Một số yếu tố liên quan tới kiến thức, thái độ và thực hành của nhân viên y tế trong thực hiện phòng ngừa chuẩn

Mục tiêu:

Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đối với kiến thức, thái độ và thực hành của NVYT đối với một số quy định phòng ngừa chuẩn tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình năm 2018.

Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang.

 Kết quả nghiên cứu: Kiến thức đạt về vệ sinh tay của NVYT có liên quan đến yếu tố chuyên môn điều dưỡng; hệ nội và đã được tập huấn tương ứng với OR (95%CI) 2,04(1,2-3,4); 1,8 (1,1-2,9) và 4,1(1,1-15,6) đều có ý nghĩa thống kê với p<0,05. kiến="" thức="" đạt="" về="" phòng="" hộ="" cá="" nhân="" của="" nvyt="" có="" liên="" quan="" đến="" giới="" tính="" nữ;="" hệ="" nội="" tương="" ứng="" với="" or="" (95%ci)="" là="" 2,1="" (1,2-3,7)="" và="" 1,6="" (1,04-2,63)="" đều="" có="" ý="" nghĩa="" thống="" kê="" với=""><0,05. thái="" độ="" đạt="" về="" phòng="" ngừa="" chuẩn="" của="" nvyt="" có="" liên="" quan="" đến="" nhóm="" tuổi,="" hệ="" nội="" tương="" ứng="" với="" or="" (95%ci)="" lần="" lượt="" là="" 20,4="" (0,2-0,6)="" và="" 3,1(1,9-5,2)="" đều="" có="" ý="" nghĩa="" thống="" kê="" với=""><>

pdf 7 trang phuongnguyen 180
Bạn đang xem tài liệu "Một số yếu tố liên quan tới kiến thức, thái độ và thực hành của nhân viên y tế trong thực hiện phòng ngừa chuẩn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số yếu tố liên quan tới kiến thức, thái độ và thực hành của nhân viên y tế trong thực hiện phòng ngừa chuẩn

Một số yếu tố liên quan tới kiến thức, thái độ và thực hành của nhân viên y tế trong thực hiện phòng ngừa chuẩn
SỐ 4 (51) - Tháng 07-08/2019
Website: yhoccongdong.vn 63
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN TỚI KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ 
THỰC HÀNH CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ TRONG THỰC HIỆN 
PHÒNG NGỪA CHUẨN
Bùi Thị Xuyến1, Vũ Phong Túc2, Nguyễn Xuân Bái2
TÓM TẮT
Mục tiêu: Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đối với 
kiến thức, thái độ và thực hành của NVYT đối với một số 
quy định phòng ngừa chuẩn tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh 
Thái Bình năm 2018. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả 
cắt ngang.
Kết quả nghiên cứu: Kiến thức đạt về vệ sinh tay của 
NVYT có liên quan đến yếu tố chuyên môn điều dưỡng; 
hệ nội và đã được tập huấn tương ứng với OR (95%CI) 
2,04(1,2-3,4); 1,8 (1,1-2,9) và 4,1(1,1-15,6) đều có ý nghĩa 
thống kê với p<0,05. Kiến thức đạt về phòng hộ cá nhân 
của NVYT có liên quan đến giới tính nữ; hệ nội tương ứng 
với OR (95%CI) là 2,1 (1,2-3,7) và 1,6 (1,04-2,63) đều có 
ý nghĩa thống kê với p<0,05. 
Thái độ đạt về phòng ngừa chuẩn của NVYT có liên 
quan đến nhóm tuổi, hệ nội tương ứng với OR (95%CI) lần 
lượt là 20,4 (0,2-0,6) và 3,1(1,9-5,2) đều có ý nghĩa thống 
kê với p<0,05. 
Đối tượng nghiên cứu là điều dưỡng, có thâm niên 
công tác từ 5 năm trở lên, làm việc tại hệ nội và đối tượng 
được đào tạo tập huấn có tỷ lệ đạt thực hành đối với PNC 
cao hơn nhóm đối tượng là bác sĩ và đối tượng có thâm 
niên công tác dưới 5 năm, đối tượng hệ ngoại và đối tượng 
không được đào tạo tập huấn, tuy nhiên sự khác biệt không 
có ý nghĩa với p>0,05.
Kết luận: Yếu tố chuyên môn, hệ nội, đã được đào 
tạo tập huấn có liên quan với kiến thức vệ sinh tay của 
NVYT. Yếu tố giới tính, hệ nội có liên quan với kiến thức 
phòng hộ cá nhân của NVYT. Yếu tố nhóm tuổi, hệ nội có 
liên quan với thái độ PNC, có ý nghĩa với p<0,05. Về thực 
hành, các yếu tố của NVYT trong nghiên cứu chưa thấy 
cosmooislieen quan có ý nghĩa thống kê với p>0,05. 
Từ khóa: Vệ sinh tay, phòng ngừa chuẩn.
SUMMARY:
SOME FACTORS RELATED TO KNOWLEDGE, 
ATTITUDE AND PRACTICE OF MEDICAL 
EMPLOYEES FOR PREVENTION STANDARD
Objective: Learn some relevant factors for 
knowledge, attitudes and practices of health workers 
for some standard preventive regulations at Thai Binh 
Provincial Hospital in 2018.
Method: A descriptive study through a cross-
sectional investigation.
Results: Knowledge about hand hygiene of health 
workers related to nursing expertise; internal system and 
was trained corresponding to OR (95% CI) 2.04 (1,2-3,4); 
1.8 (1.1-2.9) and 4.1 (1.1-15.6) are statistically significant 
with p <0.05. Knowledge of gaining personal protection 
of health workers is related to female gender; The internal 
system corresponding to OR (95% CI) is 2.1 (1,2-3,7) and 
1,6 (1,04-2,63) are statistically significant with p <0.05.
The attainment of standard prevention of medical 
staff is related to age group, internal system corresponding 
to OR (95% CI), respectively 20.4 (0.2-0.6) and 3.1 (1.9 
-5.2) were statistically significant with p <0.05.
The object of research is nursing; Having a seniority 
of 5 years or more, working in the internal system and 
training subjects have a higher rate of practice for standard 
preventionthan the group of doctors and subjects with 
lower working years. For 5 years, the foreign objects and 
subjects were not trained, but the difference did not make 
sense with p> 0.05.
Conclude: Professional, internal, and trained factors 
are relevant to hand hygiene knowledge of health workers. 
Sex and internal factors are related to personal protection 
knowledge of health workers. The factor of age group, 
internal system is related with standard preventionattitude, 
Ngày nhận bài: 01/06/2019 Ngày phản biện: 07/06/2019 Ngày duyệt đăng: 13/06/2019
1. Bệnh viện ĐK tỉnh Thái Bình
2. Trường ĐH Y Dược Thái Bình
SỐ 4 (51) - Tháng 07-08/2019
Website: yhoccongdong.vn64
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2019
significant with p <0.05. Regarding the practice, the 
factors of health workers in the study have not seen that 
cosmohislieen has statistical significance with p> 0.05.
Keywords: Hand hygiene, standard prevention
I . ĐẶT VẤN ĐỀ
Phòng ngừa chuẩn (PNC) được định nghĩa là tập hợp 
các biện pháp phòng ngừa áp dụng cho mọi người bệnh 
tại bệnh viện không tùy thuộc vào chẩn đoán và tình trạng 
nhiễm trùng của người bệnh. Mục tiêu của phòng ngừa 
chuẩn là nhằm phòng ngừa và kiểm soát lây nhiễm chéo 
qua máu, dịch tiết cơ thể, chất tiết cho dù chúng được nhìn 
thấy có chứa máu hay không, da không lành lặn và niêm 
mạc. Đây là biện pháp phòng ngừa quan trọng nhất, nhằm 
hạn chế sự lây truyền từ người sang người và từ người 
sang môi trường [1].
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, có ít nhất 1 trong 4 bệnh 
nhân chăm sóc đặc biệt bị nhiễm trùng trong thời gian ở 
bệnh viện, ở các nước đang phát triển, ước tính này có thể 
được tăng lên gấp đôi [8]. Báo cáo bùng nổ NKBV tại châu 
Âu, các bệnh nhiễm trùng gây ra do chăm sóc sức khỏe 
làm tăng thêm 16 triệu ngày điều trị và 37 nghìn trường 
hợp tử vong. Ở nước ta, công tác PNC vẫn còn đối đầu rất 
nhiều trở ngại như nguồn ngân sách còn hạn chế, cơ sở vật 
chất thiếu thốn, phần lớn NVYT và các nhà quản lý chưa 
nhận thức tầm quan trọng của công tác này. Nguyên nhân 
gây NKBV có rất nhiều [4], tuy nhiên, một trong những 
nguyên nhân quan trọng là kiến thức, thái độ của NVYT 
phòng ngừa chuẩn chưa cao. 
Bệnh viện đa khoa tỉnh Thái Bình là bệnh viện hạng 
I, với quy mô 1000 giường bệnh, mỗi ngày có khoảng 700 
bác sỹ và điều dưỡng bệnh viện trực tiếp tiếp xúc với bệnh 
nhân, với khoảng 1300 lượt người bệnh đến khám và điều 
trị mỗi ngày, bên cạnh đó bênh viện là cơ sở thực hiện 
nhiều chuyên khoa sâu nên vấn đề phòng ngừa chuẩn đang 
ngày càng trở lên cấp thiết đối với bệnh viện. Các nghiên 
cứu trước đây phần lớn chỉ tìm hiểu về kiến thức, thái độ 
tuân thủ một số quy định về PNC, chưa khai thác đầy đủ 
các yếu tooslieen quan tác động đến tuân thủ PNC. Vì vậy, 
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài với mục tiêu: Tìm 
hiểu một số yếu tố liên quan đối với kiến thức và thực hành 
của NVYT đối với một số quy định phòng ngừa chuẩn tại 
Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình năm 2018.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN 
CỨU
Đối tượng và địa bàn nghiên cứu: NVYT bao gồm 
các bác sĩ, điều dưỡng đang trực tiếp điều trị, chăm sóc 
bệnh nhân tại các khoa lâm sàng có thực hành các biện pháp 
phòng ngừa chuẩn; làm việc liên tục tại Bệnh viện đa khoa 
tỉnh Thái Bình ≥12 tháng; đồng ý tham gia nghiên cứu.
Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 9/2018 - 5/2019
Thiết kế nghiên cứu: Là một nghiên cứu mô tả qua 
một cuộc điều tra cắt ngang.
Cỡ mẫu nghiên cứu: Áp dụng theo công thức tính 
cỡ mẫu xác định tỷ lệ:
Cỡ mẫu tính toán tối thiểu là 256 đối tượng, thực tế 
điều tra 295 đối tượng. 
Phương pháp chọn mẫu
Phương pháp chọn mẫu chùm được áp dụng trong 
nghiên cứu này. Trong số danh sách 24 khoa lâm sàng, 
chọn chùm bậc 1 là các khoa hệ nội và các khoa hệ ngoại 
được chọn vào nghiên cứu. Đơn vị mẫu của chùm bậc 2 là 
NVYT được lựa chọn ngẫu nhiên tại mỗi khoa lâm sàng. 
Căn cứ danh sách có 25 đến 30 NVYT tại mỗi khoa. Vì 
vậy để đảm bảo cỡ mẫu nghiên cứu và tính đại diện của 
mỗi chùm bậc 2, chúng tôi chọn mẫu theo phương pháp 
chọn mẫu ngẫu nhiên đơn với ước lượng 12 NVYT/khoa.
Các biến số và chỉ số nghiên cứu
- Mối liên quan giữa kiến thức về vệ sinh tay với 
chuyên môn, thâm niên công tác, hệ làm việc và được đào 
tạo, tập huấn. 
- Mối liên quan giữa kiến thức về phòng hộ cá nhân 
với nhóm tuổi, giới tính, chuyên môn, thâm niên công tác, 
hệ làm việc và được đào tạo, tập huấn.
- Mối liên quan giữa thực hành phòng ngừa chuẩn 
với chuyên môn, thâm niên công tác, hệ làm việc và được 
đào tạo, tập huấn.
Công cụ và phương pháp thu thập số liệu
* Công cụ thu thập số liệu 
- Bộ câu hỏi được xây dựng dựa trên các biến số 
nghiên cứu và dựa trên “Hướng dẫn về kiểm soát nhiêm 
khuẩn trong các cơ sở khám chữa bệnh” của Bộ Y tế, năm 
2017 và Thông tư 16/2018/TT-BYT quy định về kiểm soát 
nhiễm khuẩn trong các cơ sở khám chữa bệnh.
* Phương pháp thu thập số liệu
+ Phương pháp tiến hành phát phiếu tự điền
* Đo lường kiến thức, thái độ, thực hành 
- Về kiến thức của NVYT: Đánh giá theo thang điểm 
nhị giá, 1 điểm cho câu trả lời đúng và 0 điểm cho câu trả lời 
sai. Số câu trả lời đúng sẽ bằng tổng số điểm đạt được. Kiến 
thức được đánh giá là Đạt khi điểm số ≥2/3 số điểm tuyệt đối.
- Về thái độ của NVYT: Nghiên cứu sử dụng thanh đo 
Likert 3 mức “Không đồng ý”, “Không ý kiến” và “ Đồng 
ý” để NVYT lựa chọn. Điểm tối đa của phần đánh giá thái 
độ là 7 điểm. NVYT được đánh giá là có thái độ được đánh 
giá là tích cực khi số điểm ≥5 điểm (>70%). Không tích 
cực khi số điểm<5 điểm .
SỐ 4 (51) - Tháng 07-08/2019
Website: yhoccongdong.vn 65
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
- Về thực hành của NVYT: Đánh giá theo thang 
điểm 4: luôn luôn (4 điểm), thường xuyên (3 điểm), 
đôi khi (2 điểm), hiếm khi (1 điểm), không thực hiện 
(0 điểm). NVYT có thực hành đúng khi thực hiện 
ở mức luôn luôn hoặc thường xuyên và đạt điểm 
>50%.
Xử lý số liệu: Số liệu được làm sạch và nhập máy. Sử 
dụng phần mềm SPSS phân tích.
III. KẾT QUẢ
Bảng 3.1. Mối liên quan giữa kiến thức về VST với một số yếu tố của NVYT
Các yếu tố liên quan n
Đạt kiến thức đối với VST
SL % OR (95% CI) p
Chuyên môn 
Bác sĩ 82 36 43,9 1
<0,05
Điều dưỡng 213 131 61,5 2,04(1,2-3,4)
Thâm niên
< 5 năm 95 55 57,9 1
>0,05
≥ 5 năm 200 112 56,0 0,93 (0,56-1,52)
Hệ 
Ngoại 139 68 48,9 1
<0,05
Nội 156 99 63,5 1,8 (1,1-2,9)
Đào tạo, tập huấn
Không 12 3 25,0 1
<0,05
Có 283 164 58,0 4,1(1,1-15,6)
Bảng 3.2. Mối liên quan giữa kiến thức về PHCN với một số yếu tố của NVYT
Các yếu tố liên quan n
Đạt kiến thức đối với PHCN
SL % OR (95% CI) p
Nhóm tuổi
< 30 tuổi 136 68 50,0 1
>0,05
≥ 30 tuổi 159 66 41,5 0,7(0,45-1,12)
Giới
Nam 66 21 31,8 1
<0,05
Nữ 229 113 49,3 2,1 (1,2-3,7)
Chuyên môn 
Bác sĩ 82 35 42,7 1
>0,05
Điều dưỡng 213 99 46,5 1,2(0,7-1,9)
Thâm niên
< 5 năm 95 48 50,5 1
>0,05
≥ 5 năm 200 86 43,0 0,7 (0,4-1,2)
Hệ 
Ngoại 139 54 38,8 1
<0,05
Nội 156 80 51,3 1,6 (1,04-2,63)
Đào tạo, tập huấn
Không 12 4 33,3 1
>0,05
Có 283 130 45,9 1,7 (0,5-5,8)
Kết quả bảng trên cho thấy đối tượng nghiên cứu có 
chuyên môn là điều dưỡng có kiến thức đạt đối với VST 
chiếm 61,5% cao hơn gấp 2,04 lần so với đối tượng có 
chuyên môn là bác sĩ, có ý nghĩa với p<0,05. Đối tượng 
nghiên cứu thuộc hệ nội và có được đào tạo tập huấn có 
kiến thức đạt đối với VST cao hơn gấp 1,8 lần và 4,1 lần 
so với đối tượng thuộc hệ ngoại và không được đào tạo tập 
huấn, có ý nghĩa với p<0,05.
SỐ 4 (51) - Tháng 07-08/2019
Website: yhoccongdong.vn66
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2019
Kết quả bảng trên cho thấy đối tượng là nữ giới có kiến 
thức về phòng hộ cá nhân là 49,3%; cao hơn so với nam 
gấp 2,1 lần, có ý nghĩa với p<0,05. Đối tượng nghiên cứu 
có chuyên môn là điều dưỡng có kiến thức đạt đối với VST 
là 46,5%; đối tượng nghiên cứu có chuyên môn là bác sĩ đạt 
42,7%; sự khác biệt không có ý nghĩa với p>0,05. Đối tượng 
nghiên cứu thuộc hệ nội có kiến thức đạt đối với VST cao 
hơn gấp 1,6 lần so với đối tượng thuộc hệ ngoại, có ý nghĩa 
với p<0,05. Không có sự khác biệt giữa nhóm được đào tạo, 
tập huấn và nhóm không được đào tạo, tập huấn, với p>0,05.
Kết quả bảng trên cho thấy đối tượng nghiên cứu trẻ 
hơn (<30 tuổi) đạt thái độ đối với PNC với 77,2% cao hơn 
nhóm có độ tuổi từ 30 trở lên, có ý nghĩa với p<0,05. Không 
có sự khác biệt giữa nam và nữ, với p>0,05. Các NVYT ở 
hệ nội có thái độ đạt về PNC chiếm 78,2% cao hơn gấp 3,1 
lần so với các NVYT ở hệ ngoại, có ý nghĩa với p<0,05. 
Không có sự khác biệt giữa nhóm được đào tạo, tập huấn và 
nhóm không được đào tạo, tập huấn, với p>0,05.
Kết quả bảng trên cho thấy các NVYT là điều dưỡng 
và NVYT có thâm niên công tác từ 5 năm trở lên có tỷ lệ 
đạt thực hành đối với PNC cao hơn nhóm NVYT là bác 
sĩ và NVYT có thâm niên công tác dưới 5 năm, tuy nhiên 
sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p>0,05. Các 
NVYT làm việc tại hệ nội và NVYT được đào tạo tập huấn 
có tỷ lệ đạt thực hành đối với PNC là 46,8% và 42,8%; 
cao hơn nhóm NVYT hệ ngoại và NVYT không được đào 
tạo tập huấn, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa với 
p>0,05. 
Bảng 3.3. Mối liên quan giữa thái độ về PNC với một số yếu tố của NVYT
Các yếu tố liên quan n
Đạt thái độ đối với PNC
SL % OR (95% CI) p
Nhóm tuổi
< 30 tuổi 136 105 77,2 1
<0,05
≥ 30 tuổi 159 91 57,2 0,4 (0,2-0,6)
Giới
Nam 66 39 59,1 1
>0,05
Nữ 229 157 68,6 1,5 (0,8-2,6)
Hệ 
Ngoại 139 74 53,2 1
<0,05
Nội 156 122 78,2 3,1(1,9-5,2)
Đào tạo, tập huấn
Không 12 6 50,0 1
>0,05
Có 283 190 67,1 2,0(0,6-6,5)
Bảng 3.4. Mối liên quan giữa thực hành về PNC với một số yếu tố của NVYT
Các yếu tố liên quan n
Đạt thực hành đối với PNC
SL % OR (95% CI) p
Chuyên môn 
Bác sĩ 82 30 36,6 1
>0,05
Điều dưỡng 213 96 45,1 1,4 (0,8-2,4)
Thâm niên
< 5 năm 95 35 36,8 1
>0,05
≥ 5 năm 200 91 45,5 1,4(0,8-2,4)
Hệ 
Ngoại 139 53 38,1 1
>0,05
Nội 156 73 46,8 1,4 (0,8-2,3)
Đào tạo, tập huấn
Không 12 5 41,7 1
>0,05
Có 283 121 42,8 1,04 (0,3-3,4)
SỐ 4 (51) - Tháng 07-08/2019
Website: yhoccongdong.vn 67
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bảng 3.5. Mối liên quan giữa kiến thức về PNC với thái độ về PNC của NVYT
Kiến thức n
Đạt thái độ đối với PNC
SL % OR (95% CI) p
Kiến thức VST
Không đạt 128 43 33,6 1
<0,05
Đạt 167 153 91,6 21,6 (11,2-41,7)
Kiến thức PHCN
Không đạt 161 99 61,5 1
<0,05
Đạt 134 97 72,4 1,6 (1,002-2,7)
Bảng 3.6. Mối liên quan giữa kiến thức về VST, PHCN với thực hành về PNC của NVYT
Kiến thức n
Đạt thực hành đối với PNC
SL % OR (95% CI) p
Kiến thức VST
Không đạt 128 47 36,7 1
>0,05
Đạt 167 79 47,3 1,5 (0,96-2,5)
Kiến thức PHCN
Không đạt 161 67 41,6 1
>0,05
Đạt 134 59 44,0 1,1 (0,7-1,7)
Kết quả bảng trên cho thấy nhân viên y tế đạt về kiến 
thức vệ sinh tay và kiến thức về phòng hộ cá nhân thì có 
tỷ lệ đạt về thái độ đối với phòng ngừa chuẩn cao (91,6% 
và 72,4%), gấp 21,6 và 1,6 lần so với nhóm không đạt kiến 
thức, có ý nghĩa với p<0,05.
Kết quả nghiên cứu cho thấy các NVYT đạt về kiến 
thức VST và kiến thức về phòng hộ cá nhân thì có tỷ lệ đạt 
về thực hành đối với PNC cao hơn so với nhóm không đạt 
kiến thức, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống 
kê với p>0,05.
IV. BÀN LUẬN
Khi tìm hiểu về mối liên quan giữa trình độ chuyên 
môn với kiến thức rửa tay của NVYT với VST trong PNC. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy, đối tượng nghiên cứu có 
chuyên môn là điều dưỡng có kiến thức đạt đối với VST 
chiếm 61,5% cao hơn gấp 2,04 lần so với đối tượng có 
chuyên môn là bác sĩ, có ý nghĩa với p<0,05. Theo chúng 
tôi thì kết quả này là khá phù hợp bởi vì điều dưỡng thường 
xuyên thực hiện các thao tác VST khi chăm sóc NB nhiều 
hơn so với bác sĩ. Vì vậy, họ sẽ có kiến thức về VST cao 
hơn so với bác sĩ.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên 
cứu của tác giả Hồ Thị Nhi Na năm 2016 tại Bệnh viện Đa 
khoa Trung ương Quảng Nam [3]. Kết quả nghiên cứu cho 
thấy, điều dưỡng/(nữ hộ sinh), hộ lý có kiến thức rửa tay 
cao gấp 3,85 lần so với bác sĩ và mối liên quan này có ý 
nghĩa thống kê. Một nghiên cứu khác của tác giả Nair cùng 
các cộng sự năm 2014 ở Ấn Độ [7], khi cho thấy sinh viên 
y khoa đạt tỷ lệ VST thấp hơn so với sinh viên điều dưỡng 
chiếm tỷ lệ tương ứng (74,2% so 95,4%). 
 Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy vị trí công 
việc và đào tạo tập huấn có mối liên quan đến kiến thức 
VST của NVYT trong PNC. Kết quả nghiên cứu cho thấy 
đối tượng nghiên cứu thuộc hệ nội và có được đào tạo tập 
huấn có kiến thức đạt đối với VST cao hơn gấp 1,8 lần và 
4,1 lần so với đối tượng thuộc hệ ngoại và không được đào 
tạo tập huấn, có ý nghĩa với p<0,05.
Việc đào tạo, tập huấn có sự khác biệt về kiến thức 
rửa tay của NVYT trong PNC. Kết quả nghiên cứu này 
theo chúng tôi là khá phù hợp, điều này có thể giải thích 
là để có kiến thức sâu rộng về tuân thủ VST thì ngoài việc 
đọc sách, kiến thức từ nhà trường, học tập từ bạn bè đồng 
nghiệp việc đào tạo liên tục và tập huấn thường xuyên cho 
NVYT, đặc biệt là cán bộ mới là đặc biệt quan trọng. Kết 
quả nghiên cứu của chúng tôi khá tương đồng với nghiên 
cứu của tác giả Lee cùng các cộng sự năm 2014 [6] cho 
SỐ 4 (51) - Tháng 07-08/2019
Website: yhoccongdong.vn68
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2019
thấy hiệu quả của tiếp cận truyền thông giúp NVYT nâng 
cao kiến thức tuân thủ VST. Trong các nguồn truyền thông 
đó thì tập huấn là nguồn truyền thông mà NVYT được tiếp 
cận thường xuyên nhất. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi 
khá tương đồng các nghiên cứu của tác giả Nguyễn Việt 
Hùng và các cộng sự [2]. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy đối tượng là nữ giới có 
kiến thức về phòng hộ cá nhân là 49,3%; cao hơn so với 
nam gấp 2,1 lần, có ý nghĩa với p<0,05. Nghiên cứu của 
chúng tôi hoàn toàn phù hợp với nghiên cứu của tác giả 
Ergin năm 2011 [5], nghiên cứu cũng cho kết quả khi so 
sánh sự khác biệt về kiến thức giữa nữ giới và nam giới khi 
nữ giới có kết quả cao hơn so với nam giới.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy đối tượng nghiên 
cứu trẻ hơn (<30 tuổi) đạt thái độ đối với PNC với 77,2% 
cao hơn nhóm có độ tuổi từ 30 trở lên, có ý nghĩa với 
p<0,05. Không có sự khác biệt giữa nam và nữ, với 
p>0,05. Điều này khá phù hợp với nghiên cứu của chúng 
tôi bởi vì đối tượng nghiên cứu của chúng tôi phần lớn 
là những người < 30 tuổi chiếm 46,1%. Hơn nữa những 
người trẻ tuổi họ dễ dàng tiếp cận nhiều nguồn kiến thức 
khác nhau, đó là lý do vì sao những người trẻ tuổi sẽ có 
kiến thức tốt hơn.
Kết quả nghiên cứu cho thấy các NVYT ở hệ nội có 
thái độ đạt về PNC chiếm 78,2% cao hơn gấp 3,1 lần so 
với các NVYT ở hệ ngoại, có ý nghĩa với p<0,05. Điều này 
phù hợp với nghiên cứu của chúng tôi, vì NVYT hệ nội có 
kiến thức tốt hơn NVYT hệ ngoại về PNC. Như vậy theo 
nghiên cứu kiến thức về PNC tốt hơn thì sẽ có thái độ tích 
cực hơn trong PNC.
Nghiên cứu cho thấy các NVYT là điều dưỡng và 
NVYT có thâm niên công tác từ 5 năm trở lên có tỷ lệ 
đạt thực hành đối với PNC cao hơn nhóm NVYT là bác 
sĩ và NVYT có thâm niên công tác dưới 5 năm, tuy nhiên 
sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p>0,05. Như 
vậy nhóm nhân viên có thời gian công tác lâu năm hơn, có 
nhiều kinh nghiệm lâm sàng hơn thì có thực hành cao hơn 
nhóm có thâm niên công tác ít hơn.
Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối liên quan giữa 
kiến thức và thái độ của NVYT trong PNC, khi NVYT đạt 
về kiến thức VST và kiến thức về phòng hộ cá nhân thì có 
tỷ lệ đạt về thái độ đối với PNC cao (91,6% và 72,4%), 
gấp 21,6 và 1,6 lần so với nhóm không đạt kiến thức, có ý 
nghĩa với p<0,05. 
Kiến thức tác động hành vi và là yếu tố tiên quyết 
thúc đẩy hành vi. Kết quả bảng trên cho thấy các NVYT 
đạt về kiến thức VST và kiến thức về phòng hộ cá nhân 
thì có tỷ lệ đạt về thực hành đối với PNC cao hơn so với 
nhóm không đạt kiến thức, tuy nhiên sự khác biệt không có 
ý nghĩa thống kê với p>0,05.
Thái độ là yếu tố quan trọng để thay đổi hành vi. Kết 
quả nghiên cứu cho thấy các NVYT đạt thái độ về PNC thì 
có tỷ lệ đạt về thực hành đối với PNC là 48,5% cao gấp 2,1 
lần so với nhóm không đạt thái độ, có ý nghĩa thống kê với 
p<0,05. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với kết 
quả nghiên cứu của Nguyễn Việt Hùng năm 2010 về đánh 
giá thực trạng và xác định mối liên quan về kiến thức, thái 
độ, thực hàng PNC và phòng ngừa cách ly của NVYT một 
số bệnh viện miền Bắc [2].
Nắm được thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành sẽ 
cung cấp dữ liệu cần thiết cho đào tạo để đạt được hiệu quả 
phòng ngừa NKBV tốt hơn. Các khóa đào tạo PNC luôn 
được coi là biện pháp ít tốn kém trong cải thiện tuân thủ 
quy trình kiểm soát nhiễm khuẩn và tránh lặp lại thói quen 
không đúng đang tồn tại. Nhằm đảm bảo thực hành KSNK 
được thực thi trong các cơ sở khám chữa bệnh, nội dung 
tập huấn cần nhấn mạnh tới khả năng, điều kiện thực tế 
và các yếu tố tác động đến tuân thủ của NVYT như: bệnh 
nhân cấp cứu, tình trạng quá tải, điều kiện cơ sở vật chất, 
trang thiết bị.
V. KẾT LUẬN
Yếu tố chuyên môn, hệ nội, đã được đào tạo tập huấn 
có liên quan với kiến thức vệ sinh tay của NVYT. Yếu tố 
giới tính, hệ nội có liên quan với kiến thức phòng hộ cá 
nhân của NVYT. Yếu tố nhóm tuổi, hệ nội có liên quan với 
thái độ PNC, có ý nghĩa với p<0,05. Về thực hành, các yếu 
tố của NVYT trong nghiên cứu chưa thấy cosmooislieen 
quan có ý nghĩa thống kê với p>0,05. 
SỐ 4 (51) - Tháng 07-08/2019
Website: yhoccongdong.vn 69
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế (2011), Tài liệu đào tạo liên tục kiểm soát nhiễm khuẩn cho nhân viên y tế tuyến cơ sở. Hội Kiểm soát 
nhiểm khuẩn Huế, tr. 30-39.
2. Nguyễn Việt Hùng, Lê Bá Nguyên (2010), “Đánh giá thực trạng và xác định mối liên quan kiến thức, thái độ 
và thực hành về phòng ngừa chuẩn và phòng ngừa cách ly của nhân viên y tế một số bệnh viện miền Bắc”, Tạp chí Y 
học Thực hành, số 5, tr. 36- 40.
3. Hồ Thị Nhi Na (2016), Kiến thức và thái độ đối với một số quy định phòng ngừa chuẩn của nhân viên y tế tại một 
số khoa của Bệnh viện đa khoa Trung ương Quảng Nam năm 2015, Luận văn thạc sỹ y học Trường đại học Y Hà Nội.
4. Trần Hữu Nghĩa (2013), Kiến thức, thực hành của điều dưỡng viên Đại học tại chức khóa 9 - Đại học Y Hà Nội 
về phòng chống nhiễm khuẩn bệnh viện, Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân YTCC, Trường Đại học Y Hà Nội.
5. Ergin A. (2011), “Evaluation of students’ social hand washing knowledge, practices, and skills in a university 
setting”, “ Cent Eur J Public Health. 19(4), pp. 222-226.
6. Lee S. (2014), “Improved Hand Hygiene Compliance is Associated with the Change of Perception toward Hand 
Hygiene among Medical Personnel”, Infect Chemother. 46(3), pp. 165-171.
7. Sreejith Sasidharan Nair (2014), “Knowledge, Attitude, and Practice of Hand Hygiene among Medical and 
Nursing Students at a Tertiary Health Care Centre in Raichur, India”, Hindawi Publishing Corporation. 
8. Truong Anh Thu, Ngo Quy Chau and Nguyen Viet Hung (2012), Knowledge, Attitude and Practices Regarding 
Standard and Isolation Precautions Among

File đính kèm:

  • pdfmot_so_yeu_to_lien_quan_toi_kien_thuc_thai_do_va_thuc_hanh_c.pdf