Một số yêu cầu đặt ra đối với nguồn nhân lực y tế thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập quốc tế
Nhân lực y tế là yếu tố không thể thiếu, là điều kiện quyết định chất lượng và hiệu quả hoạt
động của hệ thống y tế. Là trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước, việc xây dựng nguồn nhân lực y tế
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế cũng
là một yêu cầu cấp bách đối với ngành y tế Thành phố Hồ Chí Minh. Bài báo này nhằm phân tích
những vấn đề còn tồn tại trong phát triển nguồn nhân lực y tế và xác định được những yêu cầu đặt
ra cho nguồn nhân lực y tế Thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng
sâu rộng hiện nay
Bạn đang xem tài liệu "Một số yêu cầu đặt ra đối với nguồn nhân lực y tế thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số yêu cầu đặt ra đối với nguồn nhân lực y tế thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập quốc tế
117 Một số yêu cầu đặt ra... Nghiên cứu - Trao đổi MỘT SỐ YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỐI VỚI NGUỒN NHÂN LỰC Y TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ Nguyễn Thị Quỳnh Trang* TÓM TẮT Nhân lực y tế là yếu tố không thể thiếu, là điều kiện quyết định chất lượng và hiệu quả hoạt động của hệ thống y tế. Là trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước, việc xây dựng nguồn nhân lực y tế đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế cũng là một yêu cầu cấp bách đối với ngành y tế Thành phố Hồ Chí Minh. Bài báo này nhằm phân tích những vấn đề còn tồn tại trong phát triển nguồn nhân lực y tế và xác định được những yêu cầu đặt ra cho nguồn nhân lực y tế Thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay. Từ khóa: Yêu cầu đặt ra, nguồn nhân lực y tế, hội nhập quốc tế, Thành phố Hồ Chí Minh SOME REQUIREMENTS FOR THE HUMAN RESOURCE HUMAN RESOURCES IN HO CHI MINH CITY IN THE CONTRIBUTION OF INTERNATIONAL INTEGRATION ABSTRACT Health manpower is a factor determining the quality and efficiency of the operation and performance of the health system. As the country’s largest economic center, building capacity and improving health manpower to meet people’s rising needs in the light of international integration is a pressing necessity for Ho Chi Minh City’s health sector. This paper aims to analyze existing health resource development issues and identify health workforce requirements in Ho Chi Minh City in the context of today’s deepening and broader internal integration. Key words: Requirement(s), human resources for health/ health manpower/ health human resources/ health workforce, international integration, Ho Chi Minh City * NCS. GV. Trường Đại học Kinh tế TPHCM. Email: [email protected] ĐT: 0919405805 118 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, để phát triển ngang tầm với các nước trong khu vực và thế giới, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định quan điểm coi con người là trung tâm của sự phát triển. Đại hội lần thứ XI của Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định: “Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, bền vững đất nước”. Mật độ dân số cao, đầu tư cho cơ sở hạ tầng luôn được chú trọng một cách đồng bộ, thống nhất trên phạm vi toàn thành phố và các quận, huyện. Trình độ dân trí khá cao đã tạo ra một sự khác biệt cĕn bản của Thành phố Hồ Chí Minh so với các tỉnh, thành phố khác trong cả nước mà ai ai cũng dễ nhận thấy. Thành phố Hồ Chí Minh – một thành phố tập trung nhiều khu công nghiệp lớn và tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người dân, do đó, những nĕm gần đây, thành phố đã thu hút được một lực lượng dân cư lớn ở các tỉnh về sinh sống và làm việc. Sự tĕng nhanh về dân số, nhất là tĕng mật độ dân số trong nội thành đã làm tĕng nhu cầu của người dân trên tất cả các lĩnh vực, nhưng đáng chú ý nhất là nhu cầu về dịch vụ y tế và chĕm sóc sức khỏe. Nhu cầu chĕm sóc sức khỏe của người dân đã tạo ra một áp lực lớn cho ngành y tế. Với nhiệm vụ của hệ thống y tế là bảo vệ, khám, điều trị nâng cao sức khỏe cho người dân, ngành y tế Thành phố Hồ Chí Minh luôn phải đặt ra những yêu cầu đổi mới, nhất là đổi mới nguồn nhân lực y tế mới có thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng tĕng của người dân. Số dân của một quốc gia sẽ là cơ sở quy định số lượng cán bộ y tế và số lượng các đơn vị khám chữa bệnh. Trước sự phát triển của xã hội, sự tĕng nhanh về dân số cộng với sự biến đổi khí hậu làm tĕng dịch bệnh trong những nĕm gần đây đòi hỏi ngành y tế Thành phố Hồ Chí Minh phải có đội ngũ cán bộ y tế phát triển cả về số lượng và chất lượng. Theo Báo cáo đánh giá hiện trạng hệ thống tổ chức ngành Y tế TP. Hồ Chí Minh cho thấy ngành Y tế Thành phố Hồ Chí Minh phải phục vụ 15% - 20% dân số các tỉnh trong khu vực phía Nam, đưa số lượng dân số mà ngành Y tế Thành phố phục vụ lên tới khoảng 15 triệu người bao gồm dân cư thành phố, dân nhập cư và vãng lai cùng với nhân dân các tỉnh lân cận về khám chữa bệnh theo các kỹ thuật cao. Xu hướng hội nhập quốc tế vừa là thời cơ để người dân được đáp ứng nhu cầu cao trong việc khám chữa bệnh, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực y tế vừa là thách thức đối với Thành phố Hồ Chí Minh trong phát triển ngành y tế. Vì vậy trước thực trạng phát triển nguồn nhân lực ngành Y tế Thành phố Chí Minh hiện nay việc xác định những yêu cầu đặt ra để đáp ứng xu hướng hội nhập quốc tế là việc làm cần thiết. 2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 2.1. Những vấn đề còn tồn tại trong phát triển nguồn nhân lực y tế TPHCM Thứ nhất: Chất lượng nguồn nhân lực y tế chưa cao, chưa hội nhập được với thế giới, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ y tế. Bảng 1: Cơ cấu bác sỹ phân theo trình độ 2015 2016 2017 Tiến sỹ 113 148 145 Chuyên khoa 2 644 766 819 Thạc sỹ 776 808 851 Chuyên khoa 1 2036 2087 2169 Bác sỹ 2002 2400 2602 Tổng (Nguồn: Tổng hợp theo số liệu của Sở Y tế Tp.HCM) 119 Một số yêu cầu đặt ra... Với số liệu ở bảng 1 trên đây cho thấy số lượng bác sỹ được đào tạo hàng nĕm tuy có tĕng lên nhưng phần lớn là sự tĕng lên của đội ngũ bác sỹ và bác sỹ chuyên khoa 1, trong khi đó đội ngũ bác sỹ có trình độ chuyên môn cao (Tiến sỹ, chuyên khoa 2) lại chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Sự mất cân đối về trình độ chuyên môn của đội ngũ bác sỹ trên đây là một khó khĕn, nếu ngành y tế Thành phố Hồ Chí Minh không có một kế hoạch đào tạo hợp lý sẽ không đáp ứng được nhu cầu của người dân trong xu hướng hội nhập quốc tế hiện nay. Trong ngành y, ngoài đội ngũ y, bác sỹ, đội ngũ điều dưỡng viên có vai trò quan trọng trong việc chĕm sóc người bệnh. Số liệu thống kê của Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh ở bảng 2 phản ánh một vấn đề là đa số đội ngũ điều dưỡng mới được đào tạo ở trình độ sơ cấp và trung cấp, số điều dưỡng có trình độ từ đại học trở lên chỉ chiếm tỷ lệ hơn 10%. Đây là một bất cập mà ngành y tế cần xem xét tạo điều kiện để các cán bộ điều dưỡng học tập nâng cao trình độ chuyên môn để người bệnh được điều trị một cách tốt nhất. Bảng 2: Điều dưỡng phân theo trình độ chuyên môn 2015 2016 2017 Sau đại học 51 69 89 Đại học 1005 1463 2030 Cao đẳng 101 194 287 Trung cấp 8923 9459 9816 Sơ cấp 492 411 338 (Nguồn: Tổng hợp từ số liệu của Sở Y tế TP.HCM) Qua phân tích số liệu trên ta thấy chất lượng đội ngũ bác sỹ và điều dưỡng tuy đã được nâng cao nhưng vẫn còn chưa hợp lý. Số cán bộ y tế có trình độ cao, chuyên môn sâu chưa nhiều. Số bác sỹ có trình độ tiến sỹ, chuyên khoa 2 và số điều dưỡng có trình độ từ đại học trở lên chỉ chiếm tỷ lệ hơn 10% Thứ hai: Phân bổ nguồn nhân lực y tế còn nhiều hạn chế. Tp.HCM là một thành phố lớn, đông dân cư, nhiều cơ sở khám chữa bệnh ở khắp các tuyến xã, huyện, tỉnh ( thành phố). Những y tế cơ sở tuyến dưới có vai trò quan trọng, được coi là những “gác cổng” của hệ thống y tế, chĕm sóc sức khỏe ban đầu, là nơi người dân được khám bệnh với chi phí thấp. Chúng ta không thể phủ nhận được vai trò quan trọng của y tế tuyến cơ sở, nhưng ở Tp.HCM, nhân lực cho tuyến cơ sở, nhất là vùng xa vẫn chưa thực sự đầy đủ. Dù ngành y tế đã phân công, bố trí bác sĩ tốt nghiệp về công tác tại tuyến cơ sở và tổ chức học chuyên khoa, học định hướng, tuy nhiên, một số nơi như Cần Giờ, Củ Chi vẫn chưa thu hút được cán bộ y tế tham gia. Chính sách hỗ trợ cũng đã được UBNDTP ban hành và triển khai áp dụng trong nhiều nĕm nay, tuy nhiên, đời sống kinh tế khó khĕn, khiến việc hỗ trợ như hiện nay chưa thật sự khuyến khích được cán bộ y tế về công tác ở các vùng xa, vùng khó khĕn. Điều này cũng là một trong những nguyên nhân người dân lên tuyến trên khám chữa bệnh, dù chỉ là những bệnh bình thường đã làm cho các bệnh viện tuyến trên luôn đối mặt với tình trạng quá tải, đồng thời gây mất thời gian và cũng có thể khiến việc lây chéo các bệnh ngày càng nhiều. Theo khảo sát của Bộ Y tế, Tp.HCM là một trong ba thành phố trong cả nước có đầy đủ bác sỹ tại các trạm y tế. Tuy nhiên, số lượng bác sỹ, kỹ thuật viên và điều dưỡng phần lớn vẫn tập trung nhiều ở tuyến tỉnh ( thành phố), tập trung làm việc ở nơi dân cư đông đúc, điều kiện làm việc tốt, mức sống cao. Ngược lại, ở các tuyến xã, tuyến huyện lại thu hút lực lượng chuyên môn chủ yếu là các y sỹ. Điều này được chứng minh ở bảng 3, nĕm 2016 số bác sỹ tuyến xã và tuyến huyện là 1.922 người ( chiếm 30,35%), 120 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật trong đó số bác sỹ tuyến tỉnh là 4.409 người (chiếm 69,66%) còn số y sỹ tuyến xã và tuyến huyện là 1.403 người ( chiếm 77,60%) và số y sỹ tuyến tỉnh là 405 người ( chiếm 22,40%). Số bác sỹ ở tuyến xã, tuyến huyện chiếm tỷ lệ thấp cũng được thể hiện trong nĕm 2017, số bác sỹ tuyến xã và tuyến huyện là 1.958 người ( chiếm 29,78%), trong đó số bác sỹ tuyến tỉnh là 4.617 người (chiếm 70,22%) còn số y sỹ tuyến xã và tuyến huyện là 1.293 người ( chiếm 76,06%) và số y sỹ tuyến tỉnh là 407 người ( chiếm 23,94%). Bảng 3. Cơ cấu nhân lực y tế phân theo tuyến Chỉ tiêu 2016 2017 Tro ng đó Tuyến xã Tuyến huyện Tuyến tỉnh Tuyến xã Tuyến huyện Tuyến tỉnh Bác sỹ 425 1497 4409 330 1628 4617 Y sỹ 686 717 405 607 686 407 Điều dưỡng 622 2306 8767 597 2469 9494 Kỹ thuật viên 162 400 1543 9 403 1710 Y tế công cộng 80 58 70 2 64 91 Hộ sinh 411 346 1389 345 364 1524 Dược sỹ đại học 150 121 254 1 131 291 Dược sỹ cao đẳng 5 20 32 12 35 51 Dược sỹ trung cấp + KTV trung cấp dược 250 545 831 287 568 929 Dược tá 20 44 84 18 40 65 Lương y 0 3 6 0 2 0 Ngành hóa học 0 20 87 2 21 56 Ngành sinh học 2 60 345 2 68 157 Cán bộ đào tạo chuyên ngành dân số 0 17 0 0 18 3 Cán bộ khác 173 1451 4869 54 1525 5163 Tổng số 32970 34927 (Nguồn: Sở Y tế Tp.HCM) Thứ ba: Đầu tư cở sở vật chất, trang thiết bị khám chữa bệnh không đồng đều, nên việc phát hiện ra bệnh, chẩn đoán bệnh của các bác sỹ còn có nhiều hạn chế chưa tạo được lòng tin đối với người bệnh vì thế người dân ngày càng có xu hướng tập trung đến các bệnh viện lớn, chuyên sâu. Công tác đầu tư cơ sở vật chất và đầu tư trang thiết bị y tế tuy đã có nhiều cố gắng áp dụng nhiều biện pháp nhằm giảm quá tải, tuy nhiên, chưa đáp ứng được nhu cầu của người bệnh do các bệnh viện vẫn đảm nhận phục vụ cho bệnh nhân từ các tỉnh. Do mặt bằng về y tế không đồng đều, đầu tư cho y tế, cơ sở vật chất, trang thiết bị khám chữa bệnh, khả nĕng đáp ứng nhu cầu người bệnh, từ máy móc kỹ thuật, dịch vụ đến nguồn nhân lựccủa các bệnh viện rất khác nhau, nhất là giữa các tuyến bệnh viện. Đa số các bệnh viện tuyến dưới còn sử dụng những thiết bị máy móc cũ kỹ, lạc hậu chưa hiện đại. Do quy định của các vĕn bản pháp lý với một khung pháp lý chung cho nông thôn và thành thị, nên ở thành phố mỗi quận huyện phải thành lập 1 bệnh viện. Thành phố Hồ Chí Minh có 23 bệnh viện Quận/ Huyện. Có những quận như quận 5, quận 3 mặt bằng chật hẹp, kinh phí đầu tư có hạn. Vì vậy các bệnh viện quận, huyện rất khó xây dựng thương hiệu vì chưa đủ điều kiện về cơ sở hạ tầng kỹ thuật, máy móc, thiết bị chủ yếu là loại III, đội ngũ Y bác sĩ không chuyên sâu như ở các bệnh viện tuyến trên. Thứ tư: Chế đãi ngộ chưa được chú trọng đúng mức cộng thêm với áp lực công việc trước tình trạng quá tải ở bệnh viện nên đối với một số cán bộ y tế còn thiếu niềm nở khi làm việc, 121 Một số yêu cầu đặt ra... tiếp xúc với bệnh nhân, chưa thật sự thông cảm, chia sẻ, còn cáu gắt với bệnh nhân và gia đình; ít quan tâm chĕm sóc, động viên tinh thần người bệnh, mới chỉ quan tâm đến những kỹ thuật điều trị cơ bản. Thứ nĕm: Chế độ, chính sách đối với cán bộ y tế còn bất hợp lý, mức lương khởi điểm chưa tương xứng với thời gian đào tạo; thầy thuốc chưa được hưởng phụ cấp thâm niên nghề; chưa có chính sách để thu hút những thầy thuốc có trình độ chuyên môn cao, tay nghề giỏi làm việc lâu dài tại y tế tuyến cơ sở. 2.2. Những yêu cầu đặt ra đối với nguồn nhân lực y tế Thành phố Hồ Chí Minh Tĕng cường mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là xu hướng tất yếu của các quốc gia trên thế giới. Mối quan hệ này không chỉ đem lại lợi ích cho nước sở tại mà còn đem lại lợi ích nhiều mặt cho các nước tham gia. Xu hướng hội nhập quốc tế về lao động trong lĩnh vực y tế có tác động ảnh hưởng lớn tới nguồn nhân lực y tế. Trước thực trạng nguồn nhân lực y tế Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay để đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh chất lượng cao của người dân trong bối cảnh đã đặt ra những yêu cầu sau: Thứ nhất: cần có chiến lược phát triển nguồn nhân lực y tế có chuyên môn giỏi ở một số chuyên ngành mũi nhọn. Nguồn nhân lực y tế phải được phải thường xuyên trau dồi kiến thức và tĕng cường thực hành đảm bảo đầy đủ nĕng lực hành nghề đáp ứng Bộ Chuẩn nĕng lực cơ bản đối với từng vị trí việc làm. Ở Việt Nam nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng phải coi đào tạo đội ngũ nhân lực y tế có chất lượng cao, xây dựng đội ngũ y, bác sỹ giỏi về chuyên môn, có đạo đức nghề nghiệp là một nhiệm vụ thiết thực, một tiêu chí hàng đầu của ngành y tế. Làm được điều này sẽ giúp cho ngành y tế Thành phố Hồ Chí Minh phát triển ngày càng sâu rộng, người dân sẽ được đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh tốt nhất, sẽ được hưởng dịch vụ y tế có chất lượng tốt nhất ngay trên đất nước của mình mà không cần phải khó khĕn, vất vả đi tìm kiếm dịch vụ y tế ở các nước khác, vừa tốn kém thời gian, tiền bạc, công sức. Không những vậy, chúng ta còn thu hút được bệnh nhân ở các nước bạn trong khu vực đến khám chữa bệnh. Đây cũng là cách thức để quảng bá hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế. Thứ hai, khi hội nhập quốc tế giữa các nước ngày càng sâu rộng sẽ có nhiều hình thức liên kết hợp tác trong lĩnh vực y tế : Các dịch vụ được cung cấp từ quốc gia này sang quốc gia khác. Ví dụ, bác sỹ Malaixia có thể chẩn đoán từ xa cho bệnh nhân ở Tp.HCM. Các dịch vụ được cung cấp trong lãnh thổ của một quốc gia cho người sử dụng đến từ một quốc gia như người bệnh Campuchia sang Tp.HCM điều trị. Để có thể giao tiếp tốt trong quá trình điều trị, phục vụ bệnh nhân đạt kết quả cao thì ngoài chuyên môn giỏi vấn đề ngoại ngữ cũng khá quan trọng. Tiếng Anh là ngôn ngữ phổ biến để giao tiếp, trao đổi giữa các quốc gia trong mối quan hệ hợp tác giữa các nước. Nếu không có các bước chuẩn bị kịp thời và hợp lý về ngôn ngữ quốc tế này thì Việt Nam sẽ có thể gặp rất nhiều thách thức phía trước. Bên cạnh đó sự chuẩn bị kiến thức, kỹ nĕng; thái độ và tâm lý để sẵn sàng di chuyển sang làm việc tại nước ngoài của lao động Việt Nam chưa cao và đây cũng là một hạn chế của mà nhân lực tế cần phải khắc phục nếu muốn hội nhập sâu và rộng. Thứ ba: đội ngũ y, bác sỹ cần phải chú trọng việc trang bị kỹ nĕng công nghệ thông tin. Khi hội nhập ngày càng sâu rộng, tính cạnh tranh trong thị trường nhân lực y tế sẽ rất cao. Những thành tựu nghiên cứu khoa học trên thế giới, những thiết bị hiện đại được áp dụng vào y tế trong nước ngày càng nhiều. Đối với đội ngũ nhân viên y tế có chất lượng cao, sử dụng thành thạo công nghệ thông tin, trang bị tốt nĕng lực hội nhập sẽ có nhiều cơ hội làm việc trong các cơ sở y tế có tiêu chuẩn quốc tế. Ngược lại, những ai chưa trang bị cho mình những nĕng lực và kỹ nĕng cần thiết sẽ dần bị đưa ra khỏi cuộc chơi. 122 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Thứ tư: Thu hút được đội ngũ cán bộ y tế giỏi ở các cơ sở khám chữa bệnh tuyến cơ sở. Mạng lưới y tế cơ sở có vai trò và vị trí quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe và tính mạng của cộng đồng dân cư song để người dân tin tưởng giao tính mạng của mình cho đội ngũ cán bộ y tế cơ sở thì đòi hỏi chúng ta phải tuyển chọn được các bác sỹ có chuyên môn giỏi, có lòng yêu nghề, yên tâm công tác tại các cơ sở y tế khám chữa bệnh ban đầu. Bên cạnh đó cần thực hiện đãi ngộ tương xứng đối với cán bộ y tế, có chính sách đủ mạnh để khuyến khích người có trình độ chuyên môn làm việc tại y tế cơ sở, các vùng sâu, vùng xa, vùng khó khĕn. 3. KẾT LUẬN Hội nhập quốc tế là một xu thế cần hướng tới trong sự giao lưu, hợp tác của các nước trên thế giới, nó tác động đến mọi mặt kinh tế, vĕn hóa, xã hội... Xu hướng này đã tạo ra những điều kiện để thu nhận tri thức, khoa học công nghệ của thế giới cho sự phát triển của một quốc gia. Sau hơn 30 nĕm Đổi mới, kinh tế Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng và gắn kết chặt chẽ với các nước trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam là một trong các thành viên của Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC ), Tổ chức thương mại thế giới (WTO) , tham gia vào CPTPP, các định chế quốc tế sẽ thúc đẩy dòng chu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, công nghệ và lao động, nhất là lao động có kỹ nĕng có cơ hội di chuyển trong thị trường lao động của khối AEC Để đáp ứng xu hướng hội nhập quốc tế, mỗi quốc gia, mỗi lĩnh vực của đời sống xã hội đều phải đặt ra những yêu cầu và thực hiện những yêu cầu đó một cách nghiêm ngặt thì xã hội mới phát triển. Trong khuôn khổ bài nghiên cứu này, tác giả đi sâu phân tích những yêu cầu đặt ra đối với sự phát triển nguồn nhân lực y tế trong xu hướng mở rộng quan hệ quốc tế. Đó là: nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ ngoại ngữ, trang bị kỹ nĕng công nghệ thông tin cho đội ngũ y, bác sỹ trước sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 để chúng ta nhanh chóng tiếp cận với nền y tế hiện đại, có khả nĕng nhận chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực y học mới làm cho nhu cầu chĕm sóc sức khỏe của người ngày càng được phục vụ một cách tốt nhất. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Huy Chương, 2018. Tp.HCM: Trong nĕm 2018: ngành y tế phải đáp ứng nhu cầu của người bệnh, minh-trong-nam-2018-nganh-y-te-phai-dap- su-hai-long-cua-nguoi-benh-311301.html, ngày truy cập 19/2/2019. 2. Đảng Cộng Sản Việt Nam, 2011,Vĕn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 3. Huy Tuấn, 2012. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực y tế đáp ứng yêu cầu về chĕm sóc sức khỏe nhân dân, org.vn/Home/PrintStory.aspx?distribution=4 3981&print=true, ngày truy cập 20/1/2018. 4. Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh, Dự thảo Quy hoạch phát triển Ngành Y tế Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2010 – 2020 và tầm nhìn đến 2025. 5. Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh, Báo cáo - Tình hình hoạt động Ngành Y tế Thành phố nĕm 2016 và phương hướng hoạt động nĕm 2017. 6. Viện Khoa học pháp lý và kinh doanh quốc tế, (2009) Báo cáo đánh giá hiện trạng Hệ thống tổ chức ngành Y tế TP. Hồ Chí Minh.
File đính kèm:
mot_so_yeu_cau_dat_ra_doi_voi_nguon_nhan_luc_y_te_thanh_pho.pdf

