Một số yếu tố liên quan giữa tâm lý xã hội và viêm loét dạ dày tá tràng mạn tính ở vị thành niên

Bên cạnh yếu tố gây viêm loét dạ dày tá tràng như vi khuẩn Helicobacter pylori (HP), các yếu tố tâm

lý - xã hội cũng được nhận thấy có liên quan đến bệnh lý này. Nghiên cứu mô tả cắt ngang 214 vị thành

niên được chẩn đoán viêm loét dạ dày tá tràng mạn tính tại Bệnh viện Nhi Trung ương, Bệnh viện Bạch

Mai, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội trong thời gian từ 4/2018 - 3/2019 nhằm mục tiêu xác định mối liên quan

giữa yếu tố tâm lý xã hội và nguy cơ có tổn thương loét dạ dày tá tràng ở vị thành niên bị viêm dạ dày

tá tràng mạn tính. Kết quả cho thấy các yếu tố tuổi 14 - 19, nam, tình trạng gia đình có vấn đề, xung đột

với cha mẹ, phối hợp ≥ 2 sang chấn tâm lý, ngủ muộn sau 23 giờ hàng ngày, ngủ rất muộn sau 24 giờ

hàng ngày, thói quen ăn uống thất thường đều làm tăng nguy cơ xuất hiện tổn thương loét dạ dày tá tràng.

pdf 8 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Một số yếu tố liên quan giữa tâm lý xã hội và viêm loét dạ dày tá tràng mạn tính ở vị thành niên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số yếu tố liên quan giữa tâm lý xã hội và viêm loét dạ dày tá tràng mạn tính ở vị thành niên

Một số yếu tố liên quan giữa tâm lý xã hội và viêm loét dạ dày tá tràng mạn tính ở vị thành niên
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
1TCNCYH 131 (7) - 2020
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Thanh Mai, 
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 18/02/2020
Ngày được chấp nhận: 10/07/2020
MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN GIỮA TÂM LÝ XÃ HỘI VÀ VIÊM 
LOÉT DẠ DÀY TÁ TRÀNG MẠN TÍNH Ở VỊ THÀNH NIÊN 
Nguyễn Thị Phương Mai, Đỗ Thị Minh Phương và Nguyễn Thị Thanh Mai 
Trường Đại học Y Hà Nội 
Bên cạnh yếu tố gây viêm loét dạ dày tá tràng như vi khuẩn Helicobacter pylori (HP), các yếu tố tâm 
lý - xã hội cũng được nhận thấy có liên quan đến bệnh lý này. Nghiên cứu mô tả cắt ngang 214 vị thành 
niên được chẩn đoán viêm loét dạ dày tá tràng mạn tính tại Bệnh viện Nhi Trung ương, Bệnh viện Bạch 
Mai, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội trong thời gian từ 4/2018 - 3/2019 nhằm mục tiêu xác định mối liên quan 
giữa yếu tố tâm lý xã hội và nguy cơ có tổn thương loét dạ dày tá tràng ở vị thành niên bị viêm dạ dày 
tá tràng mạn tính. Kết quả cho thấy các yếu tố tuổi 14 - 19, nam, tình trạng gia đình có vấn đề, xung đột 
với cha mẹ, phối hợp ≥ 2 sang chấn tâm lý, ngủ muộn sau 23 giờ hàng ngày, ngủ rất muộn sau 24 giờ 
hàng ngày, thói quen ăn uống thất thường đều làm tăng nguy cơ xuất hiện tổn thương loét dạ dày tá tràng.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Các nghiên cứu dịch tễ học cho thấy có từ 
5 – 20% loét dạ dày tá tràng chưa xác định rõ 
nguyên nhân và tỷ lệ loét dạ dày tá tràng không 
nhiễm HP, không do dùng thuốc kháng viêm 
không steroid (NSAID) đang gia tăng trên toàn 
thế giới.1 - 3 Trong nhiều nghiên cứu gần đây, các 
nhà khoa học đề cập đến vai trò của các yếu tố 
tâm lý xã hội có liên quan đến quá trình chữa 
lành các vết loét dạ dày tá tràng, thông qua cơ 
chế sinh học (giảm lưu lượng máu niêm mạc 
và tăng bài tiết acid dạ dày).4 - 6 Đặc biệt, trong 
một bài báo tổng quan, Levenstein nhận thấy 
loét dạ dày tá tràng là sự tương tác phức tạp 
giữa các yếu tố tâm lý xã hội, hành vi và truyền 
nhiễm, trong đó các yếu tố tâm lý xã hội có thể 
đóng góp từ 30 - 65% vào cơ chế gây loét dạ 
dày tá tràng.⁴ Những thói quen không tốt có thể 
gặp ở lứa tuổi vị thành niên như ăn uống thất 
thường, thức khuya, hút thuốc lá, sử dụng chất 
kích thích như rượu, bia... Những thói quen 
này đều đã được chứng minh là yếu tố nguy cơ 
của viêm loét dạ dày tá tràng.6,7 Trong quá trình 
trưởng thành, trẻ em luôn phải đối mặt với các 
sự kiện gây căng thẳng, có thể trở thành các 
sang chấn tâm lý dẫn đến những thay đổi nhất 
định trong cuộc sống của trẻ, đặc biệt là lứa tuổi 
vị thành niên. Các sang chấn tâm lý này thường 
gặp là xung đột giữa trẻ và cha mẹ, mâu thuẫn 
của cha mẹ gây tan vỡ gia đình (ly thân hoặc ly 
hôn), bệnh nặng hay cái chết của những thành 
viên trong gia đình hoặc bệnh tật của chính bản 
thân trẻ.⁸ Mối liên quan giữa những sang chấn 
tâm lý trong cuộc sống với viêm loét dạ dày tá 
tràng đã được báo cáo trong nhiều nghiên cứu 
.4,9,10 Tại Việt Nam, trong khoảng 20 năm trở lại 
đây đã có rất nhiều nghiên cứu về viêm loét dạ 
dày tá tràng và HP, NSAID. Tuy nhiên, có rất ít 
các nghiên cứu quan tâm đến lĩnh vực tâm lý xã 
hội ở trẻ em bị viêm loét dạ dày tá tràng. Xuất 
phát từ những nhận xét như trên, chúng tôi tiến 
hành nghiên cứu với mục tiêu: xác định mối liên 
quan giữa một số yếu tố tâm lý xã hội với viêm 
loét dạ dày tá tràng mạn tính ở vị thành niên.
Từ khóa: loét dạ dày tá tràng mạn tính, vị thành niên, tâm lý xã hội.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
2 TCNCYH 131 (7) - 2020
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Gồm 214 trẻ từ 10 - 19 tuổi (29 trẻ ở Bệnh 
viện Bạch Mai, 173 trẻ ở Bệnh viện Nhi Trung 
ương và 12 trẻ ở Bệnh viện Đại học Y Hà Nội) 
từ tháng 4/ 2018 – 3/ 2019, được chẩn đoán 
viêm loét dạ dày tá tràng mạn tính bằng nội soi 
đường tiêu hóa trên, làm test urease xác định 
tình trạng nhiễm HP và mô bệnh học để xác 
định mức độ tổn thương mạn tính. Những trẻ 
không đồng ý tham gia nghiên cứu hoặc có tiền 
sử mắc các rối loạn tâm thần trước đó sẽ loại 
khỏi nghiên cứu.
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt ngang.
Biến số, chỉ số nghiên cứu: thói quen sinh 
hoạt, sang chấn tâm lý, stress, lo âu, trầm cảm.
Công cụ nghiên cứu: thang đánh giá trầm 
cảm, lo âu và stress DASS - 21 - V (Depression, 
Anxiety, Stress Scale - 21 - phiên bản tiếng 
Việt) gồm 21 câu hỏi, trong đó gồm 3 vấn đề: 
trầm cảm (7 câu hỏi), lo âu (7 câu hỏi) và stress 
(7 câu hỏi), đối tượng nghiên cứu trả lời về 
tình trạng mà mình cảm thấy trong vòng 1 tuần 
vừa qua với 4 mức độ: 0 - “Điều này hoàn toàn 
không xảy ra với tôi”; 1 - “Điều này xảy ra cho 
tôi một phần nào, hay thỉnh thoảng”; 2 - “Điều 
này thường xảy ra cho tôi, hay nhiều lần”; 3 - 
“Điều này rất thường xảy ra, hay hầu hết lúc 
nào cũng có”. Mức độ các rối loạn được đánh 
giá bằng cách nhân hai lần tổng số điểm của 
từng vấn đề (do đây là bản rút gọn so với bản 
chính gồm 42 câu). Tổng điểm dao động từ 0 
đến 42 điểm tương ứng với mức độ từng vấn 
đề. Kết quả đánh giá được phân loại thành mức 
bình thường và 4 mức độ rối loạn: nhẹ, vừa, 
nặng và rất nặng. Thang đo này được Trần Đức 
Thạch và cộng sự (2013) dịch sang tiếng Việt 
(DASS - V), đánh giá về độ nhạy, độ đặc hiệu 
với ngưỡng xác định trầm cảm = 10, lo âu = 8 
và stress = 14, Cronbach’s alpha = 0,88 và đã 
được sử dụng rộng rãi trong khảo sát stress, lo 
âu, trầm cảm.11
Mẫu và cách chọn mẫu: Lấy mẫu thuận tiện, 
chọn tất cả bệnh nhân trong độ tuổi từ 10 – 19 
tuổi đáp ứng đủ tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân 
trong thời gian từ 4/2018 – 3/2019.
3. Xử lý số liệu
Sử dụng phần mềm thống kê SPSS 20.0 
phân tích số liệu để tìm OR, 95% CI, p, hệ số 
hồi quy logistic xác định mối liên quan giữa các 
vấn đề.
4. Đạo đức nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu được giải thích và tự 
nguyện tham gia nghiên cứu. Trẻ được phỏng 
vấn bằng bộ câu hỏi và thang đo tâm lý, không 
có các hoạt động can thiệp đến cơ thể trẻ. Các 
thông tin thu thập sẽ được giữ bí mật và cung 
cấp cho mục tiêu nghiên cứu. Nghiên cứu đã 
được thông qua Hội đồng Y đức của Bệnh viện 
Nhi Trung ương.
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Bảng 1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm chung (n = 214) n Tỷ lệ %
Nhóm tuổi 
10 - 13 tuổi 159 74,3
14 - 19 tuổi 55 `25,7
Tuổi trung bình X ± SD (min - max): 12,4 ± 1,9 tuổi (10 - 19 tuổi)
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
3TCNCYH 131 (7) - 2020
Đặc điểm chung (n = 214) n Tỷ lệ %
Giới tính
Nữ 96 44,9
Nam 118 55,1
Nơi sống
Thành phố 148 69,2
Nông thôn 66 30,8
Tình trạng gia đình
Bình thường 182 85
Có vấn đề 32 15
Tổn thương dạ dày tá tràng
Viêm mạn tính không loét 117 54,7
Viêm mạn tính có loét 97 45,3
 Tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu là 12,4 tuổi. Không có sự khác biệt về tỷ lệ nam: nữ trong 
nhóm nghiên cứu.
Bảng 2. Đặc điểm tâm lý xã hội của đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm tâm lý xã hội
Nữ 
(n = 96)
Nam 
(n = 118)
Tổng
(n = 214)
Thói quen sinh hoạt, n (%)
Ngủ sau 23h hàng ngày 29 (30,2) 67 (56,8) (*) 96 (44,9)
Ngủ sau 24h hàng ngày 13 (13,5) 32 (27,1) (*) 45 (21,0)
Hút thuốc lá điện tử 6 (6,3) 33 (28,0) (*) 39 (18,2)
Ăn uống thất thường 33 (34,4) 70 (59,3) (*) 103 (48,1)
Uống trà/ cà phê hàng ngày 13 (13,5) 20 (16,9) 33 (15,4)
Sang chấn tâm lý, n (%)
Không có sang chấn tâm lý 14 (14,6) 3 (2,5) 17 (7,9)
Có sang chấn tâm lý 82 (85,4) 115 (97,5)(*) 197 (92,1)
Có ≥ 2 sang chấn tâm lý 53 (55,2) 78 (66,1) 131 (61,2)
Nội dung của sang chấn tâm lý, n (%)
Lo lắng về bệnh tật 53 (55,2) 84 (71,2) 137 (69,5)
Áp lực học tập 51 (53,1) 68 (57,6) 119 (60,4)
Xung đột với cha mẹ 17 (17,7) 41 (34,7) (*) 58 (29,4)
Bị bắt nạt ở trường 19 (19,8) 16 (13,6) 35 (17,8)
Thất bại trong tình yêu 22 (22,9) 26 (22,0) 48 (24,4)
Stress, lo âu và trầm cảm (DASS – 21), n (%)
Stress 57 (59,4) 79 (66,9) 136 (63,6)
Lo âu 48 (50,0) 54 (45,8) 102 (47,7)
Trầm cảm 50 (52,1) 63 (53,4) 113 (52,8)
Stress + Lo âu 40 (41,7) 53 (44,9) 93 (43,5)
Stress + Lo âu + Trầm cảm 35 (36,5) 51 (43,2) 86 (40,2)
(*) p < 0,05 khi so sánh giữa 2 giới nam và nữ
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
4 TCNCYH 131 (7) - 2020
Thói quen sinh hoạt không tích cực, sang chấn tâm lý gặp ở nam nhiều hơn rõ rệt so với nữ (p 
< 0,05).
2. Mối liên quan giữa một số yếu tố tâm lý xã hội với viêm loét dạ dày tá tràng (phân tích 
đơn biến)
Bảng 3. Mối liên quan giữa một số yếu tố tâm lý xã hội với viêm loét dạ dày tá tràng 
(phân tích đơn biến)
Đặc điểm
Viêm mạn tính
OR (95%CI)Không loét
(n = 117)
Có loét
(n = 97)
Tuổi, n (%)
10 - 13 tuổi (n = 159) 99 (62,3) 60 (37,7)
3,39 (1,77 - 6,49)
14 - 19 tuổi (n = 55) 18 (32,7) 37 (67,3)
Giới, n (%)
Nữ (n = 96) 72 (75,0) 24 (25,0)
4,87 (2,69 - 8,80)
Nam (n = 118) 45 (38,1) 73 (61,9)
Nơi sống, n (%)
Thành phố (n = 148) 74 (50,0) 74 (50,0)
0,535 (0,29 - 0,98)
Nông thôn (n = 66) 43 (65,2) 23 (34,8)
Tình trạng gia đình, n (%)
Bình thường (n = 182) 105 (57,7) 77 (42,3)
2,27 (1,05 - 4,93)
Có vấn đề (a) (n = 32) 12 (37,5) 20 (62,5)
Thói quen không tích cực, n 
Ăn uống thất thường (n = 103) 41 62 3,28 (1.87 - 5,76)
Uống trà/ cà phê hàng ngày 
(n = 33)
11 22 2,83 (1,29 - 6,18)
Hút thuốc lá điện tử (n = 39) 13 26 2,93 (1,41 - 6,09)
Ngủ sau 23h hàng ngày 
(n = 96)
35 61 3,97 (2,24 - 7,03)
Ngủ sau 24h hàng ngày 
( n= 45)
12 33 4,52 (2,17 - 9,364)
Sang chấn tâm lý, n (%)
Không có sang chấn (n = 17) 15 (88,2) 2 (11,8)
1,97 (1,71 - 2,26)
Có sang chấn (n = 197) 102 (51,8) 95 (48,2)
Số lượng sang chấn tâm lý, n (%), (n = 197)
Có 1 sang chấn tâm lý (n = 66) 41 (62,1) 25 (37,9)
2,00 (1,09 - 3,66)
Có ≥ 2 sang chấn tâm lý (n = 131) 59 (45,0) 72 (55,0)
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
5TCNCYH 131 (7) - 2020
Đặc điểm
Viêm mạn tính
OR (95%CI)Không loét
(n = 117)
Có loét
(n = 97)
Nội dung sang chấn tâm lý, n
Lo lắng về bệnh tật (n = 137) 62 75 2,08 (1,12 - 3,89)
Áp lực học tập (n = 119) 49 70 6,5 (2,82 - 14,9)
Xung đột với cha mẹ (n = 58) 19 39 4,19 (6,13 - 8,23)
Bị bắt nạt ở trường (n = 35) 18 17
1,17 (0,57 – 2,41)
Thất bại trong tình yêu (n = 48) 22 26
1,58 (0,83 – 3,02)
Stress, lo âu, trầm cảm, n 
Stress (n = 136) 62 74 2,85 (1,58 - 5,16)
Lo âu (n = 102) 37 65 4,39 (2,47 - 7,81)
Trầm cảm (n = 113) 41 72 5,34 (2,95 - 9,65)
Stress + Lo âu (n = 93) 32 61 4,50 (2,52 - 8,02)
Stress + Lo âu + Trầm cảm
(n = 86)
26 60 5,68 (3,12 - 10,32)
(a)Tình trạng gia đình có vấn đề: cha mẹ ly thân, ly hôn, đơn thân, góa.
 Các yếu tố: tuổi từ 14 - 19, nam giới, sống ở thành phố, tình trạng gia đình có vấn đề, các thói 
quen sinh hoạt không tích cực, sang chấn tâm lý , biểu hiện stress, lo âu, trầm cảm được xác định 
qua phân tích đơn biến là nguy cơ cho tổn thương loét ở nhóm đối tượng nghiên cứu.
3. Nguy cơ của một số yếu tố tâm lý xã hội ở vị thành niên đối với loét dạ dày tá tràng mạn 
tính (phân tích đa biến)
Bảng 4. Nguy cơ của một số yếu tố tâm lý xã hội ở vị thành niên đối với loét dạ dày tá tràng 
mạn tính (phân tích đa biến)
Yếu tố nguy cơ
Loét dạ dày tá tràng mạn tính
Exp (B) 95% CI
Tuổi từ 14 – 19 6,006 4,024 – 8,67
Nam giới 6,250 3,246 – 9,002
Sống ở thành phố 2,014 0,150 – 3.256
Gia đình có vấn đề 1,025 – 4,208
Xung đột với cha mẹ 2,802 1,245 – 4,507
Lo lắng về học tập 1,424 0,320 – 2,627
Lo lắng bệnh tật 1,574 0,152 – 3,015
Thất bại trong tình yêu 2,990 0,018 – 3,450
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
6 TCNCYH 131 (7) - 2020
Yếu tố nguy cơ
Loét dạ dày tá tràng mạn tính
Exp (B) 95% CI
Có ≥ 2 SC tâm lý 3,091 2,304 – 5,611
Ngủ muộn sau 23h 2,146 1,092 – 5,344
Ngủ muộn sau 24h 4,502 1,813 – 7,620
Ăn uống thất thường 3,259 2,561 – 6,634
Uống trà/ cà phê hàng ngày 1,462 0,135 – 3,012
Hút thuốc là điện tử 0,467 0,092 – 2,824
Trầm cảm 3,134 1.297 – 6,308
Lo âu 2,897 1,409 – 5,378
Stress 2,965 1,911 – 6,001
Stress + Lo âu 3,721 2,017 – 7,826
Stress + Lo âu + Trầm cảm 10,668 5,972 – 22,634
B: hệ số hồi quy; p: mức ý nghĩa phân tích hồi quy logistic 
Qua phân tích đa biến xác định một số yếu tố nguy cơ cho tổn thương loét là: tuổi, nam giới, gia 
đình có vấn đề, xung đột với cha mẹ, thói quen ngủ muộn, có ≥ 2 sang chấn tâm lý và stress, lo âu, 
trầm cảm.
IV. BÀN LUẬN
Cơ chế của loét dạ dày tá tràng do các vấn 
đề rối loạn tâm lý đã được đề xuất trong một 
số nghiên cứu trước đây.12 Hệ thống tiêu hóa 
và não bộ được kết nối chặt chẽ thông qua hệ 
thống thần kinh tự trị (trục não - ruột). Trong 
điều kiện stress, lo âu hoặc trầm cảm, chức 
năng thần kinh có thể bị rối loạn làm tăng bài 
tiết pepsin, acid dạ dày và gây tổn thương niêm 
mạc. Các vấn đề tâm lý có thể làm thay đổi bài 
tiết cortisol bằng cách ảnh hưởng đến trục hạ 
đồi - tuyến yên - tuyến thượng thận. Khi căng 
thẳng, nồng độ cortisol thường tăng cao có 
thể dẫn đến sự tăng bài tiết acid dạ dày, tình 
trạng này có thể gây mất cân bằng yếu tố bảo 
vệ niêm mạc đường tiêu hóa. Những người bị 
stress, lo âu, trầm cảm thường ít quan tâm đến 
triệu chứng viêm dạ dày tá tràng, do đó có thể 
tiến triển thành loét dạ dày tá tràng dễ dàng 
hơn. Ngoài ra, các thói quen tiêu cực như hút 
thuốc lá, uống rượu, ngủ muộn, uống cà phê 
hàng ngày gặp phổ biến ở những người có vấn 
đề tâm lý.
Do đó, để xác định mối liên quan này, chúng 
tôi so sánh giữa 2 nhóm: nhóm viêm dạ dày 
tá tràng mạn tính có tổn thương loét và nhóm 
viêm dạ dày tá tràng mạn tính không có tổn 
thương loét bằng phân tích đơn biến và đa biến 
hồi quy logistic. Theo y văn, một số yếu tố xã 
hội được xác định là nguy cơ của loét dạ dày 
tá tràng là tuổi, giới tính, tình trạng gia đình.2,6 
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tổn thương 
loét gặp chủ yếu ở nhóm 14 - 19 tuổi (bảng 3) 
và nguy cơ xuất hiện loét cao gấp 6,0 lần so 
với nhóm tuổi còn lại (bảng 4). Các nghiên cứu 
khác cũng ghi nhận tuổi càng cao, nguy cơ mắc 
viêm dạ dày tá tràng có tổn thương loét càng 
tăng lên.2,13 Nghiên cứu của Lee YB và cộng sự 
cho thấy tỷ lệ nam bị loét dạ dày tá tràng nhiều 
hơn nữ.⁶ Nghiên cứu của chúng tôi cũng nhận 
thấy nguy cơ xuất hiện loét ở nhóm trẻ nam 
cao gấp 6,3 lần so với trẻ nữ. Nhóm trẻ nam 
trong nghiên cứu của chúng tôi được ghi nhận 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
7TCNCYH 131 (7) - 2020
có nhiều sang chấn tâm lý và thói quen không 
tích cực hơn (ngủ muộn, ăn uống thất thường, 
hút thuốc lá). Do đó, chúng tôi cho rằng đây 
là lý do lý giải cho kết quả trên. Trẻ vị thành 
niên sống ở thành phố có nguy cơ bị viêm dạ 
dày tá tràng mạn tính có loét nhiều hơn so với 
nhóm sống ở nông thôn, một giả thuyết đặt ra 
là trẻ ở thành phố cũng có nhiều điều kiện để 
cuốn hút vào các thói quen và lối sống không 
tích cực như thức khuya, hút thuốc lá và uống 
các chất kích thích như cà phê Sjodin I và 
cộng sự nhận thấy có hơn 40% những đứa trẻ 
bị loét dạ dày tá tràng được sống trong những 
gia đình tan vỡ.14 Nghiên cứu của chúng tôi 
cũng ghi nhận nguy cơ xuất hiện loét ở nhóm 
trẻ này cao gấp 1,3 lần so với nhóm trẻ sống 
trong những gia đình bình thường. Deding và 
cộng sự (2016) chỉ ra rằng những đối tượng 
bị viêm loét dạ dày tá tràng thường có nhiều 
thói quen tiêu cực như hút thuốc lá, nghiện 
rượu, bỏ bữa sáng, ngủ muộn, uống cà phê 
hàng ngày.² Thực vậy, nghiên cứu của chúng 
tôi cũng phát hiện thấy những thói quen tiêu 
cực nêu trên xuất hiện ở nhóm có loét nhiều 
hơn rõ rệt so với nhóm không loét (bảng 3), và 
làm tăng nguy cơ bị loét lên từ 2,1 đến 4,5 lần. 
Kết quả nghiên cứu này của chúng tôi phù hợp 
với nhiều nghiên cứu trên thế giới.7,15 Mối liên 
quan giữa những sang chấn tâm lý trong cuộc 
sống với viêm loét dạ dày tá tràng đã được báo 
cáo trong nhiều nghiên cứu.⁹ Nhận định này 
một lần nữa được ghi nhận trong nghiên cứu 
của chúng tôi, đặc biệt là khi trẻ có phối hợp từ 
2 sang chấn tâm lý trở lên thì nguy cơ xuất hiện 
loét cao gấp 3,9 lần. Đồng thời, chúng tôi nhận 
thấy các đối tượng có biểu hiện stress, lo âu, 
trầm cảm thì nguy cơ xuất hiện loét cao hơn rõ 
rệt, đặc biệt khi phối hợp các biểu hiện này. Kết 
quả này tương tự như nghiên cứu của Lee YB 
và cộng sự.⁶ 
V. KẾT LUẬN
Tuổi từ 14 - 19, nam giới, tình trạng gia đình 
có vấn đề, xung đột với cha mẹ, phối hợp từ 2 
sang chấn tâm lý trở lên, ngủ muộn sau 23 giờ 
hàng ngày, ngủ rất muộn sau 24 giờ hàng ngày, 
thói quen ăn uống thất thường là những yếu tố 
làm tăng nguy cơ xuất hiện tổn thương loét dạ 
dày tá tràng ở vị thành niên.
Lời cảm ơn
 Chúng tôi xin chân thành cảm ơn các bệnh 
nhân và gia đình, các bác sỹ Trung tâm Tiêu 
hóa – Gan mật – Dinh dưỡng, Bệnh viện Nhi 
Trung ương; Khoa Nhi, Bệnh viện Bạch Mai; 
Trung tâm khám bệnh số 1, Bệnh viện Đại học 
Y Hà Nội đã nhiệt tình giúp đỡ chúng tôi trong 
quá trình thực hiện nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Konturek S. J, Bielanski W, Plonka 
M, et al. Helicobacter pylori, non - steroidal 
anti - inflammatory drugs and smoking in risk 
pattern of gastroduodenal ulcers. Scand J 
Gastroenterol. 2003;38(9):923 - 30.
2. Deding U, Ejlskov L, Grabas M.P, et al. 
Perceived stress as a risk factor for peptic 
ulcers: a register - based cohort study. BMC 
Gastroenterol. 2016;16(1): 140. DOI 10.1186/
s12876 - 016 - 0554 - 9
3. Chung C.S, Chiang T.H, Lee Y.C. A 
systematic approach for the diagnosis and 
treatment of idiopathic peptic ulcers. Korean J 
Intern Med. 2015;30(5):559 - 570.
4. Levenstein S. The Very Model of a 
Modern Etiology: A Biopsychosocial View 
of Peptic Ulcer. Psychosomatic Medicine. 
2000;62(2):176 - 185.
5. Goodwin R.D, Talley N.J, Hotopf M, et 
al. A link between physician - diagnosed ulcer 
and anxiety disorders among adults. Annals of 
Epidemiology. 2013;23 (4):189 - 192.
6. Lee Y.B, Yu J, Choi H.H, et al. The 
association between peptic ulcer diseases and 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
8 TCNCYH 131 (7) - 2020
mental health problems: A population - based 
study: a STROBE compliant article. Medicine. 
2017;96(34):E7828 - 7828.
7. Sattar Y, Bseiso A, Patel N, et al. Review 
of psychological and behavioral factors in peptic 
ulcer disease. International journal of advanced 
research. 2018;6(2):1899 - 1908.
8. Bernert R.A, Merill K.A, Braithwaite S.R, 
et al.. Family life stress and insomnia symptoms 
in a prospective evaluation of young adults. J 
Fam Psychol. 2007; 21(1):58 - 66.
9. Levenstein S, Rosenstock S, Jacobsen 
R.K, et al. Psychological stress increases risk 
for peptic ulcer, regardless of Helicobacter 
pylori infection or use of nonsteroidal anti - 
inflammatory drugs. Clinical Gastroenterology 
and Hepatology. 2015;13(3):498 - 506.
10. Van Oudenhove L, Vandenberghe J, 
Geeraerts B, et al. Determinants of symptoms 
in functional dyspepsia: gastric sensorimotor 
function, psychosocial factors or somatisation? 
Gut. 2008;57(12):1666 - 1673.
11. Tran T.D, Tran T, Fisher J. Validation of 
the depression anxiety stress scales (DASS) 21 
as a screening instrument for depression and 
anxiety in a rural community - based cohort of 
northern Vietnamese women. BMC Psychiatry. 
2013;13:24 - 32.
12. Jones M.P. The role of psychosocial 
factors in peptic ulcer disease: beyond 
Helicobacter pylori and NSAIDs. Journal of 
Psychosomatic Research. 2006;60(3):407 - 
412.
13. Anda R.F, Williamson D.F, Escobedo 
L.G, et al. Self - perceived stress and the risk of 
peptic ulcer disease. A longitudinal study of US 
adults. Arch Intern Med. 1992;152(4):829 - 833.
14. Sjödin I. Psychotherapy in Peptic Ulcer 
Disease. Acta Psychiatrica Scandinavica. 
1983;67(307):1 - 90.
15. Lim S.L, Canavarro C, Zaw M.H, 
et al. Irregular Meal Timing Is Associated 
with Helicobacter pylori Infection and 
Gastritis. ISRN Nutrition. 2013:714970. doi: 
10.5402/2013/714970. eCollection 2013 70.
Summary
RELATIONSHIP BETWEEN 
PSYCHOSOCIAL FACTORS AND CHRONIC PEPTIC ULCER IN 
ADOLESCENTS 
Besides of medical factors causing chronic peptic ulcer such as Helicobacter pylori (HP), there 
are also psychosocial factors related to this disease. A cross-sectional study of 214 adolescents 
with chronic peptic ulcer at the National Hospital of Pediatrics, Bach Mai Hospital, Hanoi Medical 
University Hospital from 4/2018 - 3/2019 was conducted to identify the relationship between 
psychosocial factors and the risk of developing ulcer lesions in chronic gastritis. The results showed 
that factors such as age (14 – 19 years old), gender (male), stress (family problems), conflicts 
with parents, ≥ 2 stressful life events, sleeping late after 23 hours daily, sleeping very late after 24 
daily hours, irregular eating habits, were risk factors of developing lesion ulcers in chronic gastritis.
Keywords: chronic peptic ulcer, adolescents, stress, anxiety, depression, psychosocial 
factors.

File đính kèm:

  • pdfmot_so_yeu_to_lien_quan_giua_tam_ly_xa_hoi_va_viem_loet_da_d.pdf