Một số yêu cầu đặt ra đối với nguồn nhân lực y tế thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập quốc tế

Nhân lực y tế là yếu tố không thể thiếu, là điều kiện quyết định chất lượng và hiệu quả hoạt

động của hệ thống y tế. Là trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước, việc xây dựng nguồn nhân lực y tế

đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế cũng

là một yêu cầu cấp bách đối với ngành y tế Thành phố Hồ Chí Minh. Bài báo này nhằm phân tích

những vấn đề còn tồn tại trong phát triển nguồn nhân lực y tế và xác định được những yêu cầu đặt

ra cho nguồn nhân lực y tế Thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng

sâu rộng hiện nay

pdf 6 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Một số yêu cầu đặt ra đối với nguồn nhân lực y tế thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số yêu cầu đặt ra đối với nguồn nhân lực y tế thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập quốc tế

Một số yêu cầu đặt ra đối với nguồn nhân lực y tế thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập quốc tế
117
Một số yêu cầu đặt ra...
Nghiên cứu - Trao đổi
MỘT SỐ YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỐI VỚI NGUỒN NHÂN LỰC Y TẾ 
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ
 Nguyễn Thị Quỳnh Trang*
TÓM TẮT
Nhân lực y tế là yếu tố không thể thiếu, là điều kiện quyết định chất lượng và hiệu quả hoạt 
động của hệ thống y tế. Là trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước, việc xây dựng nguồn nhân lực y tế 
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế cũng 
là một yêu cầu cấp bách đối với ngành y tế Thành phố Hồ Chí Minh. Bài báo này nhằm phân tích 
những vấn đề còn tồn tại trong phát triển nguồn nhân lực y tế và xác định được những yêu cầu đặt 
ra cho nguồn nhân lực y tế Thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng 
sâu rộng hiện nay.
Từ khóa: Yêu cầu đặt ra, nguồn nhân lực y tế, hội nhập quốc tế, Thành phố Hồ Chí Minh
SOME REQUIREMENTS FOR THE HUMAN RESOURCE HUMAN 
RESOURCES IN HO CHI MINH CITY IN THE CONTRIBUTION OF 
INTERNATIONAL INTEGRATION
ABSTRACT
Health manpower is a factor determining the quality and efficiency of the operation and 
performance of the health system. As the country’s largest economic center, building capacity and 
improving health manpower to meet people’s rising needs in the light of international integration is 
a pressing necessity for Ho Chi Minh City’s health sector. This paper aims to analyze existing health 
resource development issues and identify health workforce requirements in Ho Chi Minh City in the 
context of today’s deepening and broader internal integration.
Key words: Requirement(s), human resources for health/ health manpower/ health human 
resources/ health workforce, international integration, Ho Chi Minh City
* NCS. GV. Trường Đại học Kinh tế TPHCM. Email: [email protected]
ĐT: 0919405805
118
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng 
sâu rộng, để phát triển ngang tầm với các nước 
trong khu vực và thế giới, Đảng và Nhà nước 
ta luôn khẳng định quan điểm coi con người là 
trung tâm của sự phát triển. Đại hội lần thứ XI 
của Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định: “Phát 
triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất 
là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong 
những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, 
bền vững đất nước”.
Mật độ dân số cao, đầu tư cho cơ sở hạ 
tầng luôn được chú trọng một cách đồng bộ, 
thống nhất trên phạm vi toàn thành phố và các 
quận, huyện. Trình độ dân trí khá cao đã tạo ra 
một sự khác biệt cĕn bản của Thành phố Hồ Chí 
Minh so với các tỉnh, thành phố khác trong cả 
nước mà ai ai cũng dễ nhận thấy.
Thành phố Hồ Chí Minh – một thành phố 
tập trung nhiều khu công nghiệp lớn và tạo ra 
nhiều cơ hội việc làm cho người dân, do đó, 
những nĕm gần đây, thành phố đã thu hút được 
một lực lượng dân cư lớn ở các tỉnh về sinh sống 
và làm việc. Sự tĕng nhanh về dân số, nhất là 
tĕng mật độ dân số trong nội thành đã làm tĕng 
nhu cầu của người dân trên tất cả các lĩnh vực, 
nhưng đáng chú ý nhất là nhu cầu về dịch vụ y 
tế và chĕm sóc sức khỏe. Nhu cầu chĕm sóc sức 
khỏe của người dân đã tạo ra một áp lực lớn cho 
ngành y tế. Với nhiệm vụ của hệ thống y tế là 
bảo vệ, khám, điều trị nâng cao sức khỏe cho 
người dân, ngành y tế Thành phố Hồ Chí Minh 
luôn phải đặt ra những yêu cầu đổi mới, nhất là 
đổi mới nguồn nhân lực y tế mới có thể đáp ứng 
được nhu cầu ngày càng tĕng của người dân.
Số dân của một quốc gia sẽ là cơ sở quy 
định số lượng cán bộ y tế và số lượng các đơn vị 
khám chữa bệnh. Trước sự phát triển của xã hội, 
sự tĕng nhanh về dân số cộng với sự biến đổi khí 
hậu làm tĕng dịch bệnh trong những nĕm gần 
đây đòi hỏi ngành y tế Thành phố Hồ Chí Minh 
phải có đội ngũ cán bộ y tế phát triển cả về số 
lượng và chất lượng.
Theo Báo cáo đánh giá hiện trạng hệ 
thống tổ chức ngành Y tế TP. Hồ Chí Minh cho 
thấy ngành Y tế Thành phố Hồ Chí Minh phải 
phục vụ 15% - 20% dân số các tỉnh trong khu 
vực phía Nam, đưa số lượng dân số mà ngành 
Y tế Thành phố phục vụ lên tới khoảng 15 triệu 
người bao gồm dân cư thành phố, dân nhập cư 
và vãng lai cùng với nhân dân các tỉnh lân cận 
về khám chữa bệnh theo các kỹ thuật cao.
Xu hướng hội nhập quốc tế vừa là thời 
cơ để người dân được đáp ứng nhu cầu cao 
trong việc khám chữa bệnh, nâng cao chất 
lượng nguồn nhân lực y tế vừa là thách thức 
đối với Thành phố Hồ Chí Minh trong phát 
triển ngành y tế. Vì vậy trước thực trạng phát 
triển nguồn nhân lực ngành Y tế Thành phố 
Chí Minh hiện nay việc xác định những yêu 
cầu đặt ra để đáp ứng xu hướng hội nhập quốc 
tế là việc làm cần thiết.
2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2.1. Những vấn đề còn tồn tại trong phát 
triển nguồn nhân lực y tế TPHCM
Thứ nhất: Chất lượng nguồn nhân lực y tế 
chưa cao, chưa hội nhập được với thế giới, từ đó 
ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ y tế. 
Bảng 1: Cơ cấu bác sỹ phân theo trình độ
2015 2016 2017
Tiến sỹ 113 148 145
Chuyên khoa 2 644 766 819
Thạc sỹ 776 808 851
Chuyên khoa 1 2036 2087 2169
Bác sỹ 2002 2400 2602
Tổng
 (Nguồn: Tổng hợp theo số liệu của Sở Y tế Tp.HCM)
119
Một số yêu cầu đặt ra...
Với số liệu ở bảng 1 trên đây cho thấy số 
lượng bác sỹ được đào tạo hàng nĕm tuy có tĕng 
lên nhưng phần lớn là sự tĕng lên của đội ngũ 
bác sỹ và bác sỹ chuyên khoa 1, trong khi đó đội 
ngũ bác sỹ có trình độ chuyên môn cao (Tiến sỹ, 
chuyên khoa 2) lại chiếm tỷ lệ rất nhỏ.
Sự mất cân đối về trình độ chuyên môn 
của đội ngũ bác sỹ trên đây là một khó khĕn, nếu 
ngành y tế Thành phố Hồ Chí Minh không có 
một kế hoạch đào tạo hợp lý sẽ không đáp ứng 
được nhu cầu của người dân trong xu hướng hội 
nhập quốc tế hiện nay.
Trong ngành y, ngoài đội ngũ y, bác sỹ, 
đội ngũ điều dưỡng viên có vai trò quan trọng 
trong việc chĕm sóc người bệnh. Số liệu thống 
kê của Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh ở bảng 
2 phản ánh một vấn đề là đa số đội ngũ điều 
dưỡng mới được đào tạo ở trình độ sơ cấp và 
trung cấp, số điều dưỡng có trình độ từ đại học 
trở lên chỉ chiếm tỷ lệ hơn 10%. Đây là một bất 
cập mà ngành y tế cần xem xét tạo điều kiện để 
các cán bộ điều dưỡng học tập nâng cao trình 
độ chuyên môn để người bệnh được điều trị một 
cách tốt nhất.
Bảng 2: Điều dưỡng phân theo trình độ chuyên môn
2015 2016 2017
Sau đại học 51 69 89
Đại học 1005 1463 2030
Cao đẳng 101 194 287
Trung cấp 8923 9459 9816
Sơ cấp 492 411 338
 (Nguồn: Tổng hợp từ số liệu của Sở Y tế TP.HCM)
Qua phân tích số liệu trên ta thấy chất 
lượng đội ngũ bác sỹ và điều dưỡng tuy đã được 
nâng cao nhưng vẫn còn chưa hợp lý. Số cán bộ 
y tế có trình độ cao, chuyên môn sâu chưa nhiều. 
Số bác sỹ có trình độ tiến sỹ, chuyên khoa 2 và 
số điều dưỡng có trình độ từ đại học trở lên chỉ 
chiếm tỷ lệ hơn 10% 
Thứ hai: Phân bổ nguồn nhân lực y tế còn 
nhiều hạn chế. 
Tp.HCM là một thành phố lớn, đông dân 
cư, nhiều cơ sở khám chữa bệnh ở khắp các 
tuyến xã, huyện, tỉnh ( thành phố). Những y tế 
cơ sở tuyến dưới có vai trò quan trọng, được coi 
là những “gác cổng” của hệ thống y tế, chĕm sóc 
sức khỏe ban đầu, là nơi người dân được khám 
bệnh với chi phí thấp. Chúng ta không thể phủ 
nhận được vai trò quan trọng của y tế tuyến cơ 
sở, nhưng ở Tp.HCM, nhân lực cho tuyến cơ 
sở, nhất là vùng xa vẫn chưa thực sự đầy đủ. 
Dù ngành y tế đã phân công, bố trí bác sĩ tốt 
nghiệp về công tác tại tuyến cơ sở và tổ chức 
học chuyên khoa, học định hướng, tuy nhiên, 
một số nơi như Cần Giờ, Củ Chi vẫn chưa thu 
hút được cán bộ y tế tham gia. Chính sách hỗ 
trợ cũng đã được UBNDTP ban hành và triển 
khai áp dụng trong nhiều nĕm nay, tuy nhiên, 
đời sống kinh tế khó khĕn, khiến việc hỗ trợ như 
hiện nay chưa thật sự khuyến khích được cán bộ 
y tế về công tác ở các vùng xa, vùng khó khĕn. 
Điều này cũng là một trong những nguyên nhân 
người dân lên tuyến trên khám chữa bệnh, dù chỉ 
là những bệnh bình thường đã làm cho các bệnh 
viện tuyến trên luôn đối mặt với tình trạng quá 
tải, đồng thời gây mất thời gian và cũng có thể 
khiến việc lây chéo các bệnh ngày càng nhiều.
Theo khảo sát của Bộ Y tế, Tp.HCM là 
một trong ba thành phố trong cả nước có đầy đủ 
bác sỹ tại các trạm y tế. Tuy nhiên, số lượng bác 
sỹ, kỹ thuật viên và điều dưỡng phần lớn vẫn tập 
trung nhiều ở tuyến tỉnh ( thành phố), tập trung 
làm việc ở nơi dân cư đông đúc, điều kiện làm 
việc tốt, mức sống cao. Ngược lại, ở các tuyến 
xã, tuyến huyện lại thu hút lực lượng chuyên 
môn chủ yếu là các y sỹ. Điều này được chứng 
minh ở bảng 3, nĕm 2016 số bác sỹ tuyến xã và 
tuyến huyện là 1.922 người ( chiếm 30,35%), 
120
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
trong đó số bác sỹ tuyến tỉnh là 4.409 người 
(chiếm 69,66%) còn số y sỹ tuyến xã và tuyến 
huyện là 1.403 người ( chiếm 77,60%) và số y 
sỹ tuyến tỉnh là 405 người ( chiếm 22,40%). Số 
bác sỹ ở tuyến xã, tuyến huyện chiếm tỷ lệ thấp 
cũng được thể hiện trong nĕm 2017, số bác sỹ 
tuyến xã và tuyến huyện là 1.958 người ( chiếm 
29,78%), trong đó số bác sỹ tuyến tỉnh là 4.617 
người (chiếm 70,22%) còn số y sỹ tuyến xã và 
tuyến huyện là 1.293 người ( chiếm 76,06%) và 
số y sỹ tuyến tỉnh là 407 người ( chiếm 23,94%). 
Bảng 3. Cơ cấu nhân lực y tế phân theo tuyến
Chỉ tiêu 2016 2017
Tro
ng 
đó
Tuyến 
xã
Tuyến 
huyện
Tuyến 
tỉnh
Tuyến 
xã
Tuyến 
huyện
Tuyến 
tỉnh
Bác sỹ 425 1497 4409 330 1628 4617
Y sỹ 686 717 405 607 686 407
Điều dưỡng 622 2306 8767 597 2469 9494
Kỹ thuật viên 162 400 1543 9 403 1710
Y tế công cộng 80 58 70 2 64 91
Hộ sinh 411 346 1389 345 364 1524
Dược sỹ đại học 150 121 254 1 131 291
Dược sỹ cao đẳng 5 20 32 12 35 51
Dược sỹ trung cấp + 
KTV trung cấp dược 250 545 831 287 568 929
Dược tá 20 44 84 18 40 65
Lương y 0 3 6 0 2 0
Ngành hóa học 0 20 87 2 21 56
Ngành sinh học 2 60 345 2 68 157
Cán bộ đào tạo chuyên 
ngành dân số 0 17 0 0 18 3
Cán bộ khác 173 1451 4869 54 1525 5163
Tổng số 32970 34927
 (Nguồn: Sở Y tế Tp.HCM)
Thứ ba: Đầu tư cở sở vật chất, trang thiết 
bị khám chữa bệnh không đồng đều, nên việc 
phát hiện ra bệnh, chẩn đoán bệnh của các bác 
sỹ còn có nhiều hạn chế chưa tạo được lòng tin 
đối với người bệnh vì thế người dân ngày càng 
có xu hướng tập trung đến các bệnh viện lớn, 
chuyên sâu.
Công tác đầu tư cơ sở vật chất và đầu tư 
trang thiết bị y tế tuy đã có nhiều cố gắng áp 
dụng nhiều biện pháp nhằm giảm quá tải, tuy 
nhiên, chưa đáp ứng được nhu cầu của người 
bệnh do các bệnh viện vẫn đảm nhận phục vụ 
cho bệnh nhân từ các tỉnh. Do mặt bằng về y tế 
không đồng đều, đầu tư cho y tế, cơ sở vật chất, 
trang thiết bị khám chữa bệnh, khả nĕng đáp ứng 
nhu cầu người bệnh, từ máy móc kỹ thuật, dịch 
vụ đến nguồn nhân lựccủa các bệnh viện rất 
khác nhau, nhất là giữa các tuyến bệnh viện. 
 Đa số các bệnh viện tuyến dưới còn sử 
dụng những thiết bị máy móc cũ kỹ, lạc hậu chưa 
hiện đại. Do quy định của các vĕn bản pháp lý 
với một khung pháp lý chung cho nông thôn và 
thành thị, nên ở thành phố mỗi quận huyện phải 
thành lập 1 bệnh viện. Thành phố Hồ Chí Minh 
có 23 bệnh viện Quận/ Huyện. Có những quận 
như quận 5, quận 3 mặt bằng chật hẹp, kinh 
phí đầu tư có hạn. Vì vậy các bệnh viện quận, 
huyện rất khó xây dựng thương hiệu vì chưa 
đủ điều kiện về cơ sở hạ tầng kỹ thuật, máy 
móc, thiết bị chủ yếu là loại III, đội ngũ Y 
bác sĩ không chuyên sâu như ở các bệnh viện 
tuyến trên. 
Thứ tư: Chế đãi ngộ chưa được chú trọng 
đúng mức cộng thêm với áp lực công việc trước 
tình trạng quá tải ở bệnh viện nên đối với một 
số cán bộ y tế còn thiếu niềm nở khi làm việc, 
121
Một số yêu cầu đặt ra...
tiếp xúc với bệnh nhân, chưa thật sự thông cảm, 
chia sẻ, còn cáu gắt với bệnh nhân và gia đình; 
ít quan tâm chĕm sóc, động viên tinh thần người 
bệnh, mới chỉ quan tâm đến những kỹ thuật điều 
trị cơ bản.
Thứ nĕm: Chế độ, chính sách đối với cán 
bộ y tế còn bất hợp lý, mức lương khởi điểm 
chưa tương xứng với thời gian đào tạo; thầy 
thuốc chưa được hưởng phụ cấp thâm niên nghề; 
chưa có chính sách để thu hút những thầy thuốc 
có trình độ chuyên môn cao, tay nghề giỏi làm 
việc lâu dài tại y tế tuyến cơ sở.
2.2. Những yêu cầu đặt ra đối với nguồn 
nhân lực y tế Thành phố Hồ Chí Minh
Tĕng cường mở rộng quan hệ kinh tế đối 
ngoại là xu hướng tất yếu của các quốc gia trên 
thế giới. Mối quan hệ này không chỉ đem lại lợi 
ích cho nước sở tại mà còn đem lại lợi ích nhiều 
mặt cho các nước tham gia. Xu hướng hội nhập 
quốc tế về lao động trong lĩnh vực y tế có tác 
động ảnh hưởng lớn tới nguồn nhân lực y tế. 
Trước thực trạng nguồn nhân lực y tế Thành phố 
Hồ Chí Minh hiện nay để đáp ứng nhu cầu khám 
chữa bệnh chất lượng cao của người dân trong 
bối cảnh đã đặt ra những yêu cầu sau:
Thứ nhất: cần có chiến lược phát triển 
nguồn nhân lực y tế có chuyên môn giỏi ở một 
số chuyên ngành mũi nhọn. Nguồn nhân lực y tế 
phải được phải thường xuyên trau dồi kiến thức 
và tĕng cường thực hành đảm bảo đầy đủ nĕng 
lực hành nghề đáp ứng Bộ Chuẩn nĕng lực cơ 
bản đối với từng vị trí việc làm.
 Ở Việt Nam nói chung và Thành phố Hồ 
Chí Minh nói riêng phải coi đào tạo đội ngũ 
nhân lực y tế có chất lượng cao, xây dựng đội 
ngũ y, bác sỹ giỏi về chuyên môn, có đạo đức 
nghề nghiệp là một nhiệm vụ thiết thực, một 
tiêu chí hàng đầu của ngành y tế. Làm được điều 
này sẽ giúp cho ngành y tế Thành phố Hồ Chí 
Minh phát triển ngày càng sâu rộng, người dân 
sẽ được đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh tốt 
nhất, sẽ được hưởng dịch vụ y tế có chất lượng 
tốt nhất ngay trên đất nước của mình mà không 
cần phải khó khĕn, vất vả đi tìm kiếm dịch vụ y 
tế ở các nước khác, vừa tốn kém thời gian, tiền 
bạc, công sức. Không những vậy, chúng ta còn 
thu hút được bệnh nhân ở các nước bạn trong 
khu vực đến khám chữa bệnh. Đây cũng là cách 
thức để quảng bá hình ảnh của Việt Nam trên 
trường quốc tế.
 Thứ hai, khi hội nhập quốc tế giữa các 
nước ngày càng sâu rộng sẽ có nhiều hình thức 
liên kết hợp tác trong lĩnh vực y tế : Các dịch 
vụ được cung cấp từ quốc gia này sang quốc gia 
khác. Ví dụ, bác sỹ Malaixia có thể chẩn đoán từ 
xa cho bệnh nhân ở Tp.HCM.
 Các dịch vụ được cung cấp trong lãnh 
thổ của một quốc gia cho người sử dụng đến từ 
một quốc gia như người bệnh Campuchia sang 
Tp.HCM điều trị. Để có thể giao tiếp tốt trong 
quá trình điều trị, phục vụ bệnh nhân đạt kết quả 
cao thì ngoài chuyên môn giỏi vấn đề ngoại ngữ 
cũng khá quan trọng. Tiếng Anh là ngôn ngữ 
phổ biến để giao tiếp, trao đổi giữa các quốc gia 
trong mối quan hệ hợp tác giữa các nước. Nếu 
không có các bước chuẩn bị kịp thời và hợp lý 
về ngôn ngữ quốc tế này thì Việt Nam sẽ có thể 
gặp rất nhiều thách thức phía trước. Bên cạnh đó 
sự chuẩn bị kiến thức, kỹ nĕng; thái độ và tâm 
lý để sẵn sàng di chuyển sang làm việc tại nước 
ngoài của lao động Việt Nam chưa cao và đây 
cũng là một hạn chế của mà nhân lực tế cần phải 
khắc phục nếu muốn hội nhập sâu và rộng.
 Thứ ba: đội ngũ y, bác sỹ cần phải chú 
trọng việc trang bị kỹ nĕng công nghệ thông tin.
 Khi hội nhập ngày càng sâu rộng, tính 
cạnh tranh trong thị trường nhân lực y tế sẽ rất 
cao. Những thành tựu nghiên cứu khoa học trên 
thế giới, những thiết bị hiện đại được áp dụng vào 
y tế trong nước ngày càng nhiều. Đối với đội ngũ 
nhân viên y tế có chất lượng cao, sử dụng thành 
thạo công nghệ thông tin, trang bị tốt nĕng lực 
hội nhập sẽ có nhiều cơ hội làm việc trong các cơ 
sở y tế có tiêu chuẩn quốc tế. Ngược lại, những 
ai chưa trang bị cho mình những nĕng lực và kỹ 
nĕng cần thiết sẽ dần bị đưa ra khỏi cuộc chơi.
122
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Thứ tư: Thu hút được đội ngũ cán bộ y tế 
giỏi ở các cơ sở khám chữa bệnh tuyến cơ sở.
Mạng lưới y tế cơ sở có vai trò và vị trí 
quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe và tính 
mạng của cộng đồng dân cư song để người dân 
tin tưởng giao tính mạng của mình cho đội ngũ 
cán bộ y tế cơ sở thì đòi hỏi chúng ta phải tuyển 
chọn được các bác sỹ có chuyên môn giỏi, có 
lòng yêu nghề, yên tâm công tác tại các cơ sở 
y tế khám chữa bệnh ban đầu. Bên cạnh đó cần 
thực hiện đãi ngộ tương xứng đối với cán bộ 
y tế, có chính sách đủ mạnh để khuyến khích 
người có trình độ chuyên môn làm việc tại y tế 
cơ sở, các vùng sâu, vùng xa, vùng khó khĕn.
3. KẾT LUẬN
 Hội nhập quốc tế là một xu thế cần hướng 
tới trong sự giao lưu, hợp tác của các nước trên 
thế giới, nó tác động đến mọi mặt kinh tế, vĕn 
hóa, xã hội... Xu hướng này đã tạo ra những điều 
kiện để thu nhận tri thức, khoa học công nghệ 
của thế giới cho sự phát triển của một quốc gia. 
Sau hơn 30 nĕm Đổi mới, kinh tế Việt Nam hội 
nhập ngày càng sâu rộng và gắn kết chặt chẽ 
với các nước trong khu vực và trên thế giới. 
Việt Nam là một trong các thành viên của Cộng 
đồng Kinh tế ASEAN (AEC ), Tổ chức thương 
mại thế giới (WTO) , tham gia vào CPTPP, các 
định chế quốc tế sẽ thúc đẩy dòng chu chuyển 
tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, công nghệ 
và lao động, nhất là lao động có kỹ nĕng có cơ 
hội di chuyển trong thị trường lao động của khối 
AEC Để đáp ứng xu hướng hội nhập quốc 
tế, mỗi quốc gia, mỗi lĩnh vực của đời sống xã 
hội đều phải đặt ra những yêu cầu và thực hiện 
những yêu cầu đó một cách nghiêm ngặt thì xã 
hội mới phát triển. Trong khuôn khổ bài nghiên 
cứu này, tác giả đi sâu phân tích những yêu cầu 
đặt ra đối với sự phát triển nguồn nhân lực y tế 
trong xu hướng mở rộng quan hệ quốc tế. Đó là: 
nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ ngoại 
ngữ, trang bị kỹ nĕng công nghệ thông tin cho 
đội ngũ y, bác sỹ trước sự phát triển của cuộc 
cách mạng công nghiệp 4.0 để chúng ta nhanh 
chóng tiếp cận với nền y tế hiện đại, có khả 
nĕng nhận chuyển giao công nghệ trong lĩnh 
vực y học mới làm cho nhu cầu chĕm sóc sức 
khỏe của người ngày càng được phục vụ một 
cách tốt nhất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Huy Chương, 2018. Tp.HCM: Trong nĕm 
2018: ngành y tế phải đáp ứng nhu cầu của 
người bệnh, 
minh-trong-nam-2018-nganh-y-te-phai-dap-
su-hai-long-cua-nguoi-benh-311301.html, 
ngày truy cập 19/2/2019.
2. Đảng Cộng Sản Việt Nam, 2011,Vĕn kiện 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
3. Huy Tuấn, 2012. Nâng cao chất lượng nguồn 
nhân lực y tế đáp ứng yêu cầu về chĕm sóc sức 
khỏe nhân dân, 
org.vn/Home/PrintStory.aspx?distribution=4
3981&print=true, ngày truy cập 20/1/2018.
4. Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh, Dự thảo 
Quy hoạch phát triển Ngành Y tế Thành phố 
Hồ Chí Minh giai đoạn 2010 – 2020 và tầm 
nhìn đến 2025.
5. Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh, Báo cáo - 
Tình hình hoạt động Ngành Y tế Thành phố 
nĕm 2016 và phương hướng hoạt động nĕm 
2017.
6. Viện Khoa học pháp lý và kinh doanh quốc 
tế, (2009) Báo cáo đánh giá hiện trạng Hệ 
thống tổ chức ngành Y tế TP. Hồ Chí Minh.

File đính kèm:

  • pdfmot_so_yeu_cau_dat_ra_doi_voi_nguon_nhan_luc_y_te_thanh_pho.pdf