Một tiếp cận thiết kế công cụ phần mềm đánh giá hiệu năng mạng liên kết kích thước lớn

Tóm tắt: Bài báo này giới thiệu một cách tiếp cận riêng biệt để thiết kế công cụ phần mềm chuyên dụng cho đánh giá

hiệu năng mạng liên kết kích thước lớn, nhờ đề xuất cơ chế mô phỏng giản lược nhưng vẫn đảm bảo đánh giá được

những đặc tính chính của các tô-pô và thuật toán định tuyến mới. Chúng tôi đề xuất kiến trúc tổng thể, trong đó cho

phép thực hiện thí nghiệm với các tô-pô được định nghĩa sẵn hoặc tự định nghĩa, với nhiều kịch bản hay cấu hình traffic

khác nhau,và hỗ trợ xây dựng tô-pô hiệu năng cao với các tính năng đánh giá cách triển khai cài đặt trên mặt sàn thực

tế cho trước. Với bản phần mềm công cụ đầu tiên xây dựng trên kiến trúc đề xuất này chúng tôi đã tiến hành một số

thực nghiệm với một số tô-pô mạng loại mới có kích thước hàng chục nghìn node trong khoảng thời gian ngắn khả quan,

nhanh hơn khá nhiều lần so với khi tiến hành trên các công cụ mô phỏng phổ quát quen thuộc như NS3, OMNET++.

pdf 12 trang phuongnguyen 7040
Bạn đang xem tài liệu "Một tiếp cận thiết kế công cụ phần mềm đánh giá hiệu năng mạng liên kết kích thước lớn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một tiếp cận thiết kế công cụ phần mềm đánh giá hiệu năng mạng liên kết kích thước lớn

Một tiếp cận thiết kế công cụ phần mềm đánh giá hiệu năng mạng liên kết kích thước lớn
Các công trình nghiên cứu phát triển Công nghệ Thông tin và Truyền thông
Một tiếp cận thiết kế công cụ phần mềm
đánh giá hiệu năng mạng liên kết kích thước lớn
Bài báo mời
Kiều Thành Chung1,2, Nguyễn Tiến Thành2, Nguyễn Khanh Văn2
1Trường Cao đẳng nghề Công nghệ cao Hà Nội
2Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Tác giả liên hệ: Nguyễn Khanh Văn, vannk@soict.hust.edu.vn
Ngày nhận bài: 28/08/2019, ngày sửa chữa: 03/09/2019, ngày duyệt đăng: 08/09/2019
Xem sớm trực tuyến: 08/09/2019, định danh DOI: 10.32913/mic-ict-research-vn.v2019.n1.889
Biên tập lĩnh vực điều phối phản biện và quyết định nhận đăng: PGS.TS. Nguyễn Linh Trung
Tóm tắt: Bài báo này giới thiệu một cách tiếp cận riêng biệt để thiết kế công cụ phần mềm chuyên dụng cho đánh giá
hiệu năng mạng liên kết kích thước lớn, nhờ đề xuất cơ chế mô phỏng giản lược nhưng vẫn đảm bảo đánh giá được
những đặc tính chính của các tô-pô và thuật toán định tuyến mới. Chúng tôi đề xuất kiến trúc tổng thể, trong đó cho
phép thực hiện thí nghiệm với các tô-pô được định nghĩa sẵn hoặc tự định nghĩa, với nhiều kịch bản hay cấu hình traffic
khác nhau,và hỗ trợ xây dựng tô-pô hiệu năng cao với các tính năng đánh giá cách triển khai cài đặt trên mặt sàn thực
tế cho trước. Với bản phần mềm công cụ đầu tiên xây dựng trên kiến trúc đề xuất này chúng tôi đã tiến hành một số
thực nghiệm với một số tô-pô mạng loại mới có kích thước hàng chục nghìn node trong khoảng thời gian ngắn khả quan,
nhanh hơn khá nhiều lần so với khi tiến hành trên các công cụ mô phỏng phổ quát quen thuộc như NS3, OMNET++.
Từ khóa: Tô-pô mạng, hiệu năng mạng, mô phỏng mạng, mạng liên kết, công cụ mô phỏng.
Title: An Approach to Designing Software Tool Specified for Evaluating Performance of Interconnection Topologies
with Large Sizes
Abstract: This paper introduces a special approach to designing a software tool that is specified for evaluating performance of
interconnection topologies with large sizes. This is based on a proposed network simulation mechanism that is heavily
reduced (much simplified from the popular network simulation standard) in order to do just enough for evaluating the
performance factors related to topology and routing mechanism characteristics. We propose a general architecture for
such a system that allows to experiment with pre-defined or newly defined topologies by using different experiment
scripts with different traffic patterns, and also to support the designing of new high-performance topologies with features
for evaluating deployment layouts. Using our initial version of this software tool we are able to perform some interesting
experimental evaluation of a few modern topologies with sizes as large as tens of thousands in very encouragingly
short periods of time, multiple times faster than performed in popular general simulators such as NS3 or OMNET++.
Keywords: Network topology, network performance, network simulation, interconnection network, simulation software.
I. GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu tô-pô1 của các mạng liên kết (MLK: Inter-
connection Network) [1, 2] có vai trò quan trọng trong lĩnh
vực tính toán song song và kiến trúc mạng máy tính. Một
giải pháp tô-pô hiệu quả sẽ đóng góp quyết định vào hiệu
năng của các mạng lưới tính toán lớn như các hệ máy tính
hiệu năng cao (HPC: High-Performance Computer) [2] hay
trung tâm dữ liệu hiện đại (TTDL: Data Center) đang ngày
càng trở thành nhu cầu cấp nhiết nhằm phục vụ các dịch
vụ tính toán lớn.
Một thách thức hiện nay đối với giới chuyên môn là thiết
kế các hệ thống MLK hiệu năng cao trong TTDL với kích
1Topology: Cấu trúc tổ chức hình học của mạng máy tính.
thước lớn, có thể lên đến hàng trăm nghìn máy. Bản thân
việc tổ chức thực nghiệm để đánh giá hiệu năng một tô-pô
mạng (network topology) đề xuất mới đã là một vấn đề
không tầm thường vì hầu hết các công cụ mô phỏng mạng
phổ quát hiện nay chỉ đáp ứng cho kích thước mạng lên
đến hàng ngàn nút.
Với sự phát triển vũ bão của các ứng dụng và dịch vụ
Internet, của công nghệ Dữ Liệu Lớn (Big Data), các trung
tâm dữ liện hiện đại đang được quan tâm đầu tư nhiều, trong
đó một yêu cầu đặc thù phục vụ cho xu hướng mới này là
thiết kế MLK nhằm đảm bảo tốt tính mềm dẻo (flexibility)
và khả năng mở rộng (scalability). Cụ thể là việc bổ sung
thêm các nút (node) mạng, tăng/giảm kích thước mạng có
thể thực hiện nhiều lần với qui mô đa dạng, nhưng vẫn phải
đảm bảo hiệu năng mạng.
27
Các công trình nghiên cứu phát triển Công nghệ Thông tin và Truyền thông
Với kích thước mạng càng ngày càng lớn, các vấn đề
về tiết kiệm chi phí thiết bị và cáp, tiết kiệm năng lượng
khi tải thấp, v.v. trở thành những chủ đề rất đáng quan
tâm. Có thể thấy điều này trong hàng loạt nghiên cứu
trong giai đoạn gần đây về thiết kế MLK trong TTDL
HELIOS [3], BCUBE [4], DCELL [5], Scafida [6], MD-
Cube [7], VL2 [8]. Vì vậy các dạng tô-pô truyền thống trở
nên phần nào lạc hậu, giới nghiên cứu đang tích cực đề
xuất những tiếp cận, những dạng kiến trúc tô-pô mới phù
hợp hơn cho các yêu cầu hiện đại, như Smallworld Data-
Center [9], JellyFish [10], Space Shuffle [11], FatTree [12],
SKYWALK [13], Dragonfly [14].
Một trong những thách thức lớn của địa hạt nghiên cứu
này cũng là vấn đề đã đề cập trên: làm sao tổ chức đánh
giá qua thực nghiệm với một mô hình mạng kích thước lớn,
có thể vượt xa các kích thước mạng truyền thống. Để đánh
giá một tô-pô MLK, bên cạnh các phương pháp đánh giá
dựa trên cài đặt các thuật toán chuyên dụng để tính toán
các đặc trưng hiệu năng (xoay quanh phân tích đồ thị), thực
nghiệm qua công cụ mô phỏng mạng được coi là yếu tố
có tiếng nói quyết định. Tuy nhiên việc thực hiện cài đặt
các mạng kích thước lớn đến hàng chục nghìn nút tính toán
trên các công cụ mô phỏng mạng hay hệ phân tán phổ biến
hiện nay như NS3 [15], OMNET++ [16], SIMGRID [17],
được xem là bất khả thi. Thậm chí với cấu hình máy tính
tân tiến hàng đầu, cài đặt mạng lên đến 1000 nút đã là khá
khó khăn2. Khó khăn chủ yếu là do mỗi nút tính toán trong
các công cụ mô phỏng mạng phổ quát này được thiết kế để
mô phỏng đầy đủ các tầng giao thức như các kiến trúc phổ
biến (mô hình OSI bảy tầng hay mô hình TCP/IP). Khối
lượng xử lý lớn ở mỗi nút sẽ giới hạn kích thước tập hợp
các đối tượng mạng có thể cài đặt trong hệ mô phỏng.
Tuy nhiên chúng tôi nhận thấy rằng với mô hình MLK,
các nhà nghiên cứu chỉ quan tâm tới các yếu tố hiệu năng
xoay quanh việc thực hiện các nhiệm vụ tầng giao vận và
ứng dụng khi tải lớn chứ không quan tâm thực sự tới các
tầng thấp. Quan sát này mở ra một tiếp cận mới là có thể
cải tiến lõi hệ phần mềm mô phỏng nhằm hướng tới mạng
kích thước lớn hơn thông qua việc rút gọn giản lược các
chức năng của các tầng dưới (tầng mạng trở xuống). Thậm
chí các quá trình truyền tin có thể thay thế bằng các mô
hình ngẫu nhiên tương ứng (mô phỏng lỗi đường truyền)
để sinh độ trễ phù hợp. Việc giản lược các tầng dưới đương
nhiên là không phù hợp cho mô phỏng một quá trình hoạt
động đầy đủ của một hệ thống mạng trong thực tế, nhưng
lại không thực sự ảnh hưởng tới việc so sánh đánh giá giữa
các tô-pô mạng với nhau theo các tiêu chí hiệu năng cơ bản.
2Mỗi lần thực hiện một thực nghiệm theo một kịch bản mô phỏng cơ
bản có thể là hàng giờ trong khi cần thực hiện hàng trăm thực nghiệm
để so sánh đánh giá một số tô-pô mạng với nhiều chế độ hoạt động
và khai thác.
Trong bài báo này chúng tôi đề xuất một tiếp cận mới:
thiết kế phần mềm đánh giá tô-pô MLK thông qua thực
nghiệm có mô phỏng, trong đó tập trung giản lược hóa các
tầng thấp (chủ yếu là địa bàn để xây dựng các thuật toán
định tuyến mới khi cần) và tập trung vào tổ chức các thí
nghiệm chuyên dụng cho MLK ở các tầng trên (giao vận
và ứng dụng). Thông qua tiếp cận mới này, chúng ta có thể
đánh giá một đề xuất mới bằng việc so sánh với các giải
pháp đã có trên những cấu hình mạng kích thước lớn mà
trước kia chưa thể thực hiện được.
Bài báo này trình bày những nét chính của tiếp cận mới
trên và đề xuất một kiến trúc cơ sở cho hệ công cụ phần
mềm đánh giá tô-pô MLK theo hướng này. Dựa vào kiến
trúc cơ sở này, chúng tôi xây dựng những mô-đun nền móng
đầu tiên, cho phép thực hiện các đánh giá so sánh tô-pô
trên các tiêu chí hiệu năng cơ bản liên quan đến thông số
đồ thị và định tuyến. Các đóng góp cụ thể như sau:
• Đề xuất thiết kế tổng thể công cụ đánh giá hiệu năng
MLK, kết hợp tính toán theo mô hình và mô phỏng
giản lược (SSiNET). Công cụ này cho phép người dùng
tạo các tô-pô mạng mới, cài đặt với các tham số cho
trước (kích thước lớn được hỗ trợ cơ chế tự động sinh
theo mẫu) thử nghiệm với các thuật toán định tuyến
có sẵn và cài mới. Từ đó đánh giá hiệu năng theo các
tiêu chí cơ bản và nâng cao, hỗ trợ thiết kế mặt sàn
(layout) cho trước và tính toán giá thành.
• Thực hiện các mô-đun cơ bản cho phép tính toán các
thông số đồ thị và định tuyến.
• Tạo cơ chế cho việc cài đặt thuật toán định tuyến và
cài đặt sẵn một số tô-pô đã biết (ví dụ: 2-D Torus [9],
Fat-tree [12], Kleinberg Small-world [9]) và thuật toán
định tuyến đã biết (ví dụ: Shortest Path Routing [1],
Two-level Table [12], Compact Routing [18]).
• Với bản phần mềm công cụ đầu tiên, tiến hành thực
nghiệm để đánh giá so sánh một số tô-pô mới đang
được quan tâm và thuật toán định tuyến tương ứng để
đánh giá độ trễ truyền tin (latency).
Nội dung chính được tổ chức như sau. Mục II trình bày
các nghiên cứu liên quan. Mục III đề xuất thiết kế SSiNET.
Mục IV nghiên cứu đánh giá thử nghiệm.
II. CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
Để nghiên cứu và thiết kế một MLK hiệu quả, các nhà
nghiên cứu tập trung vào hai vấn đề chính: (i) thiết kế tô-pô
mạng; (ii) xây dựng thuật toán định tuyến, để khai thác tối
đa các tính chất đặc thù của tô-pô tương ứng.
Các cách thực hiện có thể theo ba hình thức như sau: (i)
chỉ xây dựng tô-pô và sử dụng các thuật toán định tuyến
đã tồn tại; (ii) chỉ xây dựng thuật toán định tuyến cho các
tô-pô đã biết; (iii) xây dựng mới cả tô-pô và thuật toán định
tuyến tương ứng.
28
Tập 2019, Số 1, Tháng 9
1. Tô-pô và thuật toán định tuyến
Một tô-pô mạng, tức cấu trúc hình học của mạng, được
biểu diễn bằng đồ thị G = (V,E), mỗi thiết bị chuyển
mạch (switch) hoặc máy tính toán (host) trong mạng máy
tính thực tế được biểu diễn bởi một nút mạng (node) trong
đồ thị G. Tập hợp các switch hoặc host trong mạng được
biểu diễn bởi tập đỉnh V trong đồ thị G và tập hợp các liên
kết (link) giữa các switch hoặc host được biểu diễn bằng
tập cạnh E .
Các tô-pô và thuật toán định tuyến (RA: Routing Algo-
rithm) đã được nghiên cứu từ lâu, nhiều tô-pô trong số đó
đã được triển khai áp dụng phổ biến trên thực tế. Ví dụ, tô-
pô siêu khối cơ sở k, số chiều n (k-ary n-cube hypercube)
định tuyến theo giao thức Duato [1] được sử dụng trong
các siêu máy tính như là BlueGene/L Anton-2 hoặc Cray
XT5 [19]. Gần đây, các tô-pô truyền thống được xem là
không đáp ứng được các tiêu chí hiệu năng hiện đại như
độ trễ truyền tin thấp và tính co giãn qui mô.
Vì vậy như là một tiếp cận mới, thiết kế tô-pô mạng dựa
trên mô hình đồ thị ngẫu nhiên [9] đã được quan tâm và
đem lại nhiều cải tiến hiệu năng nổi bật. Tô-pô ngẫu nhiên
(RSN: Random Shortcut Network), được cấu trúc dựa trên
một tô-pô cơ bản như là Mesh, Torus, Hypercube, Flattened
Buttery, v.v. và bổ sung thêm các liên kết dài giữa các nút
ở xa nhau. Các liên kết dài được tạo ra bởi việc sử dụng
một phân bố xác suất ngẫu nhiên nào đó. Các RSN đã được
công bố như là Jellyfish [10], Small-world [9].
Một số tiêu chí cơ bản của hiệu năng mạng được đánh
giá dựa trên việc tính toán các tham số chính như đường
kính mạng (diameter), độ dài trung bình đường định tuyến
(ARPL: Average Routing Path Length), độ trễ truyền tin [1],
kích thước bảng định tuyến (RTS: Routing Table Size). Độ
trễ truyền tin là khoảng thời gian gói tin bắt đầu được khởi
tạo tại nút nguồn (source node), gửi đi trên kênh truyền và
nhận được tại nút đích (destination node). Độ trễ đạt giá
trị thấp là dấu hiệu của hiệu năng cao. Độ trễ lý thuyết tối
thiểu có thể được tính toán thông qua mô hình hóa mạng
như một cặp đồ thị và thuật toán định tuyến cho trước.
Định tuyến là quá trình định hướng cho một gói tin di
chuyển từ nút nguồn S đến nút đích T trong mạng. Các thuật
toán định tuyến lựa chọn và xác định đường đi (path) để
gói tin truyền từ nguồn tới đích trong một MLK xác định.
Thuật toán định tuyến đường đi ngắn nhất (SPR: Shortest
Path Routing, còn gọi là Minimal Routing) [1] được sử
dụng trong các mạng dạng chuẩn tắc (regular). Minimal
Routing đảm bảo yếu tố stretch–13 [20]. Ví dụ: 2-D Torus,
3-D Torus [1], FatTree [12], Hypercube sử dụng SPR. Các
thuật toán định tuyến tùy chọn (Custom Routing) được thiết
3Tỉ lệ giữa chiều dài đường định tuyến với chiều dài ngắn nhất trên
tô-pô mạng giữa cặp đỉnh bất kỳ trong mạng.
kế riêng cho từng loại tô-pô cụ thể (còn gọi là Non-Minimal
Routing), với stretch–3 [18, 21], thông thường là các mạng
dạng không chuẩn tắc (irregular). RSN sử dụng thuật toán
SPR hoặc TZ (Thorup & Zwick [18]), JellyFish [10] sử
dụng k-SPR.
2. Công cụ mô phỏng mạng
Hiện nay các nhà nghiên cứu thường tự phát triển phần
mềm tính toán đặc trưng và đánh giá các tô-pô MLK (và
thuật toán định tuyến), và khi cần thực hiện thực nghiệm
mô phỏng có thể sử dụng các phần mềm mô phỏng mạng
phổ quát, phổ biến hiện nay như NS2 [22], NS3 [15],
OMNET++ [16], SIMGRID [17].
Hệ công cụ NS2 [22] thường được sử dụng thực nghiệm
đối với các mạng không dây. NS2 có nhược điểm là quá
trình mô hình hóa mạng khá phức tạp và tốn nhiều thời
gian và bộ nhớ. Ngoài ra, nó cũng không định nghĩa sẵn
các thiết bị như switch, router và không có giao diện người
sử dụng (GUI: Graphic User Interface) để hiển thị kết quả.
Là thế hệ đời sau, NS3 [15] cũng mô phỏng hệ thống bằng
cách cấu hình các node mạng một cách đầy đủ, do đó NS3
cũng chỉ thực thi được với mạng kích thước nhỏ từ vài trăm
tới nghìn nút.
OMNET++ [16] hỗ trợ mô phỏng song song thông qua
việc sử dụng các thư viện MPI (Message Passing Interface),
thực hiện mô phỏng lưu lượng trong mạng, tạo mô hình các
giao thức, xây dựng mô hình các hàng đợi trong mạng, xây
dựng các bộ vi xử lý đa nhiệm và các hệ thống phân tán
khác, kiểm tra lại kiến trúc phần cứng, đánh giá khía cạnh
về hiệu suất của các hệ thống phần mềm phức tạp.
SIMGRID [17] là một công cụ cung cấp các chức năng
cơ bản để mô phỏng các ứng dụng phân tán quy mô lớn
như Grid, P2P hay Cloud. Công cụ mô phỏng SIMGRID
có thể được sử dụng để đánh giá thuật toán định tuyến, các
ứng dụng MPI. Kích thước mạng được sử dụng để đánh giá
chỉ đạt khoảng 256 nút đối với máy tính toán thông thường
và đạt 1024 đối với máy tính toán có cấu hình mạnh.
Nhìn chung, các phần mềm trên có tính phổ quát cao,
tập trung mô phỏng các thiết bị và các giao thức mạng một
cách chi tiết và đầy đủ. Nhằm đảm bảo phản ánh tương đối
trọn vẹn các quá trình và yếu tố kỹ thuật đa dạng trong thực
tiễn, các hệ này tập trung mô phỏng chi tiết. Lớp mạng với
thư viện cấu hình đối tượng phân cấp phức tạp, mô phỏng
rất sát thực tế các quá trình truyền tin. D ... ị. Kỹ thuật này khai thác một đặc điểm quan sát thấy là
trong các MLK kiểu mới, đặc biệt là các tô-pô được tạo
theo mô hình ngẫu nhiên, việc xây dựng định tuyến giữa
hai cặp nguồn–đích bất kỳ là hầu như độc lập với nhau. Ví
dụ, nhìn chung xây dựng đường đi giữa một cặp nút (u, v),
không phụ thuộc vào việc xây dựng cho một cặp (u′, v′)
khác. Từ đó, ta thấy không cần thiết phải có một quá trình
khởi đầu xây dựng bảng định tuyến cho tất cả nút mạng, mà
có thể tiến hành on-the-fly, tức là khi nào có một nhiệm
vụ định tuyến nảy sinh thì các bảng định tuyến cho các
nút nguồn và trung gian sẽ được xây dựng phục vụ trực
tiếp cho nhu cầu tại chỗ (và tích lũy cho sau này). Hơn
nữa một số đặc tính hiệu năng như ARPL có thể tính xấp
xỉ bằng cách: thay vì tính độ dài đường đi của tất cả các
34
Tập 2019, Số 1, Tháng 9
cặp nút nguồ– đích có thể rồi lấy trung bình, chỉ cần thực
hiện với một tỷ lệ tương đối thấp (vài phần trăm) các cặp
nguồn–đích. Phần IV dưới đây sẽ báo cáo một số kết quả
thực nghiệm khả quan khi chúng tôi tôi khảo sát áp dụng
kỹ thuật xấp xỉ này.
IV. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
Đây là một dự án phần mềm có yêu cầu tương đối cao
nên chúng tôi mới thực hiện được một số khối chức năng
cơ bản, trong đó có khối chức năng đánh giá trên phương
diện phân tích đồ thị. Sau đây chúng tôi trình bày một số
kết quả thực nghiệm với hệ công cụ về phân tích đồ thị,
một trong những yêu cầu đánh giá cốt lõi nhất. Chúng tôi
cũng minh họa sự hiệu quả của công cụ mô phỏng SSiNET
bằng cách giả lập các mạng với kích thước khác nhau, và
so sánh với thời gian thực thi các giả lập đó trên bộ công
cụ NS3 [15].
Với mỗi loại tô-pô cụ thể, chúng thường được áp dụng
một vài thuật toán định tuyến để đánh giá hiệu năng MLK.
Do vậy, trong các mục IV.1 và IV.2, chúng tôi thử nghiệm
với các tô-pô và thuật toán định tuyến tương ứng như sau:
FatTree [12] – SPR, Kleinberg – Small-world – SPR, 2-D
Torus [1] – Gready, RSN – TZ [18]. Kết quả thực nghiệm
không đánh giá cặp tham số tô-pô và thuật toán định tuyến
nào hiệu quả hơn, mà chỉ xác định khả năng thực nghiệm
của SSiNET. Chúng tôi lần lượt thí nghiệm trên các bộ kích
thước 210, 211, 212, 213. Ngoài ra, do cấu trúc đặc thù của
FatTree [12], chúng tôi sử dụng kích thước 2000 và 4394
tương ứng với 211 và 212 tương ứng với các tô-pô còn lại.
Ở thời điểm hiện nay sản phẩm công cụ của chúng tôi
mới tập trung vào lớp thực nghiệm phân tích đồ thị, nên
chưa có nhiều thông tin để so sánh đánh giá năng lực thực
thi với các công cụ khác, ngoại trừ một so sánh thu được
khi đang triển khai bước đầu phần mô phỏng thông lượng
tại mục IV.3.
1. Kích thước bảng định tuyến)
SPR xây dựng bảng định tuyến với kích thước O(N), với
N là kích thước mạng. Do đó, trong thử nghiệm, chúng tôi
không trình bày kết quả của SPR trên tô-pô Kleinberg –
Smallworld. Hình 7 biểu diễn RTS của 2-D Torus không
đổi với mọi kích thước mạng, do tính chất cấu trúc vòng
đặc thù của Torus. Trong khi đó, FatTree – SPR có RTS đạt
1,25% và 0,31% kích thước mạng 210 và 213 tương ứng,
RSN – TZ[18] có RTS 7,78% và 2,57% tương ứng.
2. Độ trễ truyền tin (Latency)
Chúng tôi tiến hành thực nghiệm tính toán độ trễ với
các tham số độ trễ trên switch là 100 nano giây, độ trễ
0
50
100
150
200
250
0 2000 4000 6000 8000 10000
R
o
u
ti
n
g
 T
ab
le
 S
iz
e
Number of network nodes
RSN - TZ
Fat Tree - SPR
Torus - Greedy
Hình 7. Tính toán kích thước bảng định tuyến.
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
0 2000 4000 6000 8000 10000
L
at
en
cy
 (
se
co
n
d
s)
Number of network nodes
Torus - Greedy
RSN - TZ
SmallWorld - SPR
Fat Tree - SPR (N = 4394)
Hình 8. Độ trễ truyền tin trên mạng.
trên đường truyền cáp quang là 5 nano giây trên mỗi mét
dài [1, 13]. Độ trễ truyền tin toàn mạng L được tính toán
dựa trên công thức sau:
L =
N∑
i=1
N∑
j=1
(Pathhop(i, j) ∗ 100 + Pathlength(i, j) ∗ 5), (1)
trong đó, Pathhop(i, j) là số “hop”4 trên đường đi ngắn
nhất và Pathlength(i, j) là chiều dài đường đi ngắn nhất giữa
i và j. Với tổng số cặp đường đi Σpair(i, j), độ trễ trung
bình được tính theo công thức:
AvgLatency =
L
Σpair(i, j) . (2)
Hình 8 chỉ ra kết quả thử nghiệm tính toán độ trễ. Trong
đó, với cấu trúc đặc thù dạng cây, đường kính mạng bé,
FatTree [12], đạt độ trễ thấp nhất trong mọi kích thước
4Số “khoảng” giữa hai nút liền kề trên đường định tuyến.
35
Các công trình nghiên cứu phát triển Công nghệ Thông tin và Truyền thông
0
2,000
4,000
6,000
8,000
10,000
12,000
14,000
16,000
2,000 2,662 3,456 4,394 5,488 6,750
E
x
ec
u
ti
o
n
 T
im
e 
(s
ec
o
n
d
s)
Number of Network nodes
SSiNET NS3
Hình 9. Thời gian thực thi của SSiNET và NS3.
Bảng I
ĐƯỜNG KÍNH MẠNG VỚI CÁC TỈ LỆ KÍCH THƯỚC MẠNG
Diameter 1024 2048 4096 8192
1% 6,30 7,00 7,90 8,00
2% 6,80 7,00 8,00 8,00
5% 7,00 7,00 8,00 8,00
10% 7,00 7,00 8,00 8,00
100% 7,00 7,00 7,90 8,00
thử nghiệm. Trong khi đó, Torus có độ trễ cao do sử dụng
định tuyến (DOR: Dimension Order Routing [1]), số hop
trên đường định tuyến cao hơn so với các mạng ngẫu nhiên
Kleinberg – Smallworld.
Các kết quả so sánh tương đối giữa các tô-pô (và thuật
toán định tuyến) nói trên phản ánh khớp với nhận định của
chúng tôi thu được từ những khảo sát thông qua [12, 18, 20].
3. Kết quả bước đầu về đánh giá thông lượng
Cuối cùng, chúng tôi minh hoạ việc giả lập của MLK Fat
Tree [12] với việc giá trị k thay đổi từ 20 đến 30. Để đo đạc
hiệu năng của SSiNET, chúng tôi sử dụng máy tính Intel
Core i7 2,3 GHz với bộ nhớ chính 8 GB. Hình 9 cho
thấy thời gian thực thi của chương trình giả lập hoạt động
trên SSiNET và NS3 [15], và hình này cung cấp cho người
đọc thấy rõ ràng rằng SSiNET chỉ mất thời gian khoảng
40 phút (2564 giây) để giả lập mạng Fat-tree với k = 30 (ở
đây mạng sẽ có k ∗ k ∗ k/4 = 6750 nodes) trong khi NS3
yêu cầu tới khoảng 4 giờ.
4. Phương pháp xấp xỉ
Trong phương pháp này, chúng tôi tiến hành lấy ngẫu
nhiên một số cặp nguồn–đích theo một tỉ lệ p% so với
Bảng II
ĐỘ TRỄ TRUNG BÌNH
AvgLatency 1024 2048 4096 8192
1% 536,80 628,24 712,59 850,08
2% 536,05 628,11 712,35 850,46
5% 535,92 628,13 712,40 850,48
10% 536,15 628,22 712,31 850,49
100% 612,85 767,49 723,18 850,41
Bảng III
THỜI GIAN THỰC THI
Kích thước mạng 1024 8192
Tỉ lệ thử nghiệm 100% 5% 100% 5%
Diameter 7,00 7,00 8,10 8,00
ARPL 4,51 4,52 5,93 5,93
AvgLatency 612,85 535,92 850,08 850,48
RunTime 5,74 1,02 1083,38 68,24
kích thước mạng. Tập các ứng viên được tính toán theo
công thức (N ∗ (N − 1)) ∗ p%, p=1, 2, 5, 10, với N là kích
thước mạng.
Bảng I cho thấy kết quả thực nghiệm tính đường kính
mạng với các tỉ lệ 1%, 2%, 5%, 10%, 100%. Trường hợp
100% là tính toán toàn bộ các cặp nguồn đích, tức là thực
hiện đầy đủ như thông lệ. Các trường hợp 1% và 2% có giá
trị đường kính mạng sai khác 10% và 3% với trường hợp
100%, tương ứng. Tuy nhiên với tỉ lệ 5% và 10% thì sự
sai khác không có hoặc tương đối nhỏ so với 100%. Ngay
cả độ trễ trung bình cũng chỉ sai khác trên 10%, đặc biệt
với mạng kích thước 4096, sự sai khác đó chỉ là 1% và 2%
tương ứng như Bảng II.
Với phương pháp xấp xỉ như trên, thời gian thực thi của
mạng giảm đáng kể. Ví dụ, thời gian thực thi giảm 82,25%
và 93,70% với kích thước mạng 1024 và 8192 tương ứng,
như Bảng III. Những kết quả thực nghiệm này cho thấy rõ
phương pháp thực nghiệm xấp xỉ đã đề xuất là hứa hẹn và
nên được triển khai đầy đủ.
V. KẾT LUẬN
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã đề xuất một cách
tiếp cận mới cho việc thiết kế công cụ thực nghiệm đánh
giá các tô-pô MLK theo phương châm mô phỏng giản lược
và trình bày một bản thiết kế tổng quan và chi tiết cho sản
phẩm công cụ SSiNET, phát triển theo tiếp cận này. Công
cụ cho phép đánh giá và so sánh các tô-pô có kích thước
lớn trên các phương diện truyền thống như các đặc tính đồ
thị và định tuyến và đặc tính khai thác có tải. Ngoài ra khi
đã hoàn thiện, công cụ còn cho phép tiến hành thực nghiệm
36
Tập 2019, Số 1, Tháng 9
đánh giá bố trí triển khai trên mặt sàn. Qua đó cho phép
các nhà nghiên cứu thử nghiệm các thiết kế tô-pô mới một
cách đa dạng và linh hoạt mà không phải phát triển chương
trình riêng để cài đặt các tô-pô hoặc thuật toán định tuyến
có sẵn.
Sản phẩm mới chỉ được thực hiện ở phần cơ bản, nên
trong bài báo này chúng tôi tập trung giới thiệu thiết kế
chi tiết các phần cơ bản đó và giới thiệu một vài kết quả
thực nghiệm liên quan. Trong giai đoạn phát triển tiếp theo,
chúng tôi sẽ tiếp tục hoàn thiện SSiNET, trong đó có việc
hoàn thiện các chức năng mô phỏng cho phép đánh giá các
yếu tố hiệu năng quan trọng khác như thông lượng mạng.
Đồng thời kỹ thuật và phương pháp thực nghiệm xấp xỉ
sẽ được hoàn thiện hơn để nâng cao hơn nữa tính khả thi
của công cụ với việc đánh giá MLK có kích thước lớn
và rất lớn.
GHI NHẬN TÀI TRỢ
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Trường Đại học Bách
khoa Hà nội trong đề tài mã số T2017-LN-15.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] W. J. Dally and B. P. Towles, Principles and practices of
interconnection networks. Elsevier, 2004.
[2] M. Koibuchi, H. Matsutani, H. Amano, D. F. Hsu, and
H. Casanova, “A case for random shortcut topologies for
HPC interconnects,” in 2012 39th Annual International
Symposium on Computer Architecture (ISCA). IEEE, 2012,
pp. 177–188.
[3] N. Farrington, G. Porter, S. Radhakrishnan, H. H. Bazzaz,
V. Subramanya, Y. Fainman, G. Papen, and A. Vahdat,
“Helios: a hybrid electrical/optical switch architecture for
modular data centers,” ACM SIGCOMM Computer Commu-
nication Review, vol. 41, no. 4, pp. 339–350, 2011.
[4] C. Guo, G. Lu, D. Li, H. Wu, X. Zhang, Y. Shi, C. Tian,
Y. Zhang, and S. Lu, “BCube: a high performance, server-
centric network architecture for modular data centers,” ACM
SIGCOMM Computer Communication Review, vol. 39, no. 4,
pp. 63–74, 2009.
[5] C. Guo, H. Wu, K. Tan, L. Shi, Y. Zhang, and S. Lu,
“Dcell: a scalable and fault-tolerant network structure for
data centers,” in ACM SIGCOMM Computer Communication
Review, vol. 38, no. 4. ACM, 2008, pp. 75–86.
[6] L. Gyarmati and T. A. Trinh, “Scafida: A scale-free network
inspired data center architecture,” ACM SIGCOMM Com-
puter Communication Review, vol. 40, no. 5, pp. 4–12, 2010.
[7] H. Wu, G. Lu, D. Li, C. Guo, and Y. Zhang, “MDCube: a
high performance network structure for modular data center
interconnection,” in Proceedings of the 5th international
conference on Emerging networking experiments and tech-
nologies. ACM, 2009, pp. 25–36.
[8] A. Greenberg, J. R. Hamilton, N. Jain, S. Kandula, C. Kim,
P. Lahiri, D. A. Maltz, P. Patel, and S. Sengupta, “VL2: a
scalable and flexible data center network,” in ACM SIG-
COMM computer communication review, vol. 39, no. 4.
ACM, 2009, pp. 51–62.
[9] J.-Y. Shin, B. Wong, and E. G. Sirer, “Small-world data
centers,” in Proceedings of the 2nd ACM Symposium on
Cloud Computing. ACM, 2011, p. 2.
[10] A. Singla, C.-Y. Hong, L. Popa, and P. B. Godfrey, “Jellyfish:
Networking data centers randomly,” in Presented as part of
the 9th {USENIX} Symposium on Networked Systems Design
and Implementation ({NSDI} 12), 2012, pp. 225–238.
[11] Y. Yu and C. Qian, “Space shuffle: A scalable, flexible, and
high-bandwidth data center network,” in 2014 IEEE 22nd
International Conference on Network Protocols. IEEE,
2014, pp. 13–24.
[12] M. Al-Fares, A. Loukissas, and A. Vahdat, “A scalable,
commodity data center network architecture,” in ACM SIG-
COMM Computer Communication Review, vol. 38, no. 4.
ACM, 2008, pp. 63–74.
[13] I. Fujiwara, M. Koibuchi, H. Matsutani, and H. Casanova,
“Skywalk: A topology for HPC networks with low-delay
switches,” in 2014 IEEE 28th International Parallel and
Distributed Processing Symposium. IEEE, 2014, pp. 263–
272.
[14] J. Kim, W. J. Dally, S. Scott, and D. Abts, “Technology-
driven, highly-scalable dragonfly topology,” in 2008 Interna-
tional Symposium on Computer Architecture. IEEE, 2008,
pp. 77–88.
[15] D. Wong, K. T. Seow, C. H. Foh, and R. Kanagavelu,
“Towards reproducible performance studies of datacenter
network architectures using an open-source simulation ap-
proach,” in 2013 IEEE Global Communications Conference
(GLOBECOM). IEEE, 2013, pp. 1373–1378.
[16] “OMNeT++ discrete event simulator.” [Online]. Available:
https://www.omnetpp.org
[17] “Simgrid: Versatile simulation of distributed systems.”
[Online]. Available: 
[18] M. Thorup and U. Zwick, “Compact routing schemes,” in
Proceedings of the thirteenth annual ACM symposium on
Parallel algorithms and architectures. ACM, 2001, pp. 1–
10.
[19] S. Lederer, Y. Wang, and J. Gao, “Connectivity-based local-
ization of large-scale sensor networks with complex shape,”
ACM Transactions on Sensor Networks (TOSN), vol. 5, no. 4,
p. 31, 2009.
[20] M. Benito, E. Vallejo, and R. Beivide, “On the use of
commodity ethernet technology in exascale HPC systems,”
in 2015 IEEE 22nd International Conference on High Per-
formance Computing (HiPC). IEEE, 2015, pp. 254–263.
[21] L. J. Cowen, “Compact routing with minimum stretch,”
Journal of Algorithms, vol. 38, no. 1, pp. 170–183, 2001.
[22] “Network simulation: NS2.” [Online]. Available:
https://ns2tutor.weebly.com
[23] K. Pagiamtzis and A. Sheikholeslami, “Content-addressable
memory (CAM) circuits and architectures: A tutorial and
survey,” IEEE journal of solid-state circuits, vol. 41, no. 3,
pp. 712–727, 2006.
[24] H. Liu, “Routing table compaction in ternary CAM,” IEEE
Micro, vol. 22, no. 1, pp. 58–64, 2002.
[25] C. Basso, J. L. Calvignac, G. T. Davis, and P. C. Patel,
“Longest prefix match lookup using hash function,” Apr. 20
2010, US Patent 7,702,630.
37
Các công trình nghiên cứu phát triển Công nghệ Thông tin và Truyền thông
Kiều Thành Chung tốt nghiệp Kỹ sư Công
nghệ Thông tin năm 2003 và Thạc sĩ Công
nghệ Thông tin năm 2010 tại Trường Đại
học Bách Khoa Hà Nội. Năm 2016, tác
giả nghiên cứu tại Viện Công nghệ Thông
tin Quốc gia Nhật Bản (NII), hiện nay là
nghiên cứu sinh tại Viện Công nghệ Thông
tin và Truyền thông (SoICT), Trường Đại
học Bách khoa Hà Nội. Lĩnh vực nghiên cứu bao gồm: mạng liên
kết, thuật toán định tuyến.
Nguyễn Tiến Thành tốt nghiệp Kỹ sư
Công nghệ Thông tin năm 2008 và Thạc Sĩ
ngành Công nghệ Thông tin năm 2011 tại
Đại học Bách Khoa Hà Nội. Hiện nay tác
giả đang là giảng viên tại Viện Công nghệ
Thông tin và Truyền thông, Trường Đại
học Bách khoa Hà Nội. Lĩnh vực nghiên
cứu của tác giả bao gồm: công nghệ phần
mềm, kiểm chứng mô hình và mạng tự điều khiển (self-driving
networks).
Nguyễn Khanh Văn tốt nghiệp Kỹ sư Tin
học tại Trường Đại học Bách Khoa vào
năm 1992, Thạc sỹ Khoa học Máy tính tại
Đại học Wollongong (Úc) vào năm 2000
và Tiến sĩ Khoa học Máy tính tại Đại học
California-Davis (Mỹ) vào năm 2006. Hiện
nay ông là Phó Giáo sư, giảng dạy và
nghiên cứu tại Viện Công nghệ Thông tin
và Truyền thông, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Các lĩnh vực
nghiên cứu chính bao gồm: thuật toán và các mô hình lý thuyết
trong tính toán phân tán và mạng máy tính (mạng liên kết, mạng
cảm biến không dây), an toàn thông tin.
38

File đính kèm:

  • pdfmot_tiep_can_thiet_ke_cong_cu_phan_mem_danh_gia_hieu_nang_ma.pdf