Một số yếu tố liên quan đến stress nghề nghiệp ở điều dưỡng viên tại Bệnh viện Nhi Thái Bình năm 2019

Mục tiêu: Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến stress nghề nghiệp của điều dưỡng tại bệnh viện Nhi Thái Bình năm 2019. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu cắt ngang mô tả, nghiên cứu định tính với cỡ mẫu phỏng vấn sâu là 19 điều dưỡng: bao gồm điều dưỡng trưởng bệnh viện, điều dưỡng trưởng các khoa: Hô hấp, Tiêu hóa, Thận tiết niệu và chọn mỗi khoa lâm sàng 01 điều dưỡng viên bằng bộ câu hỏi hướng dẫn phỏng vấn sâu. Kết quả: Những khó khăn trong môi trường lao động mà điều dưỡng gặp phải chủ yếu do đặc điểm của trẻ. Yếu tố gây stress cho điều dưỡng viên liên quan đến tổ chức phân công lao động chủ yếu do thời gian làm việc nhiều trong 1 ngày và số buổi trực trong một tuần cũng nhiều, tình trạng quá tải bệnh nhân, yếu tố về tâm – sinh lý lao động hầu hết ý kiến cho rằng mối quan hệ giữa điều dưỡng với người bệnh và người nhà người bệnh không tốt là yếu tố gây căng thẳng thần kinh giác quan, tiếp sau đó là mối quan hệ giữa điều dưỡng với đồng nghiệp không tốt cũng là yếu tố gây stress, cuộc sống cá nhân (độ tuổi, chăm sóc con nhỏ, kinh tế gia đình) là yếu tố liên quan đến stress của điều dưỡng. Kết luận: Các yếu tố: Môi trường lao động, tổ chức và phân công lao động, tâm – sinh lý lao động và cuộc sống cá nhân (độ tuổi, chăm sóc con nhỏ, kinh tế gia đình) là yếu tố liên quan đến thực trạng stress của điều dưỡng

pdf 10 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Một số yếu tố liên quan đến stress nghề nghiệp ở điều dưỡng viên tại Bệnh viện Nhi Thái Bình năm 2019", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số yếu tố liên quan đến stress nghề nghiệp ở điều dưỡng viên tại Bệnh viện Nhi Thái Bình năm 2019

Một số yếu tố liên quan đến stress nghề nghiệp ở điều dưỡng viên tại Bệnh viện Nhi Thái Bình năm 2019
46
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN STRESS NGHỀ NGHIỆP Ở ĐIỀU DƯỠNG VIÊN
TẠI BỆNH VIỆN NHI THÁI BÌNH NĂM 2019
Tăng Thị Hảo1, Tăng Thị Hải1, Đỗ Minh Sinh2
1Trường Đại học Y Dược Thái Bình, 
2Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Tìm hiểu một số yếu tố liên 
quan đến stress nghề nghiệp của điều 
dưỡng tại bệnh viện Nhi Thái Bình năm 
2019. Đối tượng và phương pháp nghiên 
cứu: Thiết kế nghiên cứu cắt ngang mô tả, 
nghiên cứu định tính với cỡ mẫu phỏng vấn 
sâu là 19 điều dưỡng: bao gồm điều dưỡng 
trưởng bệnh viện, điều dưỡng trưởng các 
khoa: Hô hấp, Tiêu hóa, Thận tiết niệu và 
chọn mỗi khoa lâm sàng 01 điều dưỡng 
viên bằng bộ câu hỏi hướng dẫn phỏng 
vấn sâu. Kết quả: Những khó khăn trong 
môi trường lao động mà điều dưỡng gặp 
phải chủ yếu do đặc điểm của trẻ. Yếu tố 
gây stress cho điều dưỡng viên liên quan 
đến tổ chức phân công lao động chủ yếu 
do thời gian làm việc nhiều trong 1 ngày 
và số buổi trực trong một tuần cũng nhiều, 
tình trạng quá tải bệnh nhân, yếu tố về tâm 
– sinh lý lao động hầu hết ý kiến cho rằng 
mối quan hệ giữa điều dưỡng với người 
bệnh và người nhà người bệnh không tốt là 
yếu tố gây căng thẳng thần kinh giác quan, 
tiếp sau đó là mối quan hệ giữa điều dưỡng 
với đồng nghiệp không tốt cũng là yếu tố 
gây stress, cuộc sống cá nhân (độ tuổi, 
chăm sóc con nhỏ, kinh tế gia đình) là yếu 
tố liên quan đến stress của điều dưỡng. 
Kết luận: Các yếu tố: Môi trường lao động, 
tổ chức và phân công lao động, tâm – sinh 
lý lao động và cuộc sống cá nhân (độ tuổi, 
chăm sóc con nhỏ, kinh tế gia đình) là yếu 
tố liên quan đến thực trạng stress của điều 
dưỡng.
Từ khóa: Stress, Điều dưỡng, Nhi khoa.
SOME FACTORS RELATED TO STRESS CAREER IN THE NURSER
AT THAI BINH CHILDREN’SHOSPITAL IN 2019
ABSTRACT
Objective: Find out some factors related 
to the occupational stress of nursing at Thai 
Binh Children’s Hospital in 2019. Method: 
Design of descriptive cross-sectional study, 
qualitative research with a sample size of 
19 in-depth interviews of nurses: including 
hospital head nurses, head nurses of the 
department: Respiratory, Gastroenterology, 
Renal Urology and choose one nurse from 
each clinical department using the in-depth 
interview guide. Results: The difficulties in 
the working environment that nurses face 
are mainly due to their characteristics. 
The factors that cause stress for nurses 
related to the division of labor are mainly 
due to the long working time in a day and 
the number of duty days in a week, the 
overload of patients, the factor of mind 
- Occupational physiology most people 
think that the relationship between nurses 
and patients and their family members is 
not a good factor causing sensory nerve 
stress, followed by the relationship between 
Người chịu trách nhiệm:Tăng Thị Hảo
Email: [email protected]
Ngày phản biện: 22/9/2020
Ngày duyệt bài: 09/10/2020
Ngày xuất bản: 05/11/2020
47
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
nurses and colleagues. Not good is also 
a stress factor, personal life (age, child 
care, family economy) is a factor related to 
nursing stress. Conclusion: Factors: Labor 
environment, organization and division 
of labor, mind - occupational physiology 
and personal life (age, child care, family 
economy) are factors related to the situation 
stress of nursing.
Keywords: Stress; Nursing; Pediatric.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Stress là một hội chứng bao gồm những 
đáp ứng không đặc hiệu của cơ thể với kích 
thích từ môi trường. Stress đặt chủ thể vào 
quá trình dàn xếp thích ứng, tạo ra một cân 
bằng mới cho cơ thể sau khi chịu những tác 
động của môi trường. Nói cách khác, phản 
ứng stress bình thường đã góp phần làm 
cho cơ thể thích nghi. Nếu đáp ứng của cá 
nhân với các yếu tố gây stress không đầy 
đủ, không thích hợp và cơ thể không tạo ra 
một cân bằng mới, thì chức năng của cơ 
thể ít nhiều sẽ bị rối loạn, những dấu hiệu 
bệnh lý cơ thể, tâm lý, tập tính sẽ xuất hiện 
và sẽ tạo ra những stress bệnh lý cấp tính 
hoặc kéo dài [1]. Stress nghề nghiệp là các 
phản ứng có hại về tâm sinh lý xảy ra khi 
yêu cầu công việc không phù hợp với năng 
lực, nguồn lực hoặc nhu cầu của người lao 
động. Stress nghề nghiệp (SNN) có thể dẫn 
đến tình trạng thay đổi sức khỏe, thậm chí 
gây nên thương tích [2]. 
Nghiên cứu tại Iran năm 2015 cho biết 
trong số bốn yếu tố ảnh hưởng đến căng 
thẳng ở điều dưỡng viên (ĐDV), các yếu 
tố hành chính có tác động cao nhất; sau đó 
tiếp theo, bởi các yếu tố môi trường và các 
yếu tố giữa các cá nhân [3]. Nghiên cứu của 
Trần Thị Ngọc Mai và cộng sự (2014) cho 
kết quả nhóm tác nhân gây stress thường 
xuyên nhất và mức độ cao nhất đối với điều 
dưỡng viên là các nhóm liên quan đến: 
chứng kiến cái chết và sự chịu đựng đau 
đớn của người bệnh với mức độ gây stress 
là 1,64, tần suất 0,83, khối lượng công việc 
lớn với mức độ gây stress là 1,42 tần suất 
0,99. Các ĐDV làm việc tại khoa hồi sức 
cấp cứu có tần suất mắc stress cao hơn 
ĐDV làm ở các khoa khác với điểm đánh 
giá trung bình là 52,2 [4]. Theo tác giả Trần 
Văn Thơ: Những ĐDV phải chịu đựng tiếng 
ồn từ khó chịu đến rất ồn có nguy cơ mắc 
stress cao gấp 2,11 lần những ĐDV làm 
việc trong môi trường tiếng ồn vừa phải [5]. 
Nghiên cứu của tác giả Mai Hòa Nhung đã 
cho biết: Nhóm điều dưỡng viên cho rằng 
thường xuyên tiếp xúc với tác nhân độc hại 
có nguy cơ bị stress cao gấp 7,8 lần so với 
nhóm điều dưỡng viên cho rằng không bao 
giờ hoặc thỉnh thoảng tiếp xúc với tác nhân 
độc hại. Nhóm điều dưỡng viên cho rằng 
thỉnh thoảng và thường xuyên làm công 
việc ngoài chức năng có nguy cơ biểu hiện 
stress gấp 2,7 lần so với nhóm điều dưỡng 
viên cho rằng không bao giờ làm công việc 
ngoài chức năng. Nhóm điều dưỡng viên 
cho rằng được phân công công việc chưa 
rõ ràng sẽ có biểu hiện stress gấp 5,6 lần so 
với nhóm điều dưỡng viên cho rằng được 
phân công công việc tương đối rõ ràng và 
rõ ràng [6]. 
Bệnh viện Nhi Thái Bình là một trong 5 
bệnh viện vệ tinh của Bệnh viện Nhi Trung 
ương, là cơ sơ thực hành cho Trường Đại 
học Y Dược Thái Bình, Trường Cao đẳng 
Y tế Thái Bình và một số trường Đại học và 
cao đẳng khác trong cả nước. Điều dưỡng 
nhi khoa là một chuyên ngành đòi hỏi sự 
chăm sóc chi tiết, tỉ mỉ đáp ứng các cung 
bậc cảm xúc, tâm sinh lý khác nhau của trẻ 
em. Đặc điểm của trẻ em là hiếu động, phối 
hợp kém hoặc không phối hợp do đó ĐDV 
gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận, 
chăm sóc và phục hồi cho bệnh nhi điều 
đó cũng tiềm ẩn nhiều yếu tố nguy cơ gây 
stress cho ĐDV. Và hiện tại, Bệnh viện Nhi 
Thái Bình chưa có nghiên cứu nào về stress 
nghề nghiệp trên đối tượng ĐDV. Vậy stress 
nghề nghiệp của ĐDV ở đây có liên quan đến 
những yếu tố nào? Đáp án của câu hỏi trên 
có thể giúp tìm hiểu và đánh giá được quy 
mô và bản chất của vấn đề để từ đó đưa ra 
48
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
được các can thiệp hiệu quả và khả thi giúp 
kiểm soát tình trạng stress của ĐDV, đồng 
thời góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc 
NB. Với ý nghĩa như trên chúng tôi thực hiện 
đề tài với mục tiêu:
 Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến 
thực trạng stress của ĐD tại Bệnh viện Nhi 
Thái Bình năm 2019. 
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
2.1. Địa điểm, thời gian, đối tượng 
nghiên cứu
- Địa điểm nghiên cứu: Bệnh viện Nhi 
tỉnh Thái Bình
- Đối tượng nghiên cứu: Điều dưỡng làm 
việc tại bệnh viện Nhi Thái Bình
- Thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu 
được tiến hành từ 01/2019 đến 06/2019
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu 
cắt ngang mô tả.
2.2.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn 
mẫu
a/ Cỡ mẫu: Đđịnh tính là 19 điều dưỡng. 
b/ Phương pháp chọn mẫu: Định tính: 
Sử dụng phương pháp chọn mẫu chủ đích 
và thỏa mãn yêu cầu của nghiên cứu đề ra. 
2.3. Phương pháp thu thập thông tin
- Sau khi được sự đồng ý của lãnh đạo 
Bệnh viện Nhi tỉnh Thái Bình, nghiên cứu 
viên đã tới từng khoa gặp điều dưỡng 
trưởng của khoa và đối tượng tham gia 
nghiên cứu, thông báo tóm tắt về nghiên 
cứu, thời gian nghiên cứu, bộ công cụ 
phỏng vấn sâu, tính bảo mật của thông tin 
mà đối tượng cung cấp. Sau đó thảo luận 
cùng điều dưỡng trưởng của khoa và đối 
tượng tham gia phỏng vấn để chọn thời 
gian thu thập số liệu cụ thể.
- Phỏng vấn sâu được thực hiện với 19 
điều dưỡng bao gồm điều dưỡng trưởng 
bệnh viện, điều dưỡng trưởng của 03 khoa 
lâm sàng: khoa Tiêu hóa, khoa Hô hấp, 
khoa Máu-Thận và 15 điều dưỡng làm việc 
tại các khoa lâm sàng. Trước khi phỏng 
vấn, đối tượng tham gia nghiên cứu sẽ ký 
vào phiếu đồng ý tham gia nghiên cứu.
- Tại mỗi buổi phỏng vấn sâu, nghiên 
cứu viên chuẩn bị các dụng cụ và thiết bị 
cần thiết cho thực hiện phỏng vấn sâu (bút 
ghi, sổ, máy ghi âm).
- Thời gian cho mỗi cuộc phỏng vấn sâu 
từ 30-45 phút.
- Nguồn số liệu này do nghiên cứu viên 
trực tiếp phỏng vấn, gỡ băng và có biên 
bản phỏng vấn kèm theo.
2.4. Xử lý số liệu
Các cuộc phỏng vấn sâu được ghi âm, 
gỡ băng và ghi chép văn bản một cách 
trung thực để tìm hiểu các yếu tố liên quan 
đến stress nghề nghiệp của điều dưỡng. Số 
liệu định tính được phân tích theo chủ đề và 
mục tiêu nghiên cứu, những ý kiến tiêu biểu 
sẽ được trích dẫn để minh họa trong phần 
trình bày kết quả.
3. KẾT QUẢ 
3.1. Một số đặc điểm đối tượng nghiên 
cứu 
Các điều dưỡng viên trong nhóm nghiên 
cứu đa số là các cán bộ trẻ, cụ thể 66,2% 
ĐDV có tuổi từ 25 đến 35, 12,4% ĐDV có 
tuổi dưới 25, chỉ có 21,4% ĐDV trên 35 tuổi. 
Về giới tính, có sự chênh lệch rõ rệt giữa 2 
giới, ĐDV là nữ giới chiếm ưu thế về số 
lượng so với ĐDV là nam giới với 86,2%. 
100% ĐDV tham gia nghiên cứu là dân tộc 
kinh. Tỷ lệ kết hôn là 82,1%. 
Phần lớn ĐDV có trình độ cao đẳng 
chiếm 71,7% ,trình độ trung cấp đứng thứ 2 
chiếm 15,2%, trình độ đại học chiếm 13,1% 
và chưa có ĐDV ở trình độ sau đại học. 
Phân bố về khoa phòng cũng như vị trí làm 
việc của ĐDV cho thấy tỷ lệ lớn ĐDV làm 
việc tại khu nội trú với 75,2%, tiếp đến là 
khu hồi sức cấp cứu với 13,8%, sau đó là 
khu khám bệnh chiếm 11,0%. Số năm trung 
bình trong nghề điều dưỡng là 7,48 ± 4,39, 
số năm làm việc tại khoa là 4,58 ± 3,08, 
đảm bảo cho nguồn cán bộ y tế trẻ làm việc 
ổn định lâu dài. 
49
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Trong tổng số 145 ĐDV tham gia nghiên cứu có tới 93 ĐDV đang phải chăm sóc con 
nhỏ dưới 5 tuổi chiếm 64,1%. Mức thu nhập trung bình của ĐDV là 6,60 ± 2,10 triệu đồng/ 
tháng. Trong tổng số 145 ĐDV tham gia nghiên cứu chỉ có 9 ĐDV tham gia làm thêm ngoài 
giờ. Số người bệnh chăm sóc trung bình trong một buổi là 20,21±18,35.
3.2. Một số yếu tố liên quan đến stress nghề nghiệp của điều dưỡng
Hộp 1. Các yếu tố về môi trường lao động ảnh hưởng đến thực trạng stress
“Môi trường làm việc nhiều tiếng ồn, tiếng khóc, rồi nguy cơ lây nhiễm các 
mầm bệnh” (ĐD trưởng nữ, 38 tuổi - Khoa Tiêu hóa);“đối tượng là trẻ nhi, 
trẻ khóc nhiều, các cháu chưa biết phối hợp với nhân viên y tế, ” (ĐD nữ, 27 
tuổi – Khoa Ngoại chấn thương); “Tiếng ồn, tiếng khóc nhiều của trẻ làm đau 
đầu, mệt mỏi” (ĐD nữ, 35 tuổi – Khoa Máu thận);“Đặc thù của bệnh viện 
là chăm sóc cho đối tượng trẻ nhi, khó tiếp cận, không hoặc phối hợp rất hạn chế 
nên yêu cầu chăm sóc phải hết sức tỉ mỉ và phải giải thích rất nhiều cho người 
bệnh và gia đình người bệnh” (ĐD trưởng bệnh viện, nữ, 49 tuổi.
Các ý kiến ở hộp 1 cho thấy rõ những khó khăn trong môi trường lao động mà ĐD gặp 
phải chủ yếu do đặc điểm của trẻ: trẻ quấy khóc, môi trường ồn ào làm cho ĐD cảm thấy 
đau đầu, mệt mỏi. Một yếu tố nữa là do trẻ nhỏ khó tiếp cận, không hoặc phối hợp rất hạn 
chế nên yêu cầu chăm sóc phải hết sức tỉ mỉ và phải giải thích rất nhiều cho NB và gia đình 
NB, điều này cũng dẫn đến stress của người ĐD.
Hộp 2. Các yếu tố liên quan đến việc tổ chức, phân công lao động
“Thời gian làm việc nhiều. Nhiều thủ tục giấy tờ của bệnh nhi, giấy tờ sổ 
sách của khoa mà nhân viên phải làm” (ĐD nữ, 26 tuổi – Khoa sơ sinh);“ 
,..Số lượng NB trong 1 buổi trực đông khoảng 2 ĐD/ khoa / khoảng 40-50 bệnh 
nhi” (ĐD nam, 23 tuổi – Khoa Tiêu hóa); “Áp lực từ tình trạng quá tải NB, 
bệnh viện năm nay là năm thứ 2 đi vào tự chủ nên yêu cầu mọi công tác chăm 
sóc của ĐD càng phải hoàn thiện hơn và nhu cầu chăm sóc của NB ngày càng 
đòi hỏi cao, ngoài ra có thể đánh giá qua giao tiếp ứng xử với đồng nghiệp và 
NB, NB họ cũng quan sát và đánh giá về người ĐD rất nhiều sự cạnh tranh 
giữa các bệnh viên, môi trường trong bệnh viện cũng đòi hỏi cao, trang thiết bị 
máy móc cũng rất nhiều, nhiều kỹ thuật cao nếu không cập nhật kịp thời thì sẽ 
không thực hiện đầy đủ được trên NB và điều này cũng ảnh hưởng đến stress 
cho người ĐD” (ĐD trưởng Bệnh viện, nữ, 49 tuổi).
Hộp 3. Các yếu tố liên quan đến khối lượng công việc
“ ...Áp lực công việc quá lớn như khối lượng công việc nhiều trong 1 ngày, số 
buổi trực trong 1 tuần nhiều, tại khoa khoảng 3 buổi/ tuần” (ĐD trưởng nữ, 38 
tuổi – Khoa Tiêu hóa);“ thời gian NB đông và nhiều NB nặng, mọi người phải 
làm việc luôn chân luôn tay, trong khi đó luôn phải trăn trở, băn khoăn làm như 
thế nào, chăm sóc, xử trí như thế nào để NB có hiệu quả tốt nhất” (ĐD nữ, 37 
tuổi – Khoa Phục hồi chức năng); “Số lượng NB thời gian này gia tăng đông 
làm cho công tác chăm sóc NB gặp nhiều khó khăn hơn như xếp buồngnếu 
phải nằm ghép NB phản ánh ĐDtại khoa phải mất nhiều thời gian để dàn xếp 
đó cũng là điều kiện gây căng thẳng cho ĐD” (ĐD nam, 37 tuổi – Khoa Truyền 
nhiễm); “Do khối lượng công việc nhiều, do thời gian ở viện nhiều, nhất là vào 
ngày trực phải trực 24/24h, ĐD ở viện nhi ít nhất là trực 2 buổi/ tuần, một số khoa 
trực 3 buổi/ tuần” (ĐD nam, 33 tuổi – Khoa Tim mạch).
50
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Hộp 4. Các yếu tố gây căng thẳng thần kinh giác quan liên quan 
đến hiệu quả công việc
“Lo lắng về hiệu quả công việc của mình liệu đã làm tốt nhất cho NB chưa, làm sao 
để cho người nhà NB hài lòng” (ĐD nữ, 26 tuổi – Khoa Sơ sinh); “Những trường hợp 
NB nặng, nhân viên rất lo lắng nên phải xử trí, chăm sóc như thế nào cho hiệu quả nhất, 
nhiều khi NB nặng mình chăm sóc hết khả năng rồi nhưng hiệu quả lại không được như 
mong muốn làm cho người trực tiếp chăm sóc, chứng kiến cảm thấy rất buồn, ám ảnh, 
phải nghĩ mãi và rất lo lắng nên giải thích với gia đình NB như thế nào để họ hiểu” (ĐD 
nữ, 32 tuổi – Khoa Gây mê hồi sức);“Đôi khi thấy rất buồn và phải suy nghĩ rất nhiều 
khi hiệu quả chăm sóc không được như ý muốn” (ĐD nữ, 37 tuổi – Khoa Phục hồi 
chức năng); “BN cấp cứu, NB nặng nhiều khi hiệu quả chăm sóc không được như mong 
muốn cũng làm cho người ĐD phải suy nghĩ, băn khoăn sao lại như vậy chính điều đó 
cũng gây căng thẳng cho người ĐD, khi chứng kiến NB tử vong, nó gây ám ảnh cho ĐD 
thời gian dài sau đó” (ĐD nữ, 26 tuổi – Khoa Cấp cứu chống độc).
Hộp 5. Các yếu tố gây căng thẳng thần kinh giác quan liên quan đến mối quan 
 ... ệnh chia sẻ: 
“Ở khu vực này là cửa ngõ của bệnh viện 
nơi đầu tiên các cháu đến trong tình trạng: 
đau bụng, sốt cao, cháu lớn thì kêu gào 
cháu nhỏ thì khóc lóc, cha mẹ, thân nhân 
thì căng thẳng, nên lúc nào cũng ồn như 
chợ vỡ, nếu nói bình thường sẽ chẳng thể 
nào nghe được nên lúc nào cũng phải nói 
với trạng thái như gào, như quát tháo nhau. 
Nhân viên cùng khu quen thì hiểu nhau rồi 
chứ những nhân viên ở nơi khác đến thì 
tưởng chúng tôi đang cãi nhau, có người 
còn ngại tiếp xúc” [5]. 
Nhi khoa là một ngành của Y học chịu 
trách nhiệm chăm sóc sức khỏe cho trẻ 
em từ lúc mới sinh cho đến 14-21 tuổi, tùy 
thuộc vào mỗi Quốc gia. Ở Việt Nam Nhi 
khoa chăm sóc sức khỏe cho trẻ em từ sơ 
sinh đến 16 tuổi. Nhi khoa khác biệt với Y 
học người lớn về nhiều lĩnh vực. Sự khác 
biệt về kích thước cơ thể tương ứng sự 
khác biệt về sự trưởng thành. Cơ thể nhỏ 
của một trẻ em hoặc một trẻ sơ sinh khác 
biệt cơ bản về mặt sinh lý so với người 
lớn. Điều trị cho trẻ em không giống điều 
trị bệnh cho một người lớn thu nhỏ. Sự 
52
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
khác biệt lớn giữa Nhi khoa và y học người 
lớn là trẻ em còn nhỏ và trong hầu hết các 
trường hợp không thể tự quyết định. Phải 
luôn luôn quan tâm đến các biện pháp bảo 
vệ, sự riêng tư, trách nhiệm pháp lý và 
sự tán thành bằng văn bản trong mọi thủ 
thuật Nhi khoa. Các NVYT làm trong lĩnh 
vực Nhi khoa thường phải đối xử với cha 
mẹ của bệnh nhi và thỉnh thoảng còn hơn 
là chính những đứa trẻ. Các đặc điểm trên 
của bệnh nhi cũng là yếu tố gây stress đối 
với điều dưỡng viên. Một số nghiên cứu đã 
chỉ ra các yếu tố môi trường lao động khác 
cũng ảnh hưởng đến tình trạng stress của 
điều dưỡng như tác giả Mai Hòa Nhung đã 
cho biết: Nhóm điều dưỡng viên cho rằng 
thường xuyên tiếp xúc với tác nhân độc hại 
có nguy cơ bị stress cao gấp 7,8 lần so với 
nhóm điều dưỡng viên cho rằng không bao 
giờ hoặc thỉnh thoảng tiếp xúc với tác nhân 
độc hại [6]. Trên thực tế, môi trường làm 
việc ảnh hướng rất lớn đến năng suất lao 
động, hiệu quả công việc, tâm lý của người 
lao động, thậm chí môi trường làm việc còn 
ảnh hưởng đến động lực và nhu cầu làm 
việc của người lao động hay việc cam kết 
gắn bó lâu dài với tổ chức. Bệnh viện vốn 
được biết đến là môi trường có nhiều tác 
nhân độc hại. Các nhân viên y tế, đặc biệt 
là các nhân viên lâm sàng rất dễ có nguy cơ 
ảnh hưởng tới sức khỏe. Tuy nhiên nguy 
cơ cao hay thấp còn phụ thuộc vào nhiều 
yếu tố, trong đó có lẽ quan trọng hàng đầu 
chính là công tác bảo hộ lao động. Do vậy 
việc đầu tư cho công tác bảo hộ lao động 
phải được đặt lên hàng đầu, có như vậy 
điều dưỡng viên mới yên tâm công tác.
 Tổ chức lao động là quá trình tổ chức 
hoạt động của con người, trong sự kết hợp 
giữa ba yếu tố cơ bản của quá trình lao 
động (sức lao động, đối tượng lao động, tư 
liệu lao động) và các mối quan hệ qua lại 
giữa những người lao động với nhau. Tổ 
chức lao động không được thực hiện khoa 
học sẽ là yếu tố nguy cơ gây ra nhiều vấn 
đề sức khỏe cho người lao động trong đó 
có vấn đề về stress. Kết quả phỏng vấn 
sâu trong nghiên cứu này đã tìm thấy 18/19 
ý kiến nói về vấn đề này. Qua phỏng vấn 
sâu cho biết các yếu tố gây stress cho điều 
dưỡng viên liên quan đến tổ chức lao động 
rất nhiều như do thời gian làm việc nhiều 
trong 1 ngày và số buổi trực trong một 
tuần cũng nhiều, do vừa chăm sóc người 
bệnh lại phải làm nhiều thủ tục giấy tờ, do 
số lượng người bệnh đông và nhiều người 
bệnh nặng. Một yếu tố khá quan trọng gây 
nên tình trạng stress của điều dưỡng viên 
là bệnh viện năm nay là năm thứ 2 đi vào 
tự chủ nên yêu cầu mọi công tác chăm sóc 
của điều dưỡng càng phải hoàn thiện hơn 
và nhu cầu chăm sóc của người bệnh ngày 
càng đòi hỏi cao, ngoài ra có thể đánh giá 
qua giao tiếp ứng xử với đồng nghiệp và 
người bệnh, người bệnh họ cũng quan sát 
và đánh giá về người điều dưỡng rất nhiều, 
sự cạnh tranh giữa các bệnh viên cũng góp 
phần gây nhiều áp lực cho nhân viên điều 
dưỡng. Môi trường trong bệnh viện cũng 
đòi hỏi cao, trang thiết bị máy móc cũng rất 
nhiều, nhiều kỹ thuật cao nếu không cập 
nhật kịp thời thì sẽ không thực hiện đầy đủ 
được trên người bệnh.
Áp lực công việc là trạng thái sức khỏe 
và tinh thần ở điểm thấp nhất khiến người 
đi làm cảm thấy lúc nào cũng khó khăn, mệt 
mỏi mỗi khi đối diện với công việc. Khối 
lượng công việc quá tải, lịch làm việc kéo 
dài, không tìm thấy niềm vui khi làm việc, 
thời gian dành cho sở thích bản thân và gia 
đình bè bạn hạn hẹp,... đã khiến rất nhiều 
người đi làm hiện nay rơi vào tình trạng 
“khủng hoảng” tinh thần lẫn sức khỏe. Họ 
luôn bị “tảng đá” áp lực công việc đè nặng 
lên người và cảm thấy không thể thoát khỏi. 
Có đến 18/19 số người được hỏi đã đưa 
ra các ý kiến về khối lượng công việc quá 
tải. Yếu tố số buổi trực cũng được tìm thấy 
53
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
có yếu tố liên quan đến tình trạng stress 
trong nghiên cứu của Trần Thị Thúy; mối 
liên quan xảy ra khi điều dưỡng viên phải 
trực từ 3- 4 buổi trở lên [7]. Nghiên cứu của 
tác giả Trần Thị Ngọc Mai khẳng định: quá 
tải công việc do không đủ điều dưỡng là 
yếu tố tạo stress cao nhất với tần suất cũng 
ở mức cao [4]. Nghiên cứu của Đặng Kim 
Oanh cho thấy: những đối tượng thường 
xuyên bị khối lượng công việc vượt quá 
sức chịu đựng có nguy cơ mắc stress gấp 
2,9 lần so với nhóm không hoặc hiếm khi 
hoặc thi thoảng [8].
 Hiệu quả công việc là một tập hợp các 
hành vi hoặc hành động của ĐDV có liên 
quan đến các mục tiêu của tổ chức. Các 
hành vi hoặc hành động này được đo bằng 
mức độ chuyên nghiệp và những đóng góp 
của cá nhân vào các mục tiêu của tổ chức. 
Hay nói khác đi, hiệu quả công việc của cá 
nhân được định nghĩa là toàn bộ các giá trị 
kỳ vọng của tổ chức, được ĐDV thực hiện 
qua từng giai đoạn làm việc riêng biệt và 
diễn ra trong một thời hạn nhất định. Và 
đây cũng là yếu tố gây căng thẳng thần 
kinh giác quan của người ĐD, có 10/19 ý 
kiến nhận định như vậy. Điều dưỡng viên 
đưa ra những giải thích rất rõ ràng về các 
yếu tố liên quan đến hiệu quả công việc chủ 
yếu các yếu tố liên quan đến người bệnh 
và người nhà người bệnh như liệu đã làm 
tốt nhất cho người bệnh chưa, làm sao để 
cho người nhà người bệnh hài lòng; người 
bệnh cấp cứu, người bệnh nặng nhiều 
khi hiệu quả chăm sóc không được như 
mong muốn. Trong nghiên cứu của tác giả 
Nguyễn Thanh Hương tại bệnh viện tâm 
thần Đà Nẵng cũng có những ý kiến đồng 
quan điểm với nghiên cứu của chúng tôi, 
cho thấy: NVYT cảm thấy áp lực về trách 
nhiệm khi sự việc xảy ra chính là nguyên 
nhân làm gia tăng nỗi lo sợ cho NVYT: 
“Trường hợp NB trốn viện hay tử vong gia 
đình NB làm ồn ào, bắt đền gây áp lực rất 
nhiều” (lãnh đạo BV) [9].
Chất lượng của mối quan hệ giữa Điều 
dưỡng và người bệnh là điều quan trọng đối 
với cả hai bên. Các giá trị và quan điểm 
của điều dưỡng và người bệnh về bệnh 
tật, cuộc sống và thời gian đóng một vai 
trò trong việc xây dựng mối quan hệ này. 
Mối quan hệ mạnh mẽ giữa điều dưỡng và 
người bệnh đảm bảo chất lượng thông tin 
thường xuyên hơn về bệnh tật của người 
bệnh và giúp chăm sóc sức khỏe tốt hơn 
cho cả người bệnh và gia đình của họ. 
Tăng độ chuẩn xác của chẩn đoán và nâng 
cao kiến thức cho người bệnh và người 
nhà NB cũng đóng góp một mối quan hệ 
tốt giữa điều dưỡng và người bệnh. Nhưng 
trong trường hợp mối quan hệ này trở nên 
lỏng lẻo thì việc chăm sóc đầy đủ của điều 
dưỡng rất dễ dẫn đến thiếu sót, điều này 
làm cho người bệnh mất niềm tin vào chẩn 
đoán và phương pháp điều trị, làm giảm 
sự tuân thủ thực sự các chỉ dẫn y tế, dẫn 
đến kết quả sức khỏe kém cho người bệnh. 
Trong khi phỏng vấn sâu có 14/19 ý kiến 
cho rằng mối quan hệ giữa điều dưỡng với 
người bệnh và người nhà người bệnh là 
yếu tố gây căng thẳng thần kinh giác quan. 
Nghiên cứu của tác giả Đặng Kim Oanh 
cho thấy những điều dưỡng có mối quan 
hệ không tốt với người bệnh và người nhà 
người bệnh có nguy cơ mắc stress gấp 
2,68 lần so với đối tượng có mối quan hệ 
bình thường hoặc tốt [6].
Trong toàn bộ quá trình chăm sóc người 
bệnh, mọi điều dưỡng phải cộng tác thân ái 
và giúp đỡ lẫn nhau, hỗ trợ lẫn nhau, thiết 
lập bầu không khí hoà thuận trong tập thể. 
Tôn trọng người khác, tế nhị trong ứng xử 
có ý nghĩa quyết định trong thiết lập các 
mối quan hệ. Phê bình, góp ý phải có thiện 
chí, tức là điều dưỡng phải tế nhị, khôn 
khéo trong phê bình và tiếp thu phê bình. 
Người có khuyết điểm tiếp thu được ý kiến 
của cá nhân, tập thể để sửa chữa, khắc 
phục. Thường xuyên trao đổi học hỏi lẫn 
54
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
nhau là điều rất thiết thực với người điều 
dưỡng hiện đại. Có 7/19 ý kiến phỏng vấn 
sâu cho rằng mối quan hệ giữa điều dưỡng 
với đồng nghiệp không tốt cũng là yếu tố 
gây stress.
Yếu tố cá nhân là một trong những yếu 
tố tác động lớn đến người lao động như 
năng suất, hiệu quả công việc và cả sức 
khỏe của họ. Yếu tố cá nhân bao gồm: độ 
tuổi, cuộc sống gia đình, chăm sóc con nhỏ, 
kinh tế gia đình đã được các điều dưỡng 
viên nhắc đến trong khi phỏng vấn và có 
10/19 ý kiến cho rằng cuộc sống cá nhân 
là yếu tố gây stress cho ĐDV. Vấn đề này 
đã được rất nhiều điều dưỡng trong nghiên 
cứu nhắc đến như: việc có con nhỏ không 
có người chăm sóc, nhờ ông bà nên nhiều 
khi cũng lo lắng, bản thân phải chịu trách 
nhiệm lo toan về kinh tế trong gia đình; 
trong cuộc sống gia đình gặp nhiều chuyện 
riêng mà không biết chia sẻ cùng ai; vừa 
phải gánh vác công việc gia đình, vừa phải 
đảm bảo công việc tại cơ quan. Hay có điều 
dưỡng cho rằng đa số trong độ tuổi trẻ, nên 
con nhỏ rất nhiều, nhiều khi bố trí công việc 
không được theo ý muốn, con ốm không có 
thời gian để chăm sóc cho con điều đó cũng 
ảnh hưởng đến sự căng thẳng của người 
điều dưỡng, bên cạnh đó sự thấu hiểu của 
mọi người trong gia đình chưa được tốt, 
họ chưa được thông cảm như những ngày 
lễ tết thường mọi người ở nhà nhưng làm 
trong ngành y thì phải đi làm, đi trực nên 
nhiều khi áp lực từ phía gia đình cũng gây 
stress cho người điều dưỡng.
Tóm lại, trong chuyên môn, cán bộ điều 
dưỡng luôn là người đồng hành với các 
bác sĩ, chăm sóc bệnh nhi từ những điều 
đơn giản nhất như tắm bé, chăm sóc da, 
rốn trẻ sơ sinh cho đến ứng dụng các 
kỹ thuật mới, kỹ thuật cao trong ghép gan, 
ghép thận, ghép tế bào gốc, mổ tim Ngay 
với các phẫu thuật khó nhất, ca bệnh thành 
công, sự đóng góp của điều dưỡng trong 
chăm sóc người bệnh, chống nhiễm khuẩn 
sau mổ là vô cùng quan trọng. Bên cạnh 
đó, đội ngũ điều dưỡng còn là những nhân 
viên công tác xã hội giúp cho các gia đình 
có hoàn cảnh khó khăn về vật chất và tinh 
thần, đồng thời chia sẻ thông tin chăm sóc 
người bệnh, mang lại niềm tin, hy vọng cho 
người bệnh và gia đình. Như vậy, Bệnh viện 
cần đưa giải pháp đẩy mạnh các hoạt động 
can thiệp nhằm đảm bảo chất lượng khám 
chữa bệnh tại Bệnh viện không ngừng 
được nâng cao. Điều dưỡng hiện là một 
ngành chịu nhiều áp lực cả trên phương 
diện thể chất và tinh thần. Tỷ lệ mắc stress 
ở điều dưỡng viên cao không chỉ làm suy 
giảm sức khỏe của điều dưỡng viên về thể 
chất lẫn tinh thần mà còn có thể gây ra một 
số hành vi không tốt ảnh hưởng trực tiếp 
đến sức khỏe của người bệnh.
5. KẾT LUẬN
Các yếu tố: Môi trường lao động chủ 
yếu là những khó khăn liên quan đến đặc 
điểm của trẻ (tiếng ồn, quấy khóc, không 
phối hợp hoặc phối hợp hạn chế) và tiếp 
xúc với các tác nhân gây bệnh. Tổ chức lao 
động: thời gian làm việc nhiều trong 1 ngày 
và số buổi trực trong một tuần cũng nhiều. 
Các yếu tố về tâm – sinh lý lao động như 
hiệu quả công việc không được như mong 
muốn, mối quan hệ không tốt giữa người 
nhà người bệnh với người điều dưỡng, 
đồng nghiệp với nhau và cuộc sống cá 
nhân (độ tuổi, chăm sóc con nhỏ, kinh tế 
gia đình) là yếu tố liên quan đến stress của 
điều dưỡng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Nhận (2006), Stress và 
vấn đề vệ sinh tâm lý, Tâm lý học y học, 
Nhà xuất bản y học Hà Nội, Hà Nội, tr. 165-
208.
2. Bộ môn Tâm lý y học và y đức (2015), 
Stress, Bài giảng tâm lý và tâm lý y học, 
Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định, tr. 
91-103. 
55
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
3. Karimi A., Adel-Mehraban M. and 
Moeini M. (2018), “Occupational Stressors 
in Nurses and Nursing Adverse Events”, 
Iranian Journal of Nursing and Midwifery 
Research. 23(3), 230-234.
4. Trần Thị Ngọc Mai (2014), “Thực trạng 
stress nghề nghiệp của điều dưỡng lâm 
sàng đang học hệ cử nhân vừa làm vừa 
học tại Trường Đại học Thăng Long và Đại 
học Thành Tây”, Tạp chí Y học thực hành 
số 4, 110-115.
5. Trần Văn Thơ (2017), Thực trạng 
stress và một số yếu tố liên quan gây stress 
ở điều dưỡng viên tại Bệnh viện Nhi TW 
năm 2017, Luận văn thạc sỹ Quản lý bệnh 
viện, Trường Đại học Y tế công cộng Hà 
Nội.
6. Mai Hòa Nhung (2014 ), Tình trạng 
stress và một số yếu tố liên quan ở điều 
dưỡng viên lâm sàng tại Bệnh viện Giao 
thông vận tải Trung ương năm 2014, Luận 
văn thạc sỹ y tế công cộng, Trường đại học 
Y tế công cộng, Hà Nội.
7. Trần Thị Thúy (2011), Đánh giá trạng 
thái stress của cán bộ y tế khối lâm sàng 
Bệnh viện Ung bướu Hà Nội năm 2011, 
Luận văn thạc sĩ quản lý bệnh viện, Đại học 
Y tế Công cộng, Hà Nội.
8. Đặng Kim Oanh (2017), Thực trạng 
stress nghề nghiệp ở nhân viên điều dưỡng 
tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, Khóa luận 
tốt nghiệp bác sĩ đa khoa, Trường Đại học 
Y Hà Nội, Hà Nội.
9. Nguyễn Thanh Hương, Nguyễn Hữu 
Xuân Trường và Trần Thị Giáng Hương 
(2013), “Rối loạn lo âu và một số yếu tố liên 
quan ở cán bộ Bệnh viện Tâm thần Đà Nẵng”, 
Tạp chí Y tế công cộng. 29 (29), 12-16.
THỰC TRẠNG RỐI LOẠN GIẤC NGỦ Ở BỆNH NHÂN SAU PHẪU THUẬT
 UNG THƯ VÚ TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU NGHỆ AN 
Phan Thị An Dung1, Nguyễn Thị Cẩm Mai1, 
Đinh Thị Hằng Nga1, Lê Thị Thanh Tâm1
1Trường Đại học Y Khoa Vinh
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định thực trạng rối loạn 
giấc ngủ ở bệnh nhân sau phẫu thuật ung 
thư vú. Đối tượng và phương pháp nghiên 
cứu: Nghiên cứu sử dụng phương pháp mô 
tả cắt ngang có phân tích với cỡ mẫu là 120 
bao gồm các bệnh nhân sau phẫu thuật ung 
thư vú tại khoa Ngoại vú- Phụ khoa, Bệnh 
viện Ung Bướu Nghệ An. Kết quả: Hầu hết 
các bệnh nhân sau phẫu thuật ung thư vú 
đều phàn nàn về rối loạn giấc ngủ, trong đó 
có 5,8% bệnh nhân có rối loạn giấc ngủ nhẹ, 
51,7% bệnh nhân có rối loạn giấc ngủ trung 
bình, 42,5% bệnh nhân có rối loạn giấc ngủ 
nặng. Kết luận: Rối loạn giấc ngủ xảy ra ở 
tất cả các bệnh nhân sau phẫu thuật ung 
thư vú. Người điều dưỡng cần quan tâm 
đến giấc ngủ và giúp bệnh nhân cải thiện 
giấc ngủ sau phẫu thuật để nâng cáo chất 
lượng chăm sóc và điều trị.
Từ khóa: Rối loạn giấc ngủ; Sau phẫu 
thuật ung thư vú; Bệnh nhân.
Người chịu trách nhiệm: Phan Thị An Dung
Email: [email protected]
Ngày phản biện: 22/9/2020
Ngày duyệt bài: 09/10/2020
Ngày xuất bản: 05/11/2020

File đính kèm:

  • pdfmuc_tieu_tim_hieu_mot_so_yeu_to_lien_quan_den_stress_nghe_ng.pdf