Một số yếu tố liên quan đến rối nhiễu tâm trí ở người cao tuổi tại xã Bình Nguyên, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình năm 2015

Nghiên cứu dịch tễ học mô tả thông qua cuộc điều

tra cắt ngang về một số yếu tố liên quan đến rối nhiễu

tâm trí ở người cao tuổi tại xã Bình Nguyên, huyện Kiến

Xương, tỉnh Thái Bình, kết quả cho thấy: Người cao tuổi

đơn thân có nguy cơ bị rối nhiễu tâm trí cao hơn 2,86 lần

so với người có vợ/chồng; người cao tuổi càng không có

khả năng lao động có rối nhiễu tâm trí cao hơn 4,5 lần so

với người vẫn có khả năng lao động; người cao tuổi mắc 1

bệnh có rối nhiễu tâm trí cao hơn 2,2 lần so với người có

từ 2 bệnh trở lên

pdf 5 trang phuongnguyen 40
Bạn đang xem tài liệu "Một số yếu tố liên quan đến rối nhiễu tâm trí ở người cao tuổi tại xã Bình Nguyên, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình năm 2015", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số yếu tố liên quan đến rối nhiễu tâm trí ở người cao tuổi tại xã Bình Nguyên, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình năm 2015

Một số yếu tố liên quan đến rối nhiễu tâm trí ở người cao tuổi tại xã Bình Nguyên, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình năm 2015
SỐ 4 (45) - Tháng 07-08/2018
Website: yhoccongdong.vn 57
 V
I N
 S
C K
H E C NG 
NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TÓM TẮT
Nghiên cứu dịch tễ học mô tả thông qua cuộc điều 
tra cắt ngang về một số yếu tố liên quan đến rối nhiễu 
tâm trí ở người cao tuổi tại xã Bình Nguyên, huyện Kiến 
Xương, tỉnh Thái Bình, kết quả cho thấy: Người cao tuổi 
đơn thân có nguy cơ bị rối nhiễu tâm trí cao hơn 2,86 lần 
so với người có vợ/chồng; người cao tuổi càng không có 
khả năng lao động có rối nhiễu tâm trí cao hơn 4,5 lần so 
với người vẫn có khả năng lao động; người cao tuổi mắc 1 
bệnh có rối nhiễu tâm trí cao hơn 2,2 lần so với người có 
từ 2 bệnh trở lên.
Từ khóa: Rối nhiễu tâm trí, người cao tuổi, tỉnh 
Thái Bình.
ABSTRACT:
SOME FACTORS RELATED TO MENTAL 
DISTURBANCE IN THE ELDERLY IN BINH 
NGUYEN COMMUNE, KIEN XUONG DISTRICT, 
THAI BINH PROVINCE IN 2015
Epidemiological study was described through a 
cross-sectional survey on mental disturbance in the 
elderly in Binh Nguyen commune, Kien Xuong district, 
Thai Binh province. Results showed that Single-
person age was 2,86 times more likely to have a mental 
disturbance than a spouse; The elderly who are unable 
to work have mental disturbances 4,5 times higher than 
those who are still able to work; The elderly with a 
mental disorder that is 2,2 times higher than those who 
have two diseases become up.
Keywords: Mental disorders, elderly, Thai Binh 
province.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, khoa học kĩ 
thuật tiên tiến, tuổi thọ của con người trên thế giới ngày 
càng được nâng lên, tỉ lệ người cao tuổi ngày càng tăng, 
đặc biệt ở các nước đang phát triển và kém phát triển, 
trong đó có Việt Nam. Trong khi các bệnh thực thể có 
thể nhận biết không mấy khó khăn qua thăm khám, chẩn 
đoán thì các rối nhiễu tâm trí thường bị bỏ qua, ít người 
để ý đến và cũng khó chẩn đoán chính xác. Đó là một 
trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng nhiều người 
già đang bị mất đi khả năng sống một cách độc lập. Họ bị 
hạn chế về vận động, yếu về thể chất hoặc các vấn đề về 
sức khỏe thể chất và tâm thần khác mà đòi hỏi phải có sự 
chăm sóc lâu dài. 
Vì thế, chúng tôi tiến hành nghiên cứu: “Một số yếu 
tố liên quan đến rối nhiễu tâm trí ở người cao tuổi tại xã 
Bình Nguyên, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình năm 
2015”. Nhằm mục tiêu:
Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến rối nhiễu tâm trí 
của người cao tuổi tại địa bàn nghiên cứu
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN 
CỨU
2.1. Thời gian, địa bàn và đối tượng nghiên cứu
- Địa bàn nghiên cứu: Xã Bình Nguyên, huyện Kiến 
Xương, tỉnh Thái Bình
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 1/2015 đến 
tháng 6/2016
- Đối tượng nghiên cứu: Người cao tuổi tại 
2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành 
theo phương pháp dịch tễ học mô tả với cuộc điều tra cắt 
ngang
- Kỹ thuật chọn mẫu và cỡ mẫu
	Chọn mẫu:
• Chọn huyện: chọn chủ đích huyện Kiến Xương
• Chọn xã: chọn chủ đích xã Bình Nguyên
• Chọn đối tượng nghiên cứu: chọn ngẫu nhiên người 
MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN RỐI NHIỄU TÂM TRÍ Ở 
NGƯỜI CAO TUỔI TẠI XÃ BÌNH NGUYÊN, HUYỆN KIẾN 
XƯƠNG, TỈNH THÁI BÌNH NĂM 2015
Trần Thị Thu Hà1, Lê Lan Anh1, Hà Thị Tân1
Ngày nhận bài: 15/04/2018 Ngày phản biện: 15/05/2018 Ngày duyệt đăng: 12/06/2018
1. Trường Đại học Y Dược Thái Bình. Tác giả chính Trần Thị Thu Hà: SĐT: 0989535028
Email: [email protected]
SỐ 4 (45) - Tháng 07-08/2018
Website: yhoccongdong.vn58
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2018
cao tuổi trong danh sách người cao tuổi của xã để phỏng 
vấn cho đến khi đủ cỡ mẫu nghiên cứu
• Tiêu chuẩn loại trừ đối tượng: các đối tượng không 
còn khả năng nhận thức, khả năng nghe, nói hạn chế và 
không đủ sức khỏe để trả lời phỏng vấn
	Cỡ mẫu
Cỡ mẫu tính theo công thức áp dụng cho nghiên cứu 
mô tả cắt ngang:
n = z2(1-α/2)
pq
d2
Trong đó:
z : Hệ số tin cậy lấy ở mức α=0,05 thì z = 1,96.
p : Tỷ lệ rối loạn tâm trí người cao tuổi theo nghiên 
cứu của Bộ LĐTBXH là 20%
q : Tỷ lệ ng ười không có rối loạn (q = 1 – p = 0,8 = 80%).
d : Sai số mong muốn (lấy d= 0,05)
Từ công thức trên tính đ ược: n = 245. Thực tế, chúng 
tôi đã tiến hành điều tra 400 người cao tuổi tại xã.
- Phương pháp thu thập thông tin
Người cao tuổi được điều tra sẽ được phỏng vấn trực 
tiếp bằng bộ câu hỏi đã được chuẩn hóa để sàng lọc RNTT 
tại cộng đồng của Tổ chức Y tế thế giới.
- Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu điều tra được nhập bằng phần mềm Epi Info 
6.04 và xử lý bằng phần mềm SPSS 16.0
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Bảng 1. Đối tượng nghiên cứu theo nghề nghiệp và trình độ học vấn
Nội dung SL %
Nghề nghiệp
Nông dân 305 76,2
Hưu trí 87 21,8
Lao động tự do 8 2,0
Trình độ học vấn
Mù chữ 8 2,0
Biết chữ 28 7,0
Tiểu học 88 22,0
THCS 222 55,5
THPT 23 5,8
Trung cấp trở lên 31 7,7
Bảng 2. Tỷ lệ NCT có rối nhiễu tâm trí theo tình trạng hôn nhân
 Rối nhiễu
Hôn nhân
Không Có
OR
 SL % SL %
Có vợ/chồng 241 81,7 54 18,3 
2,9
Đơn thân 64 61,0 41 39,0 
Kết quả nghiên cứu cho thấy: Người cao tuổi tại xã 
chủ yếu làm nghề nông, chiếm 76,2%; 21,8% là cán bộ 
đã về hưu. 55,5% người cao tuổi được nghiên cứu đã học 
xong THCS, 22% học xong tiểu học và vẫn còn 2,0% 
người cao tuổi không biết chữ.
SỐ 4 (45) - Tháng 07-08/2018
Website: yhoccongdong.vn 59
 V
I N
 S
C K
H E C NG 
NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bảng 3. Tỷ lệ NCT có rối nhiễu theo mức độ trò chuyện cùng người thân/con cháu
 Rối nhiễu
Nói chuyện
Không Có 
OR
 SL % SL %
Thường xuyên 272 79,5 70 20,5 
2,9
Hiếm khi 33 56,9 25 43,1 
Bảng 4. Tỷ lệ NCT có rối nhiễu theo khả năng lao động
 Rối nhiễu
 Khả năng lao động
Không Có OR
 SL % SL %
Vẫn lao động 288 79,3 75 20,7 4,5
Không lao động được 17 45,9 20 54,1 
Bảng 5. Tỷ lệ NCT có rối nhiễu theo thu nhập/tháng
 Rối nhiễu
Thu nhập
Không Có 
OR
 SL % SL %
Từ 500 ngàn trở lên 157 84,4 29 15,6 
2,4
Dưới 500 ngàn 148 69,2 66 30,8 
Kết quả nghiên cứu cho thấy: tỷ lệ người cao tuổi 
đơn thân có rối nhiễu tâm trí cao hơn so với những người 
có vợ/chồng với tỷ lệ là 39,1% và 18,3%. Người cao tuổi 
đơn thân có nguy cơ bị rối nhiễu tâm trí cao hơn 2.86 lần 
so với người có vợ/chồng.
Bảng 3 cho thấy: Người cao tuổi ít nói chuyện với 
con cái và người thân có nguy cơ bị rối nhiễu tâm trí 
cao gấp 2,94 lần so với người cao tuổi thường xuyên trò 
chuyện cùng người thân. 
Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra: khả năng lao động ảnh 
hưởng tới tâm lý của người cao tuổi, người cao tuổi càng không 
có khả năng lao động thì tỷ lệ rối nhiễu càng cao (54,1%). Khi 
vẫn còn lao động được thì tỷ lệ rối nhiễu là 20,7%.
Nhìn bảng 5, ta thấy: Tỷ lệ rối nhiễu tâm trí ở nhóm 
người cao tuổi có thu nhập dưới 500 nghìn/tháng cao nhất 
là 30,8%, trong khi tỷ lệ này trong nhóm có thu nhập từ 
500 nghìn/tháng trở lên là 15,6%.
SỐ 4 (45) - Tháng 07-08/2018
Website: yhoccongdong.vn60
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2018
Qua bảng 6, tỷ lệ rối nhiễu tâm trí tăng theo tần suất 
mắc bệnh, ở nhóm người cao tuổi không mắc bệnh hoặc 
mắc 1 bệnh thì rối nhiễu là 14,1%, tỷ lệ này tăng lên ở 
nhóm có từ 2 bệnh trở lên là 26,6%.
IV. BÀN LUẬN
Người cao tuổi đơn thân có nguy cơ bị rối nhiễu tâm 
trí cao hơn 2,86 lần so với người có vợ/chồng. Tâm lý 
chung của người Việt Nam “con chăm cha không bằng 
bà chăm ông”. Người bạn đời đóng vai trò đặc biệt quan 
trọng với mỗi cá nhân trong suốt chặng đường đời, có ý 
nghĩa sâu sắc khi họ bước vào tuổi xế chiều. Có người bạn 
sớm tối bầu bạn chia sẻ những buồn vui trải nghiệm trong 
cuộc sống. Nhu cầu chia sẻ, lắng nghe của con người được 
thỏa mãn, những lo lắng, phiền muộn tiêu tan. Với những 
người đơn thân, nguy cơ bị RNTT cao hơn những người 
có vợ/chồng bởi nhu cầu giao tiếp – một trong 5 năm nhu 
cầu cơ bản của con người (theo quan điểm của Maslow) bị 
hạn chế. Có những chuyện trong cuộc sống mà người cao 
tuổi chỉ có thể chia sẻ với người bạn đời của mình. Người 
cao tuổi có vợ/chồng trong quá trình giao tiếp với những 
người xung quanh họ sẽ cởi mở hơn, vui vẻ hơn so với 
người cao tuổi đơn thân. Bản thân người đơn thân, họ luôn 
nhận thấy vị thế thấp kém của mình trong xã hội (nếp nghĩ 
này hiện vẫn còn chất chứa trong tâm tư của người dân ở 
nhiều làng quê). Vì thế, không tránh khỏi những ưu tư, 
phiền muộn dồn nén trong lòng, không biết tỏ bày cùng ai.
Kết quả nghiên cứu bảng 3 cũng cho thấy, mức độ trò 
chuyện cùng với người thân/con cháu có ảnh hưởng đến 
rối nhiễu tâm trí của người cao tuổi. Người cao tuổi ít nói 
chuyện với con cái và người thân có nguy cơ bị rối nhiễu 
tâm trí cao gấp 2,94 lần so với người cao tuổi thường 
xuyên cùng trò chuyện với người thân. Điều này một lần 
nữa khẳng định: nhu cầu giao tiếp là nhu cầu đặc trưng, 
không thể thiếu của con người. Với người cao tuổi, vấn 
đề này có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nhóm người cao 
tuổi thường chỉ đảm nhận một số việc lặt vặt trong nhà, 
khoảng thời gian nhàn rỗi nhiều. Trong khi đó, đối tượng 
lao động chính trong gia đình (con, cháu) ít có thời gian ở 
nhà. Người già rất thích được quan tâm và luôn thể hiện sự 
quan tâm của mình đối với con, cháu thông qua việc hỏi 
han, chuyện trò. Tuy nhiên, nếu nhu cầu này không được 
thỏa mãn, người cao tuổi thường cảm thấy mình là người 
thừa trong gia đình. Chính điều này càng gây cho họ áp 
lực tâm lý nặng nề hơn. 
Từ bảng 4, cho thấy: NCT càng không có khả năng lao 
động thì tỷ lệ rối nhiễu càng cao. Khi vẫn còn lao động được 
thì tỷ lệ rối nhiễu là 20,7% và tỷ lệ này ở nhóm không làm 
việc được cao hơn là 54,1%. Ở Bình Nguyên, cuộc sống 
của NCT thường là những công việc nhà nông, gần như 
không có khoản thu nhập nào khác. Do đó, khi không còn 
khả năng lao động, sự tích lũy trước đó không nhiều, nay 
phải đối mặt với tình trạng đau ốm thường xuyên nên dễ 
ảnh hưởng đến tâm lý của họ. Người cao tuổi luôn đè nặng 
tâm lý “Tre già thì người chuộng, người già thì ai chuộng”. 
Với người cao tuổi, đặc biệt là nhóm người không còn khả 
năng lao động, áp lực này càng thường xuyên hơn.
Tỷ lệ rối nhiễu tâm trí ở nhóm người cao tuổi có thu 
nhập dưới 500 nghìn/tháng cao nhất là 30,8%, thu nhập 
từ 500 nghìn/tháng trở lên là 15,6%. Kết quả nghiên cứu 
của chúng tôi tương đồng với nghiên cứu của Trần Như 
Minh Hằng (2005): Người có điều kiện kinh tế khó khăn 
và trung bình có rối loạn cao hơn đối tượng có điều kiện 
kinh tế khá (94,3% và 5,7%). Tình trạng kinh tế là một 
trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến tâm lý của NCT 
khi đi khám, chữa bệnh. Theo quy luật của tự nhiên, tuổi 
già không tránh khỏi ốm đau, bệnh tật. Do đó, với mức thu 
nhập thấp, họ lo chi tiêu trong cuộc sống, lo khi đau ốm... 
là điều dễ hiểu. Theo đó, khi bị mắc nhiều bệnh (từ 2 bệnh 
trở lên) có tỉ lệ RNTT là 26,6%.
Kết quả nghiên cứu bảng 6 về tỉ lệ người cao tuổi có 
rối nhiễu theo tần suất mắc bệnh cho thấy: người cao tuổi 
mắc 1 bệnh thì tỉ lệ rối nhiễu thấp nhất (14,1%) và cao 
nhất là nhóm mắc từ 2 bệnh trở lên (26,6%). Thực tế cho 
Bảng 6. Tỷ lệ NCT có rối nhiễu theo tần suất mắc bệnh
Rối nhiễu
Tần suất mắc bệnh
Không Có
OR
 SL % SL %
1 bệnh 79 85,9 13 14,1 
2,2
≥ 2 bệnh 226 73,4 82 26,6 
SỐ 4 (45) - Tháng 07-08/2018
Website: yhoccongdong.vn 61
 V
I N
 S
C K
H E C NG 
NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
thấy, Bình Nguyên là xã nội đồng, đời sống của người dân 
nói chung và người cao tuổi nói riêng đều dựa vào hoa 
màu và cấy lúa. Chút kinh tế người cao tuổi tích lũy được 
chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Bên cạnh đó, một số bệnh 
hay gặp ở nhóm tuổi này như: tăng huyết áp (44,5%), 
tiêu hóa (33,8%), đặc biệt là bệnh về cơ – xương – khớp 
(70,2%). Bước sang tuổi 60, sức khỏe thể chất suy giảm, 
bệnh tật hoành hành, sức lao động bị hạn chế. Trước thực 
trạng đó, rối nhiễu tâm trí xuất hiện với một số biểu hiện: 
lo lắng, căng thẳng, mệt mỏi, khó chịu
V. KẾT LUẬN 
Qua tìm hiểu “Một số yếu tố liên quan ở người cao 
tuổi tại xã Bình Nguyên, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái 
Bình năm 2015”, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
- Đối tượng nghiên cứu là nông dân chiếm tỉ lệ cao 
nhất (76,2%).
- Đa số NCT có trình độ THCS (55,5%).
- NCT đơn thân có nguy cơ bị rối nhiễu tâm trí cao 
hơn 2,86 lần so với người có vợ/chồng.
- Ít trò chuyện với con cháu, NCT có nguy cơ rối 
nhiễu tâm trí cao hơn so với việc thường xuyên trò chuyện 
(43,1% so với 20,5%).
- NCT càng không có khả năng lao động có rối 
nhiễu tâm trí cao hơn 4,5 lần so với người vẫn có khả 
năng lao động.
- Mức thu nhập thấp (dưới 500 ngàn/tháng) NCT có 
rối nhiễu tâm trí khá cao (30,8%).
- NCT mắc 1 bệnh có rối nhiễu tâm trí cao hơn 2,2 lần 
so với người có từ 2 bệnh trở lên.
VI. KHUYẾN NGHỊ
- Trong cuộc sống hàng ngày, nhân viên y tế và người 
thân cần quan tâm nhiều hơn đến NCT, ngoài việc phát 
hiện những thay đổi về chức năng sinh lý của các hệ thống 
cơ quan trong cơ thể cần phải theo dõi những biến đổi về 
tâm lý ở nhiều mức độ khác nhau đối với NCT để nhận 
biết và điều trị kịp thời những RLTT ở NCT.
- Khuyến khích NCT duy trì tập thể thao thường 
xuyên để tăng cường sức khỏe, tránh các RLTT ở NCT. 
Nhằm đem lại hiệu quả cao trong việc chăm sóc sức khỏe 
thể chất và tinh thần cho NCT trong cộng đồng.
- Những người thân trong gia đình và làng xóm 
cần thường xuyên trò chuyện, chia sẻ với người cao 
tuổi hơn nữa.
1. Trần Như Minh Hằng, Đinh Văn Lo, Nguyễn Đức Ly (2006), “Khảo sát tỉ lệ và một số yếu tố liên quan đến 
rối loạn trầm cảm ở người cao tuổi tại xã Thủy Xuân – thành phố Huế”, Tạp chí Y học Thực hành số 10, trang 67 – 96.
2. Phạm Khuê (2000), Bệnh học tuổi già, Nhà xuất bản Y học, trang 8 – 87.
3. Trần Tuấn (2006). Đánh giá độ nhạy và độ đặc hiệu của bộ câu hỏi SDQ25 sử dụng trong chẩn đoán sàng lọc 
rối nhiễu tâm trí trên đối tượng trẻ em 4-16 tuổi tại Việt Nam. Báo cáo nghiệm thu đề tài cấp bộ, Liên Hiệp các Hội 
Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam.
4. WHO (2014). Gần 9 triệu người Việt Nam bị rối loạn tâm trí. Hội nghị triển khai đề án trợ giúp xã hội và phục 
hồi chức năng cho người tâm thần, người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng giai đoạn 2011-2020.
5. WHO (1992), Rối loạn khí sắc, Phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 về các rối loạn tâm thần và hành vi, Mô tả 
lâm sàng và nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán, Nhà xuất bản Y học, HN. 
6. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO

File đính kèm:

  • pdfmot_so_yeu_to_lien_quan_den_roi_nhieu_tam_tri_o_nguoi_cao_tu.pdf