Một số yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi tại tỉnh Thái Bình, năm 2018

Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành năm 2018, với phương pháp chọn mẫu chùm (PPS) để chọn 30 xã/ phường tại 8 huyện/thành phố thuộc tỉnh Thái Bình vào nghiên cứu. Điều tra trên 1554 trẻ em dưới 5 tuổi và bà mẹ của trẻ, kết quả cho thấy, có 285 trẻ suy dinh dưỡng thấp còi (18,4%). Một số yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê với suy dinh dưỡng thấp còi gồm có: Trình độ học vấn của mẹ dưới phổ thông cơ sở; mẹ không uống viên sắt hoặc viên đa chất khi mang thai; trẻ có cân nặng sơ sinh thấp (<2500gram); thời="" gian="" bú="" sữa="" non="">1 giờ; trẻ bị tiêu chảy trong tháng qua (OR>1, p<0,05) chưa="" phát="" hiện="" mối="" liên="" quan="" có="" ý="" nghĩa="" thống="" kê="" giữa="" suy="" dinh="" dưỡng="" thấp="" còi="" với="" tuổi="" mẹ="" và="" nghề="" nghiệp="" của="" mẹ.="" do="" vậy,="" cần="" thiết="" phải="" đẩy="" mạnh="" truyền="" thông="" nhằm="" nâng="" cao="" kiến="" thức="" dinh="" dưỡng="" cho="" phụ="" nữ="" trong="" độ="" tuổi="" sinh="" đẻ,="" tập="" trung="" chăm="" sóc="" dinh="" dưỡng="" trong="" 1000="" ngày="" đầu="" đời="" của="" trẻ;="" chú="" trọng="" tư="" vấn="" chế="" độ="" dinh="" dưỡng="" cho="" phụ="" nữ="" trước="" và="" trong="" thời="" gian="" mang="">

pdf 6 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "Một số yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi tại tỉnh Thái Bình, năm 2018", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi tại tỉnh Thái Bình, năm 2018

Một số yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi tại tỉnh Thái Bình, năm 2018
SỐ 4 (57) - Tháng 07-08/2020
Website: yhoccongdong.vn96
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2020
MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN SUY DINH DƯỠNG THẤP 
CÒI Ở TRẺ EM DƯỚI 5 TUỔI TẠI TỈNH THÁI BÌNH, NĂM 2018
Đặng Thị Thanh Nhàn1, Đặng Bích Thủy2 
TÓM TẮT
Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành năm 2018, 
với phương pháp chọn mẫu chùm (PPS) để chọn 30 xã/
phường tại 8 huyện/thành phố thuộc tỉnh Thái Bình vào 
nghiên cứu. Điều tra trên 1554 trẻ em dưới 5 tuổi và bà mẹ 
của trẻ, kết quả cho thấy, có 285 trẻ suy dinh dưỡng thấp 
còi (18,4%). Một số yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê 
với suy dinh dưỡng thấp còi gồm có: Trình độ học vấn của 
mẹ dưới phổ thông cơ sở; mẹ không uống viên sắt hoặc 
viên đa chất khi mang thai; trẻ có cân nặng sơ sinh thấp 
(1 giờ; trẻ bị tiêu chảy 
trong tháng qua (OR>1, p<0,05)
Chưa phát hiện mối liên quan có ý nghĩa thống kê 
giữa suy dinh dưỡng thấp còi với tuổi mẹ và nghề nghiệp 
của mẹ.
Do vậy, cần thiết phải đẩy mạnh truyền thông nhằm 
nâng cao kiến thức dinh dưỡng cho phụ nữ trong độ tuổi 
sinh đẻ, tập trung chăm sóc dinh dưỡng trong 1000 ngày 
đầu đời của trẻ; chú trọng tư vấn chế độ dinh dưỡng cho 
phụ nữ trước và trong thời gian mang thai.
Từ khóa: Suy dinh dưỡng thấp còi, trẻ em dưới 5 
tuổi, tỉnh Thái Bình
SUMMARY:
SOME ASOCIATED FACTORS OF STUNTING 
IN CHILDREN UNDER 5 YEARS OLD IN THAI 
BINH PROVINCE, 2018
A cross-sectional study was carried out in 2018, 
with the method of cluster sampling (PPS) to select 
30 communes/wards in 8 districts/cities in Thai Binh 
province. A total of 1554 children under 5 years old and 
their mother, the results showed that: The prevalence of 
stunting was 18.4%.
Significant associated factors of stunting were: 
Mother’s education, mother does not take iron tablets or 
multi-tablets during pregnancy, birth weight of less than 
2500gr, late breastfeeding (within 1 hour after birth), 
diarrhea in the past month (OR>1, p<0,05). 
No significant association was found between 
stunting with age and mother’s occupation
Therefore, we recommend to promote direct 
communication in order to improve nutritional knowledge 
for women at child bearing age, focus to nutritional care 
for first 1000 days of life of children, pay attention to 
nutritional diets for women before and during gestation.
Keywords: Stunting, children under 5 years old, 
Thai Binh province.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, Việt Nam vẫn đang đối mặt với tỉ lệ suy 
dinh dưỡng ở mức cao so với thế giới. Suy dinh dưỡng 
không chỉ làm chậm phát triển thể chất, trí tuệ, là nguyên 
nhân hàng đầu dẫn đến tử vong trẻ em dưới 5 tuổi, mà còn 
gây nên hậu quả lâu dài lên tầm vóc người trưởng thành, 
giảm khả năng lao động và ảnh hưởng tới thu nhập quốc 
dân.
Có nhiều yếu tố liên quan đến tình trạng suy dinh 
dưỡng của trẻ, khác nhau ở từng địa phương, do vậy cần 
tìm hiểu trong từng cộng đồng cụ thể như điều kiện kinh 
tế xã hội, kiến thức nuôi con của các bà mẹ, tập quán 
sinh hoạt khác nhau, tình trạng mắc bệnh của trẻ, nhất là 
những bệnh nhiễm khuẩn, virus cấp hoặc tái diễn nhiều 
lần...[1],[2],[5]
Trong những năm qua nhờ triển khai Chương trình 
quốc gia phòng chống suy dinh dưỡng đạt hiệu quả, tình 
trạng suy dinh dưỡng chung ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm 
đáng kể trong cả nước và tùy theo từng vùng miền. Tại 
Thái Bình, theo báo cáo điều tra năm 2015 của Viện Dinh 
dưỡng thì tình trạng SDD ở trẻ dưới 5 tuổi thể cân nặng/
tuổi là 13,7%, chiều cao/ tuổi là 25,0%, cân nặng/chiều 
Ngày nhận bài: 07/05/2020 Ngày phản biện: 22/05/2020 Ngày duyệt đăng: 29/05/2020
1. Trường Cao đẳng Y tế Hà Tĩnh 
Điện thoại: 0985201828; Email: [email protected] 
2. Trường Đại học Y Dược Thái Bình
SỐ 4 (57) - Tháng 07-08/2020
Website: yhoccongdong.vn 97
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
cao là 7,1%.
Cùng với sự phát triển chung của cả nước, kinh tế có 
nhiều thay đổi, điều kiện chăm sóc cho trẻ ngày càng tốt 
hơn. Nhưng vẫn còn một số yếu tố ảnh hưởng tới sự phát 
triển của trẻ, làm cho tình trạng suy dinh dưỡng chung, 
đăc biệt là suy dinh dưỡng thấp còi của trẻ tại tỉnh Thái 
Bình còn ở mức cao. 
 Để tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến suy dinh 
dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi, làm cơ sở cho công 
tác y tế tại địa phương trong thời gian tới, chúng tôi tiến 
hành nghiên cứu này với mục tiêu sau:
Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng 
thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi tại tỉnh Thái Bình năm 2018
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm, đối tượng nghiên cứu
Trẻ em dưới 5 tuổi và bà mẹ của trẻ, sinh sống tại 8 
huyện/thành phố thuộc tỉnh Thái Bình, bao gồm: Thành 
phố, huyện Vũ Thư, huyện Đông Hưng, huyện Kiến 
Xương, huyện Thái Thụy, huyện Quỳnh Phụ, huyện Hưng 
Hà, huyện Tiền Hải.
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 8 - tháng 10/2018
2.2. Thiết kế nghiên cứu: Áp dụng thiết kế nghiên 
cứu mô tả 
2.3.Cỡ mẫu: Được tính toán theo công thức: 
2
2
2/1
)1(
d
pp
n z −= −α
Trong đó: n là cỡ mẫu; Z
(1-µ/2)
 Hệ số tin cây ở mức 
α= 95% thì z= 1,96; p: tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi theo 
nghiên cứu trước, được lấy = 0,25; d: Sai số cho phép, 
được lấy bằng 0,01. Thay các giá trị trên vào công thức 
và làm tròn → n= 750 người, vì chọn mẫu chùm do vậy 
cỡ mẫu được nhân đôi → n= 1500 người. Thực tế điều tra 
được 1554 người
+ Chọn mẫu: 
- Chọn xã: Chọn mẫu chùm theo phương pháp PPS 
để chọn ra 30 xã/phường vào nghiên cứu
- Chọn đối tượng nghiên cứu: Phương pháp ngẫu 
nhiên hệ thống, chọn đủ các đối tượng vào mẫu qua các 
bước: lập danh sách toàn bộ trẻ em dưới 5 tuổi và bà mẹ 
của trẻ hiện đang sinh sống tại mỗi xã. Sau đó xác định 
khoảng cách k theo công thức k= N/n. Tiến hành trên bảng 
số ngẫu nhiên một số R trong khoảng từ 1 đến k và cũng 
là đối tượng đầu tiên được chọn vào mẫu. Chọn những cá 
thể trong danh sách trên có số thứ tự lần lượt là R, R+ k, R 
+2k, R + 3k... cho đến đủ số mẫu cần chọn.
- Đối tượng được chọn sẽ được thông báo thời gian 
cụ thể để cân đo trẻ, phỏng vấn bà mẹ tại Trạm Y tế xã 
thông qua y tế thôn.
2.4. Kỹ thuật áp dụng trong nghiên cứu
+ Phỏng vấn trực tiếp bà mẹ để thu thập các số liệu 
về trẻ: Ngày tháng năm sinh, giới tính, cân nặng sơ sinh, 
chăm sóc thai nghén theo bộ phiếu chuẩn bị sẵn. 
+ Xác định tuổi của trẻ theo hướng dẫn của Viện 
Dinh dưỡng, dựa trên khuyến cáo của WHO, 1995.
+ Đo cân nặng, chiều cao (chiều dài nằm) của trẻ 
theo thường quy. Suy dinh dưỡng thấp còi (chiều cao/
tuổi) được đánh giá dựa theo quần thể tham khảo WHO-
2006 (Zscore HAZ <-2).
2.5. Xử lý số liệu: Sử dụng phần mềm SPSS 21.0. 
Tính tỷ lệ %, Tỷ suất chênh OR, CI95%.
2.6. Đạo đức trong nghiên cứu: Nghiên cứu không 
gây bất kỳ một ảnh hưởng gì đến sức khỏe của đối tượng. 
Các bà mẹ tham gia nghiên cứu đều được giải thích lý do, 
được toàn quyền từ chối khi không muốn tham gia. Các 
thông tin của đối tượng được hoàn toàn giữ bí mật và kết 
quả nghiên cứu chỉ phục vụ cho mục đích khoa học. Với 
những trường hợp trẻ bị suy dinh dưỡng, đều được tư vấn 
về cách chăm sóc dinh dưỡng, phòng bệnh cho trẻ.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu trên 1554 trẻ dưới 5 tuổi, số trẻ nam 
chiếm 57,4%, trẻ nữ chiếm 42,6%. Tỷ số Nam/Nữ là 
1/3. Nhóm tuổi dưới 18 tháng tuổi là 25.6%, nhóm 18-
<30 tháng tuổi chiếm 24,6%; nhóm 30-<42 tháng chiếm 
22,5%, thấp nhất là nhóm từ 54 tháng trở lên (12,2%). 
Trong tổng số đối tượng nghiên cứu có 285 trẻ suy dinh 
dưỡng thấp còi, chiếm 18,4%. Kết quả phân tích tìm một 
số yếu tố liên quan cụ thể như sau:
SỐ 4 (57) - Tháng 07-08/2020
Website: yhoccongdong.vn98
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2020
Bảng 1. Liên quan giữa suy dinh dưỡng thấp còi với một số yếu tố của người mẹ
Biến số
SDD thấp còi (n= 285) Bình thường (n=985) OR
CI 
95%
p
n % n %
Tuổi 
<=25 tuổi 94 30,3 216 69,7 1,75
(1,2-2,3)
>0,05
> 25 tuổi 191 19,9 769 80,1
Nghề 
nghiệp 
Nông nghiệp 105 25,2 311 74,8 1,26
(0,8-2,4)
>0,05
Nghề khác 180 21,1 674 78,9
Trình độ 
học vấn 
<= THCS 65 55,6 52 44,4 5,3
(2,3-6,1)
<0,05
>THCS 220 19,1 933 80,9
Bảng 2. Liên quan giữa suy dinh dưỡng thấp còi với cân nặng sơ sinh của trẻ
Cân nặng sơ sinh
SDD thấp còi (n= 285) Bình thường (n=985) OR
CI 
95%
p
n % n %
< 2500 gam 125 52,1 115 47,9 5,9
(3,7-6,1)
<0,05
≥ 2500 gam 160 15,5 870 84,5
Bảng 3. Liên quan giữa suy dinh dưỡng thấp còi với thời gian bú lần đầu sau sinh của trẻ
Thời gian bú sữa 
non lần đầu
SDD thấp còi (n= 285) Bình thường (n=985) OR
CI 
95%
p
n % n %
>1 giờ 85 43,1 112 56,9 3,3
(1,4-3,8)
<0,05
≤ 1 giờ 200 18,6 873 81,4
Qua bảng 1 cho thấy, tỷ lệ mắc suy dinh dưỡng thấp 
còi ở nhóm trẻ là con của các bà mẹ dưới 25 tuổi cao gấp 
1,75 lần so với nhóm trẻ là con của các bà mẹ từ 25 tuổi 
trở lên với p>0,05, CI
95% 
: 1,2 -2,3.
Tỷ lệ mắc suy dinh dưỡng thấp còi ở nhóm trẻ là con 
của các bà mẹ làm nông nghiệp cao gấp 1,26 lần so với 
nhóm trẻ là con của các bà mẹ làm nghề khác (làm công 
ăn lương, tiểu thương) với p>0,05, CI
95% 
: 0,8 -2,4
Tỷ lệ mắc suy dinh dưỡng thấp còi ở nhóm trẻ là con 
của các bà mẹ trình độ học vấn dưới THCS cao gấp 5,3 lần 
so với nhóm trẻ là con của các bà mẹ học từ THCS trở lên 
với p<0,05, CI
95% 
: 2,3-6,1.
Qua bảng 2 cho thấy, tỷ lệ mắc suy dinh dưỡng thấp 
còi ở nhóm trẻ có cân nặng sơ sinh thấp (dưới 2500g) cao 
gấp 5,9 lần so với nhóm trẻ có cân nặng sơ sinh ≥2500g) 
với p<0,05, CI
95% 
: 3,7 -6,1).
Qua bảng 3 cho thấy, tỷ lệ mắc suy dinh dưỡng thấp 
còi ở nhóm trẻ ngậm bắt vú lần đầu sau khi sinh trên 1 giờ 
cao gấp 1,75 lần so với nhóm trẻ nhóm trẻ ngậm bắt vú 
lần đầu sau khi sinh dưới 1 giờ với p<0,05, CI
95% 
: 3,3 -3,8.
SỐ 4 (57) - Tháng 07-08/2020
Website: yhoccongdong.vn 99
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bảng 4. Liên quan giữa suy dinh dưỡng thấp còi với việc mẹ uống viên sắt hoặc viên đa vi chất khi mang thai trẻ
Mẹ uống viên sắt 
hoặc viên đa vi chất
SDD thấp còi (n= 285) Bình thường (n=985) OR
CI 
95%
p
n % n %
Không 81 41,5 114 58,5 3,0
(1,4-4,3)
<0,05
Có 204 19,0 871 81,0
Bảng 5. Liên quan giữa suy dinh dưỡng thấp còi với tiền sử trẻ bị tiêu cháy trong tháng qua
Trẻ bị tiêu chảy
SDD thấp còi (n= 285) Bình thường (n=985) OR
CI 
95%
p
n % n %
Có 67 42,4 91 57,6 3,0
(2,3-5,5)
<0,05
Không 218 19,6 894 80,4
Qua bảng 4 cho thấy, tỷ lệ mắc suy dinh dưỡng thấp 
còi ở nhóm con của các bà mẹ không uống viên sắt hoặc 
viên đa vi chất cao gấp 3,03 lần so với nhóm con của các 
bà mẹ có uống viên sắt hoặc viên đa vi chất với p<0,05, 
CI
95% 
: 1,4 -4,3.
Qua bảng 5 cho thấy, tỷ lệ mắc suy dinh dưỡng thấp 
còi ở nhóm trẻ bị tiêu chảy trong tháng qua cao gấp 3,0 
lần so với nhóm trẻ không bị tiêu chảy với p<0,05, CI
95% 
: 2,3 -5,5.
IV. BÀN LUẬN
SDD thấp còi phản ánh tình trạng thiếu dinh dưỡng 
kéo dài hoặc là hậu quả của một quá trình tích lũy bắt đầu 
xảy ra từ thời kỳ bào thai và kéo dài đến tuổi trưởng thành. 
SDD thấp còi làm ảnh hưởng đến phát triển thể lực, trí lực, 
sức khỏe trước mắt và lâu dài. Trẻ thấp còi sẽ có chiều 
cao thấp ở tuổi trưởng thành, ảnh hưởng đến tầm vóc nòi 
giống dân tộc. Sự thiếu hụt dinh dưỡng kéo dài làm giảm 
khả năng nhận thức, trí thông minh, kết quả học tập, năng 
suất lao động và thu nhập quốc dân. Trẻ bị SDD thấp còi 
thường hay mắc các bệnh nhiễm khuẩn do suy giảm hệ 
miễn dịch và sau này cũng dễ có nguy cơ thừa cân, béo 
phì, đái tháo đường, tim mạch, tăng huyết áp[2],[5].
Có nhiều yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng thấp 
còi ở trẻ em, trong nghiên cứu của chúng tôi đã cho thấy, 
tỷ lệ mắc suy dinh dưỡng thấp còi ở nhóm trẻ là con của 
các bà mẹ dưới 25 tuổi cao gấp 1,75 lần so với nhóm trẻ 
là con của các bà mẹ từ 25 tuổi trở lên với p>0,05, CI
95% 
: 1,2 -2,3; Tỷ lệ mắc suy dinh dưỡng thấp còi ở nhóm trẻ 
là con của các bà mẹ làm nông nghiệp cao gấp 1,26 lần 
so với nhóm trẻ là con của các bà mẹ làm nghề khác (làm 
công ăn lương, tiểu thương) với p>0,05, CI
95% 
: 0,8 -2,4; 
Tỷ lệ mắc suy dinh dưỡng thấp còi ở nhóm trẻ là con của 
các bà mẹ trình độ học vấn dưới THCS cao gấp 5,3 lần so 
với nhóm trẻ là con của các bà mẹ học từ THCS trở lên với 
p<0,05, CI
95% 
: 2,3-6,1.
Một nghiên cứu về yếu tố liên quan đến suy dinh 
dưỡng thấp còi ở trẻ 12-47 tháng tuổi tại Vĩnh Phúc của 
Lê Thị Thu Hà và cộng sự [3], kết quả cho thấy: Có mối 
liên quan có ý nghĩa thống kê giữa các yếu tố: tăng cân 
thấp của bà mẹ trong quá trình mang thai, kinh tế gia đình 
nghèo, trình độ học vấn của bà mẹ, tuổi mang thai của bà 
mẹ, thời gian bú sữa non, bệnh tiêu chảy của trẻ với SDD 
thấp còi
Theo WHO, trẻ có cân nặng sơ sinh thấp (<2500gram) 
bao gồm cả trẻ đẻ ra trước thời kỳ phát triển bình thường 
trong tử cung (trẻ đẻ non) và tình trạng chậm phát triển trong 
tử cung gồm cả trẻ đẻ đúng hạn hay quá hạn nhưng cân nặng 
không tương xứng với tuổi thai (trẻ đẻ yếu) hoặc phối hợp 
cả hai. Trẻ có cân nặng sơ sinh thấp thường do nhiều nguyên 
nhân và các yếu tố phối hợp với nhau. Nhiều nghiên cứu cho 
thấy khoảng 60% nguyên nhân là từ phía bà mẹ: Tình trạng 
dinh dưỡng kém của bà mẹ, mẹ bị bệnh tật, chăm sóc bà mẹ 
trước sinh kém... Vì vậy, tỷ lệ cân nặng sơ sinh thấp được 
coi là chỉ số phản ánh sự chăm sóc sức khỏe của phụ nữ, tình 
trạng dinh dưỡng, điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của từng 
vùng miền hay một quốc gia [5],[7],[8]. 
SỐ 4 (57) - Tháng 07-08/2020
Website: yhoccongdong.vn100
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2020
Nhiều nghiên cứu đã cho thấy, ở những trẻ có cân 
nặng sơ sinh thấp thường có sức đề kháng kém, dễ bị 
mắc các bệnh về đường tiêu hóa, hô hấp, như vậy đã 
tạo thành một vòng xoắn bệnh lý, rất khó để chăm sóc 
phục hồi. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ mắc suy 
dinh dưỡng thấp còi ở nhóm trẻ có cân nặng sơ sinh thấp 
(<2500g) cao gấp 5,9 lần so với nhóm trẻ có cân nặng sơ 
sinh ≥2500g (p<0,05, CI
95% 
: 3,7 -6,1), đồng thời kết quả 
cũng cho thấy, tỷ lệ mắc suy dinh dưỡng thấp còi ở nhóm 
trẻ bị tiêu chảy trong tháng qua cao gấp 3,0 lần so với 
nhóm trẻ không bị tiêu chảy với p<0,05, CI
95%
: 2,3 -5,5. 
Việc chăm sóc người mẹ trong khi mang thai có ý 
nghĩa quan trọng. Trước hết người mẹ cần có chế độ dinh 
dưỡng hợp lý, uống viên sắt và acid folic để phòng thiếu 
máu dinh dưỡng và dị tật ống thần kinh của thai nhi. Trong 
nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ mắc suy dinh dưỡng thấp 
còi ở nhóm con của các bà mẹ không uống viên sắt hoặc 
viên đa vi chất cao gấp 3,03 lần so với nhóm con của các 
bà mẹ có uống viên sắt hoặc viên đa vi chất với p<0,05, 
CI
95% 
: 1,4 -4,3.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự 
như của một số nghiên cứu khác như của Nguyễn Ngọc 
Phương và cộng sự [4], đã xác định được mối liên quan 
có ý nghĩa thống kê giữa cân nặng sơ sinh, giới tính trẻ 
và thực hành nuôi con của các bà mẹ có con dưới 5 tuổi 
với thực trạng suy dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi. Cụ 
thể trẻ có cân nặng sơ sinh dưới 2500g có nguy cơ suy 
dinh dưỡng cao gấp 3,3 lần so với trẻ có cân nặng sơ 
sinh trên 2500g 
Taha H.Musaa và cộng sự khi nghiên cứu ở trẻ dưới 
5 tuổi tại Sudan, kết quả cũng cho thấy yếu tố kinh tế xã 
hội, dinh dưỡng kém, kiến thức và thực hành nuôi dưỡng 
của bà mẹ đã dẫn đến sự gia tăng tỷ lệ suy dinh dưỡng [6]. 
SDD thấp còi thường ảnh hưởng đến phát triển thể 
lực, trí lực, sức khỏe trước mắt và lâu dài. Trẻ thấp còi 
sẽ có chiều cao thấp ở tuổi trưởng thành, ảnh hưởng đến 
tầm vóc nòi giống dân tộc. Sự thiếu hụt dinh dưỡng kéo 
dài làm giảm khả năng nhận thức, trí thông minh, kết quả 
học tập, năng suất lao động và thu nhập quốc dân. Trẻ bị 
SDD thấp còi thường hay mắc các bệnh nhiễm khuẩn do 
suy giảm hệ miễn dịch và sau này cũng dễ có nguy cơ thừa 
cân, béo phì, đái tháo đường, tim mạch, tăng huyết áp Ở 
bé gái khi lớn lên nếu chiều cao thấp dễ gây đẻ khó, nguy 
cơ đẻ trẻ nhẹ cân (dưới 2.500g), chiều dài thấp và vòng 
đời SDD thấp còi lại tái diễn [5],[7],[8].
Từ các kết quả nghiên cứu trên đã cho thấy, cần thiết 
phải tăng cường các hoạt động truyền thông về phòng 
chống suy dinh dưỡng nói chung và suy dinh dưỡng thấp 
còi nói riêng, tập trung vào thời cơ vàng để phòng, chống 
SDD thấp còi có hiệu quả là thời kỳ bà mẹ mang thai và 
trẻ em trong 1000 ngày đầu đời của trẻ
V. KẾT LUẬN
Một số yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng thấp còi 
ở trẻ em dưới 5 tuổi tại tỉnh Thái Bình gồm có:
- Trình độ học vấn của bà mẹ: (OR=5,3; CI
95% 
: 2,3-
6,1; p<0,05)
- Mẹ không uống viên sắt hoặc viên đa vi chất: 
(OR=3,0; CI
95% 
: 1,4-4,3; p<0,05) 
- Cân nặng sơ sinh thấp (<2500gr): (OR=5,9; CI
95% 
: 3,7-6,1; p<0,05)
- Thời gian bú sữa non >1 giờ: (OR =3,3; CI
95% 
: 1,4-
3,8; p<0,05)
- Trẻ bị tiêu chảy trong tháng qua: (OR=3,0; CI
95% 
: 
2,3-5,5; p<0,05) 
- Chưa phát hiện mối liên quan có ý nghĩa thống kê 
giữa tuổi mẹ, nghề nghiệp của mẹ với suy dinh dưỡng 
thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi (p>0,05)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế - Viện Dinh dưỡng (2012), Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến 
năm 2030, Ban hành kèm theo Quyết định số 226 /QÐ-TTg.
2. Lê Thị Hợp, Phí Ngọc Quyên (2016), Tình hình dinh dưỡng toàn cầu hiện nay và kêu gọi hành động phòng 
chống các thể suy dinh dưỡng. Tạp chí Dinh dưỡng & Thực phẩm, số 12 (4), tr1-4
3. Lê Thị Thu Hà, Nguyễn Xuân Ninh, Lê Thị Hương, Nguyễn Thị Vân Anh (2016), Suy dinh dưỡng thấp còi và 
một số yếu tố nguy cơ liên quan ở trẻ 12-47 tháng tuổi tại Tam Đảo, Vĩnh Phúc năm 2014, Tạp chí Y học dự phòng , 
Tập XXVI, số 15 (188), tr 111-114
4. Nguyễn Ngọc Phương, Quách Quang Huy, Hồ Minh Lý (2017), Thực trạng suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 
tuổi và một số yếu tố liên quan tại thị trấn Quỳnh Côi, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình năm 2017, Tạp chí Y học dự 
phòng , Tập 27, số 8, tr306-309
SỐ 4 (57) - Tháng 07-08/2020
Website: yhoccongdong.vn 101
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
5. Lê Danh Tuyên, Phạm Văn Phú (2015), Suy dinh dưỡng thấp còi và thực hành phòng chống, Nhà xuất bản Y 
học, Hà Nội, tr 7-65.
6. Taha H.MusaaHassan H.MusabElrasheed A.AliaNazik E.Musaa (2015), Prevalence of malnutrition among 
children under five years old in Khartoum State, Sudan, Paediatrics and Child Health, Volume 25, Issue 9, 2015 
7. UNICEF (2017), Malnutrition in Children - UNICEF DATA
8. UNICEF, WHO (2014). The World Bank. Joint Child Malnutrition Estimates: Levels and Trends. Geneva: 
WHO, 2012. [last accessed April 2014] ( en/).

File đính kèm:

  • pdfmot_so_yeu_to_lien_quan_den_suy_dinh_duong_thap_coi_o_tre_em.pdf