Một số yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi tại tỉnh Thái Bình, năm 2018
Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành năm 2018, với phương pháp chọn mẫu chùm (PPS) để chọn 30 xã/ phường tại 8 huyện/thành phố thuộc tỉnh Thái Bình vào nghiên cứu. Điều tra trên 1554 trẻ em dưới 5 tuổi và bà mẹ của trẻ, kết quả cho thấy, có 285 trẻ suy dinh dưỡng thấp còi (18,4%). Một số yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê với suy dinh dưỡng thấp còi gồm có: Trình độ học vấn của mẹ dưới phổ thông cơ sở; mẹ không uống viên sắt hoặc viên đa chất khi mang thai; trẻ có cân nặng sơ sinh thấp (<2500gram); thời="" gian="" bú="" sữa="" non="">1 giờ; trẻ bị tiêu chảy trong tháng qua (OR>1, p<0,05) chưa="" phát="" hiện="" mối="" liên="" quan="" có="" ý="" nghĩa="" thống="" kê="" giữa="" suy="" dinh="" dưỡng="" thấp="" còi="" với="" tuổi="" mẹ="" và="" nghề="" nghiệp="" của="" mẹ.="" do="" vậy,="" cần="" thiết="" phải="" đẩy="" mạnh="" truyền="" thông="" nhằm="" nâng="" cao="" kiến="" thức="" dinh="" dưỡng="" cho="" phụ="" nữ="" trong="" độ="" tuổi="" sinh="" đẻ,="" tập="" trung="" chăm="" sóc="" dinh="" dưỡng="" trong="" 1000="" ngày="" đầu="" đời="" của="" trẻ;="" chú="" trọng="" tư="" vấn="" chế="" độ="" dinh="" dưỡng="" cho="" phụ="" nữ="" trước="" và="" trong="" thời="" gian="" mang="">0,05)>2500gram);>
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi tại tỉnh Thái Bình, năm 2018
SỐ 4 (57) - Tháng 07-08/2020 Website: yhoccongdong.vn96 JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2020 MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN SUY DINH DƯỠNG THẤP CÒI Ở TRẺ EM DƯỚI 5 TUỔI TẠI TỈNH THÁI BÌNH, NĂM 2018 Đặng Thị Thanh Nhàn1, Đặng Bích Thủy2 TÓM TẮT Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành năm 2018, với phương pháp chọn mẫu chùm (PPS) để chọn 30 xã/ phường tại 8 huyện/thành phố thuộc tỉnh Thái Bình vào nghiên cứu. Điều tra trên 1554 trẻ em dưới 5 tuổi và bà mẹ của trẻ, kết quả cho thấy, có 285 trẻ suy dinh dưỡng thấp còi (18,4%). Một số yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê với suy dinh dưỡng thấp còi gồm có: Trình độ học vấn của mẹ dưới phổ thông cơ sở; mẹ không uống viên sắt hoặc viên đa chất khi mang thai; trẻ có cân nặng sơ sinh thấp (1 giờ; trẻ bị tiêu chảy trong tháng qua (OR>1, p<0,05) Chưa phát hiện mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa suy dinh dưỡng thấp còi với tuổi mẹ và nghề nghiệp của mẹ. Do vậy, cần thiết phải đẩy mạnh truyền thông nhằm nâng cao kiến thức dinh dưỡng cho phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, tập trung chăm sóc dinh dưỡng trong 1000 ngày đầu đời của trẻ; chú trọng tư vấn chế độ dinh dưỡng cho phụ nữ trước và trong thời gian mang thai. Từ khóa: Suy dinh dưỡng thấp còi, trẻ em dưới 5 tuổi, tỉnh Thái Bình SUMMARY: SOME ASOCIATED FACTORS OF STUNTING IN CHILDREN UNDER 5 YEARS OLD IN THAI BINH PROVINCE, 2018 A cross-sectional study was carried out in 2018, with the method of cluster sampling (PPS) to select 30 communes/wards in 8 districts/cities in Thai Binh province. A total of 1554 children under 5 years old and their mother, the results showed that: The prevalence of stunting was 18.4%. Significant associated factors of stunting were: Mother’s education, mother does not take iron tablets or multi-tablets during pregnancy, birth weight of less than 2500gr, late breastfeeding (within 1 hour after birth), diarrhea in the past month (OR>1, p<0,05). No significant association was found between stunting with age and mother’s occupation Therefore, we recommend to promote direct communication in order to improve nutritional knowledge for women at child bearing age, focus to nutritional care for first 1000 days of life of children, pay attention to nutritional diets for women before and during gestation. Keywords: Stunting, children under 5 years old, Thai Binh province. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Hiện nay, Việt Nam vẫn đang đối mặt với tỉ lệ suy dinh dưỡng ở mức cao so với thế giới. Suy dinh dưỡng không chỉ làm chậm phát triển thể chất, trí tuệ, là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tử vong trẻ em dưới 5 tuổi, mà còn gây nên hậu quả lâu dài lên tầm vóc người trưởng thành, giảm khả năng lao động và ảnh hưởng tới thu nhập quốc dân. Có nhiều yếu tố liên quan đến tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ, khác nhau ở từng địa phương, do vậy cần tìm hiểu trong từng cộng đồng cụ thể như điều kiện kinh tế xã hội, kiến thức nuôi con của các bà mẹ, tập quán sinh hoạt khác nhau, tình trạng mắc bệnh của trẻ, nhất là những bệnh nhiễm khuẩn, virus cấp hoặc tái diễn nhiều lần...[1],[2],[5] Trong những năm qua nhờ triển khai Chương trình quốc gia phòng chống suy dinh dưỡng đạt hiệu quả, tình trạng suy dinh dưỡng chung ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm đáng kể trong cả nước và tùy theo từng vùng miền. Tại Thái Bình, theo báo cáo điều tra năm 2015 của Viện Dinh dưỡng thì tình trạng SDD ở trẻ dưới 5 tuổi thể cân nặng/ tuổi là 13,7%, chiều cao/ tuổi là 25,0%, cân nặng/chiều Ngày nhận bài: 07/05/2020 Ngày phản biện: 22/05/2020 Ngày duyệt đăng: 29/05/2020 1. Trường Cao đẳng Y tế Hà Tĩnh Điện thoại: 0985201828; Email: [email protected] 2. Trường Đại học Y Dược Thái Bình SỐ 4 (57) - Tháng 07-08/2020 Website: yhoccongdong.vn 97 VI N S C K H E C NG NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC cao là 7,1%. Cùng với sự phát triển chung của cả nước, kinh tế có nhiều thay đổi, điều kiện chăm sóc cho trẻ ngày càng tốt hơn. Nhưng vẫn còn một số yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển của trẻ, làm cho tình trạng suy dinh dưỡng chung, đăc biệt là suy dinh dưỡng thấp còi của trẻ tại tỉnh Thái Bình còn ở mức cao. Để tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi, làm cơ sở cho công tác y tế tại địa phương trong thời gian tới, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục tiêu sau: Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi tại tỉnh Thái Bình năm 2018 II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Địa điểm, đối tượng nghiên cứu Trẻ em dưới 5 tuổi và bà mẹ của trẻ, sinh sống tại 8 huyện/thành phố thuộc tỉnh Thái Bình, bao gồm: Thành phố, huyện Vũ Thư, huyện Đông Hưng, huyện Kiến Xương, huyện Thái Thụy, huyện Quỳnh Phụ, huyện Hưng Hà, huyện Tiền Hải. - Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 8 - tháng 10/2018 2.2. Thiết kế nghiên cứu: Áp dụng thiết kế nghiên cứu mô tả 2.3.Cỡ mẫu: Được tính toán theo công thức: 2 2 2/1 )1( d pp n z −= −α Trong đó: n là cỡ mẫu; Z (1-µ/2) Hệ số tin cây ở mức α= 95% thì z= 1,96; p: tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi theo nghiên cứu trước, được lấy = 0,25; d: Sai số cho phép, được lấy bằng 0,01. Thay các giá trị trên vào công thức và làm tròn → n= 750 người, vì chọn mẫu chùm do vậy cỡ mẫu được nhân đôi → n= 1500 người. Thực tế điều tra được 1554 người + Chọn mẫu: - Chọn xã: Chọn mẫu chùm theo phương pháp PPS để chọn ra 30 xã/phường vào nghiên cứu - Chọn đối tượng nghiên cứu: Phương pháp ngẫu nhiên hệ thống, chọn đủ các đối tượng vào mẫu qua các bước: lập danh sách toàn bộ trẻ em dưới 5 tuổi và bà mẹ của trẻ hiện đang sinh sống tại mỗi xã. Sau đó xác định khoảng cách k theo công thức k= N/n. Tiến hành trên bảng số ngẫu nhiên một số R trong khoảng từ 1 đến k và cũng là đối tượng đầu tiên được chọn vào mẫu. Chọn những cá thể trong danh sách trên có số thứ tự lần lượt là R, R+ k, R +2k, R + 3k... cho đến đủ số mẫu cần chọn. - Đối tượng được chọn sẽ được thông báo thời gian cụ thể để cân đo trẻ, phỏng vấn bà mẹ tại Trạm Y tế xã thông qua y tế thôn. 2.4. Kỹ thuật áp dụng trong nghiên cứu + Phỏng vấn trực tiếp bà mẹ để thu thập các số liệu về trẻ: Ngày tháng năm sinh, giới tính, cân nặng sơ sinh, chăm sóc thai nghén theo bộ phiếu chuẩn bị sẵn. + Xác định tuổi của trẻ theo hướng dẫn của Viện Dinh dưỡng, dựa trên khuyến cáo của WHO, 1995. + Đo cân nặng, chiều cao (chiều dài nằm) của trẻ theo thường quy. Suy dinh dưỡng thấp còi (chiều cao/ tuổi) được đánh giá dựa theo quần thể tham khảo WHO- 2006 (Zscore HAZ <-2). 2.5. Xử lý số liệu: Sử dụng phần mềm SPSS 21.0. Tính tỷ lệ %, Tỷ suất chênh OR, CI95%. 2.6. Đạo đức trong nghiên cứu: Nghiên cứu không gây bất kỳ một ảnh hưởng gì đến sức khỏe của đối tượng. Các bà mẹ tham gia nghiên cứu đều được giải thích lý do, được toàn quyền từ chối khi không muốn tham gia. Các thông tin của đối tượng được hoàn toàn giữ bí mật và kết quả nghiên cứu chỉ phục vụ cho mục đích khoa học. Với những trường hợp trẻ bị suy dinh dưỡng, đều được tư vấn về cách chăm sóc dinh dưỡng, phòng bệnh cho trẻ. III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Nghiên cứu trên 1554 trẻ dưới 5 tuổi, số trẻ nam chiếm 57,4%, trẻ nữ chiếm 42,6%. Tỷ số Nam/Nữ là 1/3. Nhóm tuổi dưới 18 tháng tuổi là 25.6%, nhóm 18- <30 tháng tuổi chiếm 24,6%; nhóm 30-<42 tháng chiếm 22,5%, thấp nhất là nhóm từ 54 tháng trở lên (12,2%). Trong tổng số đối tượng nghiên cứu có 285 trẻ suy dinh dưỡng thấp còi, chiếm 18,4%. Kết quả phân tích tìm một số yếu tố liên quan cụ thể như sau: SỐ 4 (57) - Tháng 07-08/2020 Website: yhoccongdong.vn98 JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2020 Bảng 1. Liên quan giữa suy dinh dưỡng thấp còi với một số yếu tố của người mẹ Biến số SDD thấp còi (n= 285) Bình thường (n=985) OR CI 95% p n % n % Tuổi <=25 tuổi 94 30,3 216 69,7 1,75 (1,2-2,3) >0,05 > 25 tuổi 191 19,9 769 80,1 Nghề nghiệp Nông nghiệp 105 25,2 311 74,8 1,26 (0,8-2,4) >0,05 Nghề khác 180 21,1 674 78,9 Trình độ học vấn <= THCS 65 55,6 52 44,4 5,3 (2,3-6,1) <0,05 >THCS 220 19,1 933 80,9 Bảng 2. Liên quan giữa suy dinh dưỡng thấp còi với cân nặng sơ sinh của trẻ Cân nặng sơ sinh SDD thấp còi (n= 285) Bình thường (n=985) OR CI 95% p n % n % < 2500 gam 125 52,1 115 47,9 5,9 (3,7-6,1) <0,05 ≥ 2500 gam 160 15,5 870 84,5 Bảng 3. Liên quan giữa suy dinh dưỡng thấp còi với thời gian bú lần đầu sau sinh của trẻ Thời gian bú sữa non lần đầu SDD thấp còi (n= 285) Bình thường (n=985) OR CI 95% p n % n % >1 giờ 85 43,1 112 56,9 3,3 (1,4-3,8) <0,05 ≤ 1 giờ 200 18,6 873 81,4 Qua bảng 1 cho thấy, tỷ lệ mắc suy dinh dưỡng thấp còi ở nhóm trẻ là con của các bà mẹ dưới 25 tuổi cao gấp 1,75 lần so với nhóm trẻ là con của các bà mẹ từ 25 tuổi trở lên với p>0,05, CI 95% : 1,2 -2,3. Tỷ lệ mắc suy dinh dưỡng thấp còi ở nhóm trẻ là con của các bà mẹ làm nông nghiệp cao gấp 1,26 lần so với nhóm trẻ là con của các bà mẹ làm nghề khác (làm công ăn lương, tiểu thương) với p>0,05, CI 95% : 0,8 -2,4 Tỷ lệ mắc suy dinh dưỡng thấp còi ở nhóm trẻ là con của các bà mẹ trình độ học vấn dưới THCS cao gấp 5,3 lần so với nhóm trẻ là con của các bà mẹ học từ THCS trở lên với p<0,05, CI 95% : 2,3-6,1. Qua bảng 2 cho thấy, tỷ lệ mắc suy dinh dưỡng thấp còi ở nhóm trẻ có cân nặng sơ sinh thấp (dưới 2500g) cao gấp 5,9 lần so với nhóm trẻ có cân nặng sơ sinh ≥2500g) với p<0,05, CI 95% : 3,7 -6,1). Qua bảng 3 cho thấy, tỷ lệ mắc suy dinh dưỡng thấp còi ở nhóm trẻ ngậm bắt vú lần đầu sau khi sinh trên 1 giờ cao gấp 1,75 lần so với nhóm trẻ nhóm trẻ ngậm bắt vú lần đầu sau khi sinh dưới 1 giờ với p<0,05, CI 95% : 3,3 -3,8. SỐ 4 (57) - Tháng 07-08/2020 Website: yhoccongdong.vn 99 VI N S C K H E C NG NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Bảng 4. Liên quan giữa suy dinh dưỡng thấp còi với việc mẹ uống viên sắt hoặc viên đa vi chất khi mang thai trẻ Mẹ uống viên sắt hoặc viên đa vi chất SDD thấp còi (n= 285) Bình thường (n=985) OR CI 95% p n % n % Không 81 41,5 114 58,5 3,0 (1,4-4,3) <0,05 Có 204 19,0 871 81,0 Bảng 5. Liên quan giữa suy dinh dưỡng thấp còi với tiền sử trẻ bị tiêu cháy trong tháng qua Trẻ bị tiêu chảy SDD thấp còi (n= 285) Bình thường (n=985) OR CI 95% p n % n % Có 67 42,4 91 57,6 3,0 (2,3-5,5) <0,05 Không 218 19,6 894 80,4 Qua bảng 4 cho thấy, tỷ lệ mắc suy dinh dưỡng thấp còi ở nhóm con của các bà mẹ không uống viên sắt hoặc viên đa vi chất cao gấp 3,03 lần so với nhóm con của các bà mẹ có uống viên sắt hoặc viên đa vi chất với p<0,05, CI 95% : 1,4 -4,3. Qua bảng 5 cho thấy, tỷ lệ mắc suy dinh dưỡng thấp còi ở nhóm trẻ bị tiêu chảy trong tháng qua cao gấp 3,0 lần so với nhóm trẻ không bị tiêu chảy với p<0,05, CI 95% : 2,3 -5,5. IV. BÀN LUẬN SDD thấp còi phản ánh tình trạng thiếu dinh dưỡng kéo dài hoặc là hậu quả của một quá trình tích lũy bắt đầu xảy ra từ thời kỳ bào thai và kéo dài đến tuổi trưởng thành. SDD thấp còi làm ảnh hưởng đến phát triển thể lực, trí lực, sức khỏe trước mắt và lâu dài. Trẻ thấp còi sẽ có chiều cao thấp ở tuổi trưởng thành, ảnh hưởng đến tầm vóc nòi giống dân tộc. Sự thiếu hụt dinh dưỡng kéo dài làm giảm khả năng nhận thức, trí thông minh, kết quả học tập, năng suất lao động và thu nhập quốc dân. Trẻ bị SDD thấp còi thường hay mắc các bệnh nhiễm khuẩn do suy giảm hệ miễn dịch và sau này cũng dễ có nguy cơ thừa cân, béo phì, đái tháo đường, tim mạch, tăng huyết áp[2],[5]. Có nhiều yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em, trong nghiên cứu của chúng tôi đã cho thấy, tỷ lệ mắc suy dinh dưỡng thấp còi ở nhóm trẻ là con của các bà mẹ dưới 25 tuổi cao gấp 1,75 lần so với nhóm trẻ là con của các bà mẹ từ 25 tuổi trở lên với p>0,05, CI 95% : 1,2 -2,3; Tỷ lệ mắc suy dinh dưỡng thấp còi ở nhóm trẻ là con của các bà mẹ làm nông nghiệp cao gấp 1,26 lần so với nhóm trẻ là con của các bà mẹ làm nghề khác (làm công ăn lương, tiểu thương) với p>0,05, CI 95% : 0,8 -2,4; Tỷ lệ mắc suy dinh dưỡng thấp còi ở nhóm trẻ là con của các bà mẹ trình độ học vấn dưới THCS cao gấp 5,3 lần so với nhóm trẻ là con của các bà mẹ học từ THCS trở lên với p<0,05, CI 95% : 2,3-6,1. Một nghiên cứu về yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ 12-47 tháng tuổi tại Vĩnh Phúc của Lê Thị Thu Hà và cộng sự [3], kết quả cho thấy: Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa các yếu tố: tăng cân thấp của bà mẹ trong quá trình mang thai, kinh tế gia đình nghèo, trình độ học vấn của bà mẹ, tuổi mang thai của bà mẹ, thời gian bú sữa non, bệnh tiêu chảy của trẻ với SDD thấp còi Theo WHO, trẻ có cân nặng sơ sinh thấp (<2500gram) bao gồm cả trẻ đẻ ra trước thời kỳ phát triển bình thường trong tử cung (trẻ đẻ non) và tình trạng chậm phát triển trong tử cung gồm cả trẻ đẻ đúng hạn hay quá hạn nhưng cân nặng không tương xứng với tuổi thai (trẻ đẻ yếu) hoặc phối hợp cả hai. Trẻ có cân nặng sơ sinh thấp thường do nhiều nguyên nhân và các yếu tố phối hợp với nhau. Nhiều nghiên cứu cho thấy khoảng 60% nguyên nhân là từ phía bà mẹ: Tình trạng dinh dưỡng kém của bà mẹ, mẹ bị bệnh tật, chăm sóc bà mẹ trước sinh kém... Vì vậy, tỷ lệ cân nặng sơ sinh thấp được coi là chỉ số phản ánh sự chăm sóc sức khỏe của phụ nữ, tình trạng dinh dưỡng, điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của từng vùng miền hay một quốc gia [5],[7],[8]. SỐ 4 (57) - Tháng 07-08/2020 Website: yhoccongdong.vn100 JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2020 Nhiều nghiên cứu đã cho thấy, ở những trẻ có cân nặng sơ sinh thấp thường có sức đề kháng kém, dễ bị mắc các bệnh về đường tiêu hóa, hô hấp, như vậy đã tạo thành một vòng xoắn bệnh lý, rất khó để chăm sóc phục hồi. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ mắc suy dinh dưỡng thấp còi ở nhóm trẻ có cân nặng sơ sinh thấp (<2500g) cao gấp 5,9 lần so với nhóm trẻ có cân nặng sơ sinh ≥2500g (p<0,05, CI 95% : 3,7 -6,1), đồng thời kết quả cũng cho thấy, tỷ lệ mắc suy dinh dưỡng thấp còi ở nhóm trẻ bị tiêu chảy trong tháng qua cao gấp 3,0 lần so với nhóm trẻ không bị tiêu chảy với p<0,05, CI 95% : 2,3 -5,5. Việc chăm sóc người mẹ trong khi mang thai có ý nghĩa quan trọng. Trước hết người mẹ cần có chế độ dinh dưỡng hợp lý, uống viên sắt và acid folic để phòng thiếu máu dinh dưỡng và dị tật ống thần kinh của thai nhi. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ mắc suy dinh dưỡng thấp còi ở nhóm con của các bà mẹ không uống viên sắt hoặc viên đa vi chất cao gấp 3,03 lần so với nhóm con của các bà mẹ có uống viên sắt hoặc viên đa vi chất với p<0,05, CI 95% : 1,4 -4,3. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự như của một số nghiên cứu khác như của Nguyễn Ngọc Phương và cộng sự [4], đã xác định được mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa cân nặng sơ sinh, giới tính trẻ và thực hành nuôi con của các bà mẹ có con dưới 5 tuổi với thực trạng suy dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi. Cụ thể trẻ có cân nặng sơ sinh dưới 2500g có nguy cơ suy dinh dưỡng cao gấp 3,3 lần so với trẻ có cân nặng sơ sinh trên 2500g Taha H.Musaa và cộng sự khi nghiên cứu ở trẻ dưới 5 tuổi tại Sudan, kết quả cũng cho thấy yếu tố kinh tế xã hội, dinh dưỡng kém, kiến thức và thực hành nuôi dưỡng của bà mẹ đã dẫn đến sự gia tăng tỷ lệ suy dinh dưỡng [6]. SDD thấp còi thường ảnh hưởng đến phát triển thể lực, trí lực, sức khỏe trước mắt và lâu dài. Trẻ thấp còi sẽ có chiều cao thấp ở tuổi trưởng thành, ảnh hưởng đến tầm vóc nòi giống dân tộc. Sự thiếu hụt dinh dưỡng kéo dài làm giảm khả năng nhận thức, trí thông minh, kết quả học tập, năng suất lao động và thu nhập quốc dân. Trẻ bị SDD thấp còi thường hay mắc các bệnh nhiễm khuẩn do suy giảm hệ miễn dịch và sau này cũng dễ có nguy cơ thừa cân, béo phì, đái tháo đường, tim mạch, tăng huyết áp Ở bé gái khi lớn lên nếu chiều cao thấp dễ gây đẻ khó, nguy cơ đẻ trẻ nhẹ cân (dưới 2.500g), chiều dài thấp và vòng đời SDD thấp còi lại tái diễn [5],[7],[8]. Từ các kết quả nghiên cứu trên đã cho thấy, cần thiết phải tăng cường các hoạt động truyền thông về phòng chống suy dinh dưỡng nói chung và suy dinh dưỡng thấp còi nói riêng, tập trung vào thời cơ vàng để phòng, chống SDD thấp còi có hiệu quả là thời kỳ bà mẹ mang thai và trẻ em trong 1000 ngày đầu đời của trẻ V. KẾT LUẬN Một số yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi tại tỉnh Thái Bình gồm có: - Trình độ học vấn của bà mẹ: (OR=5,3; CI 95% : 2,3- 6,1; p<0,05) - Mẹ không uống viên sắt hoặc viên đa vi chất: (OR=3,0; CI 95% : 1,4-4,3; p<0,05) - Cân nặng sơ sinh thấp (<2500gr): (OR=5,9; CI 95% : 3,7-6,1; p<0,05) - Thời gian bú sữa non >1 giờ: (OR =3,3; CI 95% : 1,4- 3,8; p<0,05) - Trẻ bị tiêu chảy trong tháng qua: (OR=3,0; CI 95% : 2,3-5,5; p<0,05) - Chưa phát hiện mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tuổi mẹ, nghề nghiệp của mẹ với suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi (p>0,05) TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Y tế - Viện Dinh dưỡng (2012), Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2030, Ban hành kèm theo Quyết định số 226 /QÐ-TTg. 2. Lê Thị Hợp, Phí Ngọc Quyên (2016), Tình hình dinh dưỡng toàn cầu hiện nay và kêu gọi hành động phòng chống các thể suy dinh dưỡng. Tạp chí Dinh dưỡng & Thực phẩm, số 12 (4), tr1-4 3. Lê Thị Thu Hà, Nguyễn Xuân Ninh, Lê Thị Hương, Nguyễn Thị Vân Anh (2016), Suy dinh dưỡng thấp còi và một số yếu tố nguy cơ liên quan ở trẻ 12-47 tháng tuổi tại Tam Đảo, Vĩnh Phúc năm 2014, Tạp chí Y học dự phòng , Tập XXVI, số 15 (188), tr 111-114 4. Nguyễn Ngọc Phương, Quách Quang Huy, Hồ Minh Lý (2017), Thực trạng suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi và một số yếu tố liên quan tại thị trấn Quỳnh Côi, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình năm 2017, Tạp chí Y học dự phòng , Tập 27, số 8, tr306-309 SỐ 4 (57) - Tháng 07-08/2020 Website: yhoccongdong.vn 101 VI N S C K H E C NG NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 5. Lê Danh Tuyên, Phạm Văn Phú (2015), Suy dinh dưỡng thấp còi và thực hành phòng chống, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr 7-65. 6. Taha H.MusaaHassan H.MusabElrasheed A.AliaNazik E.Musaa (2015), Prevalence of malnutrition among children under five years old in Khartoum State, Sudan, Paediatrics and Child Health, Volume 25, Issue 9, 2015 7. UNICEF (2017), Malnutrition in Children - UNICEF DATA 8. UNICEF, WHO (2014). The World Bank. Joint Child Malnutrition Estimates: Levels and Trends. Geneva: WHO, 2012. [last accessed April 2014] ( en/).
File đính kèm:
mot_so_yeu_to_lien_quan_den_suy_dinh_duong_thap_coi_o_tre_em.pdf

