
Phụ 
huynh 
Kiến thức 
chăm sóc 
và giáo dục 
trẻ 
5 (2.1) 
91 
(37.9) 
125 
(52.1) 
4 
(1.7) 
5 
(2.1) 
3.24 3.68 3.60 
Kỹ năng 
chăm sóc 
và giáo dục 
trẻ 
20 
(8.3) 
96 (40) 
120 
(50.0) 
4 
(1.7) 
0 3.45 3.70 3.58 
Đạo đức 
nghề 
nghiệp 
20 
(8.3) 
86 
(35.8) 
130 
(34.2) 
4 
(1.7) 
0 3.51 4.52 4.30 
5 
Các vấn 
đề khác 
Nội dung 
giáo dục trẻ 
20 
(8.3) 
91 
(37.9) 
125 
(52.1) 
4 
(1.7) 
0 3.53 3.55 3.00 
Phương 
pháp giáo 
dục trẻ 
20 
(8.3) 
73 
(30.4) 
138 
(57.5) 
4 
(1.7) 
5 
(2.1) 
3.41 3.30 3.00 
Quan hệ 
giáo viên - 
trẻ - phụ 
huynh 
25 
(10.4) 
73 
(30.4) 
138 
(57.5) 
4 
(1.7) 
0 3.50 4.56 4.00 
Dựa theo sự đánh giá của cán bộ quản 
lý mức độ đáp ứng của Giáo dục mầm non 
TP.HCM về một số nhu cầu trên bình diện 
chung, kết quả thống kê trên bảng 2.18 cho 
thấy điểm trung bình (ĐTB) thấp nhất là 
2.95 và cao nhất là 3.90 rơi vào mức đáp 
ứng trung bình và khá. Cụ thể trên từng nhu 
cầu giáo dục mầm non, có thể thấy như sau: 
Về mức độ đáp ứng loại hình trường, 
trong 5 loại hình trường mầm non được liệt 
kê, mức độ đáp ứng có ĐTB cao nhất là 
trường Dân lập với 3.68 (mức đáp ứng 
khá), tổng hai mức tốt và khá đến 55.9% 
(14.6% tốt và 41.3% khá). Thực hiện chủ 
trương xã hội hóa giáo dục, nhất là đối với 
bậc học mầm non, ở nhiều quận huyện tại 
TP.HCM đã khuyến khích đầu tư xây dựng 
hệ thống trường, lớp mầm non dân lập, tư 
thục ngày càng nhiều, đáp ứng khá tốt nhu 
cầu học tập và vui chơi của trẻ em. Tuy 
nhiên, theo số liệu thống kê thì hệ thống 
trường tư thục chỉ mới đáp ứng với mức độ 
4.2% là tốt, 22.5% là khá, ĐTB là 2.95 
thấp nhất trong 5 loại hình trường. Việc 
khuyến khích đầu tư phát triển các trường 
mầm non dân lập, tư thục là một chủ 
trương đúng đắn, góp phần nâng cao chất 
lượng giáo dục tại các địa phương. Hệ 
thống các trường này đã góp phần tích cực 
trong việc huy động mọi trẻ em trong độ 
29 
tuổi được đến trường; đồng thời, giải tỏa áp 
lực cho các trường mầm non công lập.Vì 
thế, bên cạnh sự quan tâm, tạo điều kiện, 
ngành Giáo dục cũng sẽ tăng cường kiểm 
tra, quản lý, kịp thời hướng dẫn những khó 
khăn mà các trường gặp phải để không 
ngừng nâng cao chất lượng giáo dục, đảm 
bảo quyền lợi cho trẻ cũng như tạo niềm 
tin trong phụ huynh. Như vậy, có thể thấy 
việc phát triển trường mầm non ngoài công 
lập hiện nay chưa tiến hành một cách đồng 
bộ, trường bán công với ĐTB = 3.46, nhóm 
trẻ gia đình với ĐTB = 3.48 rơi vào mức 
độ đáp ứng trung bình. Đặc biệt cần lưu ý 
khi hệ thống trường công lập theo ý kiến từ 
phụ huynh chỉ đáp ứng ở mức thấp với 
ĐTB là 2.40, cán bộ quản lý và giáo viên 
với ĐTB lần lượt là 3.33 và 3.23 rơi vào 
mức trung bình. Điều này minh chứng rõ 
về sự kỳ vọng của phụ hunh vào sự phát 
triển hệ thống trường công lập. 
Về điều kiện lớp học, cán bộ quản lý 
đánh giá ba yếu tố với ĐTB trên 3.70, mức 
độ đáp ứng khá: số lượng trẻ mỗi lớp (ĐTB 
= 3.83, 24.2% ở mức độ tốt và 35.4% ở 
mức độ khá), phòng thể chất – nghệ 
thuật (ĐTB = 3.75, 20.0% ở mức độ tốt 
và 37.1% ở mức độ khá), phòng ngủ (ĐTB 
= 3.72, 19.6% ở mức độ tốt và 36.7% ở 
mức độ khá). Giáo viên mầm non cũng 
đánh giá nội dung “số lượng trẻ mỗi lớp” 
và “phòng ngủ” với ĐTB cao nhất, lần lượt 
là 3.75 và 3.68. Phụ huynh cũng đồng ý 
“phòng ngủ” đáp ứng tốt hơn các nội dung 
khác với ĐTB là 3.54. Trong nội dung về 
điều kiện lớp học, không có nội dung nào 
cán bộ quản lý đánh giá dưới mức độ khá. 
Đây là một thông tin đáng mừng. Tuy 
nhiên, dữ kiện từ giáo viên cho thấy hai nội 
dung “phòng vệ sinh” (ĐTB = 3.00) và 
“Phòng thể chất, nghệ thuật” (ĐTB = 
3.40) chỉ đáp ứng ở mức trung bình. Về 
phía phụ huynh có 4/5 nội dung phụ huynh 
đánh giá rằng chỉ mới đáp ứng ở mức trung 
bình, trong đó “phòng vệ sinh” (ĐTB = 
3.00) và “số lượng trẻ mỗi lớp” (ĐTB = 
3.28) là hai vấn đề đáp ứng thấp nhất. Nếu 
như ở các trường mầm non công lập, trung 
bình sĩ số mỗi lớp thường khoảng 40 - 45 
cháu với 2 cô phụ trách (khối mẫu giáo) 
hoặc 35 - 40 cháu/lớp và 3 cô phụ trách 
(khối nhà trẻ) thì ở các trường tư thục, dân 
lập, đặc biệt là những trường mầm non tư 
thục chất lượng cao, sĩ số này chỉ ở trong 
khoảng 10 - 25 cháu/lớp. Điều đó khiến 
phụ huynh yên tâm hơn hẳn khi gửi con tại 
đây. Trong khi các trường công lập chỉ bắt 
đầu nhận trẻ từ 24 tháng, một số trường 
nhận trẻ từ 18 tháng trở lên (từ năm 2014 
có một số trường thí điểm nhận trẻ từ 6 
tháng), thì các trường tư thục sẵn sàng 
nhận trẻ từ 6 tháng, thậm chí 5 tháng tuổi. 
Đây là những lý do chủ yếu khiến rất nhiều 
phụ huynh tìm đến các trường mầm non tư 
thục chất lượng cao khi những yếu tố về 
phòng học, nhà vệ sinh, phòng ăn và số 
lượng trẻ mỗi lớp thỏa mãn nhu cầu của 
họ. Hầu hết các trường tư thục đã nhanh 
chóng nắm bắt tâm lý của các gia đình có 
thu nhập cao nên ngoài chương trình học 
theo quy định, trẻ còn có điều kiện tham 
gia các hoạt động ngoại khoá khá phong 
phú. Bên cạnh đó, đáp ứng nhu cầu của đối 
tượng lao động có thu nhập thấp, các nhóm 
trẻ gia đình cũng “trăm hoa đua nở”, chủ 
yếu trông các cháu nhiều hơn là dạy và sĩ 
số trong mỗi nhóm trẻ gia đình thường 
xuyên vượt quy định, ảnh hưởng đến chất 
lượng chăm sóc trẻ. 
Về điều kiện trường học, ĐTB cán bộ 
quản lý đánh giá tương đối cao hơn các nội 
dung khác. Cao nhất là nội dung “Diện 
tích, thiết kế, xây dựng” với ĐTB là 3.90 
rơi vào mức độ khá, cụ thể với 29.2% ở 
mức độ tốt và 31.3% ở mức độ khá (tổng 
hai mức độ này là 65.5%). Tuy nhiên, giáo 
viên mầm non và phụ huynh thì đánh giá ở 
mức trung bình với ĐTB lần lượt là 3.00 và 
3.23. Trả lời phỏng vấn, phụ huynh T.L.H 
cho rằng: “Nếu nhà nước có thể dành nhiều 
khoảng đất công để xây trường mầm non 
theo mô hình công viên cây xanh mini thì 
30 
điều này rất tốt cho sự phát triển thể chất 
lẫn tinh thần của trẻ.” Giáo viên N.T.C cho 
biết: “Tham quan các trường mầm non bên 
nước ngoài nghĩ lại thấy thương cho trẻ 
mầm non của mình. Mong rằng các trường 
mầm non được đầu tư tốt hơn về diện tích 
cũng như các chức năng khác một cách 
hiện đại hơn để trẻ có điều kiện phát triển 
tốt nhất”. Những yếu tố còn lại, cán bộ 
quản lý điều đánh giá ở mức khá, cụ thể: 
“Cây cảnh - hoa viên” (ĐTB = 3.84), “Sân 
chơi” (ĐTB = 3.75), “Vườn cây dành cho 
trẻ” (ĐTB = 3.65). Tuy nhiên về phía giáo 
viên mầm non họ chỉ đánh giá ở mức trung 
bình, cao nhất là nội dung “Vườn cây cho 
trẻ” với 3.44 nhưng vẫn chưa đạt mức khá. 
Về phía phụ huynh, “Vườn cây cho trẻ” và 
“Cây cảnh – hoa viên” được đánh giá mức 
đáp ứng là khá với ĐTB lần lượt là 3.60 và 
3.54. Tại các trường mầm non không thể 
thiếu cây xanh, cây bóng mát. Để có được 
khuôn viên đẹp, trong lành, mát mẻ giúp 
các em học sinh có một môi trường lành 
mạnh thì việc trồng cây xanh cho nhà 
trường là rất quan trọng. Trồng cây xanh 
trong trường học tạo bầu không khí thoáng 
mát, môi trường học tập nhẹ nhàng, thân 
thiện. Tuy nhiên, không phải trường nào 
cũng có điều điện về diện tích cũng như tài 
chính để thực hiện. Phỏng vấn ý kiến của 
phụ huynh L.H.H, vị này cho biết: “Dù 
trường mầm non con tôi học rất nhỏ, song 
các cô giáo cũng tận dụng tất cả khoảng 
trống để tạo góc xanh cho trẻ, sân thượng 
là một vườn cây nho nhỏ giúp trẻ học hỏi 
và khám phá. Trong điều kiện như vậy, tôi 
đánh giá cao sự cố gắng của nhà 
trường”. Từ ý kiến này, có thể nhận thấy 
sự đồng cảm và chia sẻ của không ít phụ 
huynh với những điều kiện hạn chế của nhà 
trường. Phụ huynh L.H.H cho biết thêm: 
“Cơ sở vật chất là quan trọng nhưng trong 
điều kiện khó khăn hiện nay thì tương đối 
được, yếu tố quan trọng nhất vẫn là cái tâm 
và năng lực của giáo viên”. 
Về điều kiện giáo viên mầm non, 
trong sáu nội dung liên quan đến giáo viên 
mầm non thì có 4/6 nội dung được cán bộ 
quản lý đánh giá mức độ đáp ứng là khá. 
Cụ thể, cao nhất là nội dung “trình độ” 
giáo viên (ĐTB = 3.65, có 16.3% đánh giá 
mức độ đáp ứng nhu cầu ở mức tốt và 
37.9% đánh giá mức khá). Tiếp đến là “độ 
tuổi - thâm niên” với ĐTB = 3.64, “giới 
tính” với ĐTB = 3.53, “đạo đức nghề 
nghiệp” với ĐTB là 3.51. Giáo viên mầm 
non, cho rằng “đạo đức nghề nghiệp” là 
yếu tố đáp ứng cao nhất với ĐTB là 4.52, 
tiếp đến là “trình độ” với ĐTB là 4.00. 
Những nội dung còn lại đều được giáo viên 
đánh giá với ĐTB trên 3.51, mức độ đáp 
ứng là khá. Tuy nhiên, với cán bộ quản lý 
thì hai nội dung “Kiến thức chăm sóc và 
giáo dục trẻ” với ĐTB là 3.24 và “Kỹ năng 
chăm sóc và giáo dục trẻ” với ĐTB là 3.24 
ở mức độ đáp ứng là trung bình. Kết quả 
này có thể thấy, cán bộ quản lý đánh giá 
nghiêm khắc hơn trong kiến thức và kỹ 
năng của giáo viên. Với hai nội dung này 
thì giáo viên đánh giá mức độ đáp ứng cao 
nhất với ĐTB lần lượt là 3.68 và 3.70. Phụ 
huynh cũng đánh giá hai nội dung này ở 
mức độ đáp ứng là khá với ĐTB lần lượt là 
3.60 và 3.58. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ 
giáo viên mầm non hiện nay có trình độ đạt 
chuẩn và trên chuẩn nhưng do một số hạn 
chế trong đào tạo, cộng thêm điều kiện cơ 
sở vật chất trường lớp nghèo nàn, thiếu tài 
liệu tham khảo, ít được đi tham quan, học 
hỏi, trao đổi kinh nghiệm ngoài trường, ít 
được bồi dưỡng chuyên môn, cập nhật kiến 
thức mới nên năng lực chuyên môn còn 
hạn chế. Năng lực của nhiều giáo viên vẫn 
giới hạn và bộc lộ khá rõ ở việc tổ chức các 
hoạt động giáo dục ở trường mầm non. 
Trong dạy học và tổ chức hoạt động cho 
trẻ, giáo viên vẫn còn ôm đồm, đưa nhiều 
nội dung vào trong một hoạt động, chưa 
chú ý đến đặc điểm lứa tuổi của trẻ, nhiều 
giáo viên cũng chưa biết sử dụng phương 
pháp giáo dục phù hợp. 
Trong ba vấn đề còn lại, có hai nội 
31 
dung: “phương pháp giáo dục trẻ” là có 
ĐTB 3.41 và “quan hệ giáo viên - trẻ - phụ 
huynh” có ĐTB là 3.50 rơi vào mức độ đáp 
ứng trung bình, còn “nội dung giáo dục trẻ” 
với ĐTB là 3.53 rơi vào mức độ đáp ứng 
khá. Giáo viên và phụ huynh cũng đồng ý 
với cán bộ quản lý là phương pháp giáo dục 
trẻ của giáo viên hiện nay còn hạn chế, chỉ 
mới đáp ứng ở mức trung bình so với nhu 
cầu của phụ huynh, ĐTB là 3.00. Phương 
pháp giáo dục mầm non là yếu tố vô cùng 
quan trọng trong việc nuôi, dạy, chăm sóc 
trẻ. Việc giáo dục trẻ mầm non ở “giai đoạn 
vàng của cuộc đời” đóng vai trò quan trọng 
đến quá trình hình thành và phát triển nhân 
cách. Tuy nhiên, phương pháp giáo dục 
mầm non truyền thống tại Việt Nam dường 
như vẫn còn chưa cập nhật các bài học 
được thiết kế phù hợp với tâm lý, độ tuổi 
cũng như trang thiết bị phục vụ cho việc 
học của trẻ như nhiều nước trên thế giới. 
Điển hình như năm phương pháp tiếp cận 
giáo dục mầm non nổi bật được áp dụng 
phổ biến tại những nước phát triển: 
- Thuyết trí thông minh đa dạng 
(Multiple Intelligences) của giáo sư 
Howard Gardner (Đại học Harvard). Với 
quan điểm khẳng định mỗi trẻ đều có 
những khả năng đặc biệt cần phải được 
phát hiện và bồi dưỡng, Gardner đã phân 
loại trí thông minh gồm: trí thông minh có 
giá trị điển hình trong trường học; trí thông 
minh gắn với nghệ thuật và trí thông minh 
cá nhân. Trí thông minh cá nhân bao gồm: 
ngôn ngữ, toán học, âm nhạc, thể chất, hội 
họa không gian, nội tâm và giao tiếp xã 
hội, ngoài ra còn trí thông minh về tự 
nhiên... Lý thuyết này giúp các nhà giáo 
dục động viên và kích thích mọi nhân tố 
phát triển trí não của trẻ. 
 - Phương pháp tiếp cận dự án (Project 
Approach), được khởi xướng bởi chuyên 
gia Lilian Katz (Mỹ), tạo cơ hội cho trẻ 
được theo đuổi, tìm hiểu, khám phá về các 
vấn đề mà trẻ thực sự hứng thú. Phương 
pháp này thúc đẩy quá trình tự nghiên cứu, 
tư duy độc lập và quan trong nhất là nuôi 
dưỡng lòng say mê học tập ở trẻ . 
- Cách tiếp cận lên kế hoạch - làm - 
đánh giá (Plan - Do - Review) của chương 
trình High Scope (Mỹ) cho phép trẻ được 
tự khởi xướng kế hoạch khám phá, thực thi 
và đánh giá việc thực thi kế hoạch dưới sự 
dẫn dắt của giáo viên. 
- Cách tiếp cận Reggio Emilia xuất 
phát từ Italy, đang được đánh giá cao và 
được áp dụng tại những trường mầm non 
tốt ở nhiều nước trên thế giới bởi khả năng 
mở rộng cánh cửa cho trí tưởng tượng và 
sáng tạo của trẻ được bay bổng qua các 
hoạt động: vẽ, nặn, sáng tác tranh. 
- Cách tiếp cận Montessori: đây là mô 
hình giáo dục đầu đời nổi tiếng trên thế 
giới, giúp phát triển kỹ năng học tập, kỹ 
năng sống và 5 giác quan của trẻ qua các 
bộ đồ chơi học tập có khả năng phát triển 
giác quan, tri giác và khả năng suy luận, dự 
đoán cho trẻ. Montessori đề cao việc phát 
triển tính tự lập cho trẻ và giúp trẻ trở nên 
kỷ luật một cách tự nguyện. Mỗi phòng 
Montessori có 115 bộ học cụ, giúp trẻ phát 
triển 5 mặt: khả năng tri giác, toán, ngôn 
ngữ, kỹ năng sống và bước đầu tìm hiểu 
thế giới tự nhiên và văn hóa . 
Năm phương pháp kể trên đều đã 
được áp dụng giảng dạy cho nhiều trẻ ở độ 
tuổi mầm non trên thế giới và đã cho 
những kết quả ấn tượng khi trẻ trở nên độc 
lập, tự tin và năng động hơn hẳn so với trẻ 
học theo cách truyền thống. Tại Việt Nam, 
một số trường mầm non cũng đã bắt đầu 
đưa một số phương pháp trên vào chương 
trình nhưng vẫn chưa đạt được hiệu quả 
nhất định. 
3. Kết luận 
Tóm lại, mức độ đáp ứng của giáo dục 
mầm non với nhu cầu thực tế hiện nay trên 
các bình diện chỉ ở mức trung bình khá. 
Trong đó, các vấn đề cần quan tâm nhiều 
nhất hiện nay là phát triển thêm hệ thống 
trường ngoài công lập, hoàn thiện hệ thống 
trường công lập, chú ý các vấn đề về cơ sở 
32 
vật chất lớp học, số lượng trẻ trong mỗi lớp 
và chuyên môn của giáo viên mầm non, 
điển hình nhất là phương pháp giáo dục trẻ 
ở giáo viên mầm non phải hiện đại, tích 
cực và thích ứng hơn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Trần Thị Ngọc Chúc (2012), “Xây dựng tiêu 
chí đánh giá, thẩm định chất lượng các nhóm 
lớp Mầm non tư thục tại Tp.HCM hiện nay”, 
Đề tài cấp cơ sở, Sở KH & CN TP.HCM. 
2. Trần Khánh Đức (2010), Giáo dục và phát 
triển nguồn nhân lực trong thế kỷ XXI, Nxb 
Giáo dục Việt Nam. 
3. Huỳnh Văn Sơn (2012), Phát triển nguồn 
nhân lực trong giáo dục, Dành cho học viên 
Cao học Quản lý Giáo dục, Trường Đại học 
Sư phạm TP HCM - Tài liệu lưu hành nội bộ 
4. Han, Ki - Soon (2007), The possibilities and 
Limitations of gifted education in Korea: A 
look at the ISEP Scien - Gifted Education 
Center, Department of Education, Seou 
National University. 
Ngày nhận bài: 22/5/2015 Biên tập xong: 20/6/2015 Duyệt đăng: 25/6/2015 

File đính kèm:

  • pdfmuc_do_dap_ung_doi_voi_nhu_cau_giao_duc_mam_non_thanh_pho_ho.pdf