Một số vấn đề về quyền yêu cầu, quyền kiến nghị của viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự

Với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong toàn bộ quá

trình tố tụng dân sự, bảo đảm việc ban hành bản án, quyết định của Toà án

khách quan, đúng pháp luật, nhiệm vụ của Viện kiểm sát là phải áp dụng

các biện pháp cần thiết để khắc phục những thiếu sót, vi phạm pháp luật

trong bản án, quyết định dân sự của Tòa án, đó là sử dụng quyền yêu cầu,

quyền kiến nghị. Trong đó, quyền yêu cầu, quyền kiến nghị của Viện kiểm

sát là một phương thức, một biện pháp để thực hiện chức năng kiểm sát việc

tuân theo pháp luật nhằm đảm bảo cho pháp luật được tuân thủ và thi hành

thống nhất. Bài viết tập trung nghiên cứu những vấn đề pháp lý, quy định

của pháp luật về các quyền yêu cầu, quyền kiến nghị thông qua phân tích

những tiêu chí để nhận diện và phân biệt những điểm khác biệt để Kiểm sát

viên có thể nắm được và sử dụng phù hợp, đạt hiệu quả cao.

pdf 7 trang phuongnguyen 4920
Bạn đang xem tài liệu "Một số vấn đề về quyền yêu cầu, quyền kiến nghị của viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số vấn đề về quyền yêu cầu, quyền kiến nghị của viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự

Một số vấn đề về quyền yêu cầu, quyền kiến nghị của viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự
3Số 06 - 2018 Khoa học Kiểm sát
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUYỀN YÊU CẦU, QUYỀN KIẾN NGHỊ 
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
VŨ THỊ HỒNG VÂN * 
Với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong toàn bộ quá 
trình tố tụng dân sự, bảo đảm việc ban hành bản án, quyết định của Toà án 
khách quan, đúng pháp luật, nhiệm vụ của Viện kiểm sát là phải áp dụng 
các biện pháp cần thiết để khắc phục những thiếu sót, vi phạm pháp luật 
trong bản án, quyết định dân sự của Tòa án, đó là sử dụng quyền yêu cầu, 
quyền kiến nghị. Trong đó, quyền yêu cầu, quyền kiến nghị của Viện kiểm 
sát là một phương thức, một biện pháp để thực hiện chức năng kiểm sát việc 
tuân theo pháp luật nhằm đảm bảo cho pháp luật được tuân thủ và thi hành 
thống nhất. Bài viết tập trung nghiên cứu những vấn đề pháp lý, quy định 
của pháp luật về các quyền yêu cầu, quyền kiến nghị thông qua phân tích 
những tiêu chí để nhận diện và phân biệt những điểm khác biệt để Kiểm sát 
viên có thể nắm được và sử dụng phù hợp, đạt hiệu quả cao.
Từ khóa: Quyền yêu cầu, quyền kiến nghị, Viện kiểm sát nhân dân, tố 
tụng dân sự.
With the functions of prosecuting the law observance in the whole 
civil proceedings and ensuring the objectivity and lawfulness of the 
Courts’ judgments issuance, the missions of People’s Procuracies is to 
apply necessary measures to resolve legal shortcomings and violations 
in the Courts’ judgments and decisions. These are right to request and 
right to protests of People’s Procuracies which are measures to perform 
the functions of prosecuting the law observance so that laws are unified 
complied and implemented. The paper studies some legal matters and 
regulations on right to require and right to protests by analyzing criteria 
for identification and distinction different points, thereby, the Prosecutors 
are able to understand and apply these rights appropriately and effectively.
Keywords: Right to request, right to protests, the People’s Procuracies, 
civil proceedings.
Trên cơ sở nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) trong tố tụng dân sự được quy định 
trong Hiến pháp năm 2013, Điều 2 Luật Tổ 
chức VKSND năm 2014, Điều 21 Bộ luật tố 
tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 đã cụ thể 
hóa và khẳng định: Viện kiểm sát nhân 
dân có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và 
pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền 
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, 
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi 
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp 
phần bảo đảm pháp luật được chấp hành 
nghiêm chỉnh và thống nhất. Mục đích 
của hoạt động kiểm sát việc giải quyết các 
vụ án dân sự kinh tế, hành chính, lao động 
là nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc 
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, 
thương mại, lao động và các hoạt động tư 
pháp khác được thực hiện đúng quy định 
của pháp luật; Bản án, quyết định của Tòa 
án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi 
* Phó giáo sư, Tiến sĩ, Phó Hiệu trưởng Trường Đại 
học Kiểm sát Hà Nội
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUYỀN YÊU CẦU, QUYỀN KIẾN NGHỊ...
4 Khoa học Kiểm sát Số 06 - 2018
hành nghiêm chỉnh; Mọi vi phạm pháp 
luật trong hoạt động tư pháp phải được 
phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh. 
Để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn 
của mình, VKSND phải sử dụng những 
phương thức nhất định: Phương thức thực 
hiện quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị 
tham gia phiên tòa và xác minh, thu thập 
tài liệu, chứng cứ... Trong các phương thức 
đó, phương thức thực hiện quyền yêu cầu, 
quyền kiến nghị là những phương thức 
quan trọng và được thực hiện thường 
xuyên, vì vậy, việc nhận thức đầy đủ và 
phân biệt những dấu hiệu pháp lý cơ bản 
của những phương thức này có ý nghĩa 
quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn. 
1. Nhận thức chung về quyền yêu 
cầu, quyền kiến nghị 
a) Quyền yêu cầu
Dưới góc độ ngôn ngữ học, thuật ngữ 
“yêu cầu” là “nêu ra điều gì với người nào 
đó, tỏ ý muốn người ấy làm, biết rằng đó 
là việc thuộc nhiệm vụ, trách nhiệm hoặc 
quyền hạn, khả năng của người ấy”. 
Ở góc độ pháp lý, quyền yêu cầu là quyền 
năng quan trọng mà luật trao cho Viện kiểm 
sát để thực hiện việc kiểm sát việc tuân theo 
pháp luật trong tố tụng dân sự, theo đó, trong 
quá trình kiểm sát giải quyết các vụ việc dân 
sự, Viện kiểm sát thực hiện quyền yêu cầu cơ 
quan, tổ chức, cá nhân: thực hiện hoạt động 
tư pháp theo đúng quy định của pháp luật, 
tự kiểm tra việc tiến hành hoạt động tư pháp 
thuộc thẩm quyền và thông báo kết quả cho 
Viện kiểm sát nhân dân, cung cấp hồ sơ, 
tài liệu để Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát 
tính hợp pháp của các hành vi, quyết định 
trong hoạt động tư pháp; yêu cầu, kiến nghị 
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khắc 
phục, xử lý nghiêm minh vi phạm pháp luật 
trong hoạt động tư pháp (Điểm a, c Khoản 3 
Điều 4 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 
năm 2014). Quyền yêu cầu của Viện kiểm sát 
được pháp luật quy định là một quyền mà 
Viện kiểm sát được sử dụng để kiểm sát việc 
tuân theo pháp luật trong giải quyết vụ việc 
dân sự có hiệu quả, đảm bảo thời hạn, thời 
hiệu tố tụng... 
b) Quyền kiến nghị
Dưới góc độ ngôn ngữ học, thuật ngữ 
“kiến nghị” được hiểu là: “Nêu ý kiến đề 
nghị về một việc chung để cơ quan có thẩm 
quyền xét và giải quyết”. Trong khoa học 
luật tố tụng, kiến nghị là việc cơ quan, cá 
nhân, tổ chức đề nghị với các cơ quan tiến 
hành tố tụng khắc phục những vi phạm 
và thực hiện đúng những quy định của 
pháp luật tố tụng Dưới góc độ khoa học 
kiểm sát, kiến nghị là quyền năng, là biện 
pháp pháp lý quan trọng của Viện kiểm 
sát nhân dân khi thực hiện chức năng thực 
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động 
tư pháp, góp phần đảm bảo cho pháp luật 
được thi hành nghiêm chỉnh, thống nhất.
 Để thực hiện tốt chức năng thực 
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động 
tư pháp, Hiến pháp năm 2013 và Luật 
Tổ chức VKSND năm 2014 đã quy định 
quyền kiến nghị của VKSND, theo đó, 
quyền kiến nghị được VKSND thực hiện 
khi phát hiện hành vi, quyết định của cơ 
quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động 
tư pháp có vi phạm pháp luật ít nghiêm 
trọng không thuộc trường hợp kháng 
nghị (Khoản 2 Điều 5 Luật Tổ chức Viện 
kiểm sát nhân dân năm 2014). 
Quyền kiến nghị của VKSND đã được 
cụ thể hoá tại BLTTDS năm 2015 nên đã 
tạo điều kiện thuận lợi cho VKSND hoàn 
thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao, 
tạo niềm tin cho Đảng, Nhà nước và nhân 
dân, xứng là địa chỉ đáng tin cậy cho nhân 
dân trong hoạt động tư pháp.
2. Tiêu chí phân biệt quyền yêu cầu, 
quyền kiến nghị 
a) Về đối tượng của quyền yêu cầu, 
quyền kiến nghị 
Theo Điểm a, c Khoản 3 Điều 4 Luật Tổ 
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, đối 
tượng của quyền yêu cầu trong kiểm sát hoạt 
động tư pháp gồm các hành vi của cơ quan, tổ 
chức, cá nhân trong việc thực hiện hoạt động tư 
VŨ THỊ HỒNG VÂN
5Số 06 - 2018 Khoa học Kiểm sát
pháp. Theo quy định của BLTTDS năm 2015, 
đối tượng của quyền yêu cầu trong tố tụng 
dân sự là các hành vi tố tụng của Tòa án, 
của người tiến hành tố tụng trong Tòa án; 
hành vi thực hiện pháp luật của các chủ thể 
tham gia tố tụng dân sự. 
Khác với quyền yêu cầu, đối tượng của 
quyền kiến nghị rất rộng, gồm không chỉ là 
các hành vi mà còn bao gồm cả các văn bản tố 
tụng. Theo quy định của BLTTDS năm 2015, 
đối tượng của quyền kiến nghị bao gồm: 
- Các hành vi của Tòa án, của người 
tiến hành tố tụng trong Tòa án và các chủ 
thể tham gia tố tụng dân sự;
- Các văn bản tố tụng của Tòa án là 
đối tượng quyền kiến nghị gồm: 
+ Các bản án dân sự của Tòa án, gồm 
bản án sơ thẩm quy định tại Điều 268, 269 
BLTTDS năm 2015; bản án phúc thẩm quy 
định tại Điều 315 BLTTDS năm 2015.
+ Quyết định dân sự của Tòa án, 
BLTTDS năm 2015 xác định các quyết định 
gồm: Quyết định chuyển vụ việc dân sự cho 
Tòa án khác (Điều 41); Quyết định nhập hoặc 
tách vụ án (Khoản 3 Điều 42); Quyết định áp 
dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp 
tạm thời (Khoản 2 Điều 139); Quyết định giữ 
nguyên việc trả lại đơn khởi kiện hoặc quyết 
định yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm nhận lại 
đơn khởi kiện (Điều 194); Quyết định tạm 
đình chỉ xét xử sơ thẩm (Điều 214); Quyết 
định đình chỉ xét xử sơ thẩm (Điều 217); 
Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm 
(Điều 220); Quyết định hoãn phiên tòa sơ 
thẩm (Điều 233); Quyết định tạm đình chỉ 
xét xử phúc thẩm (Điều 288); Quyết định 
đình chỉ xét xử phúc thẩm (Điều 289); Quyết 
định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm (Điều 
290); Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm 
(Điều 296); Quyết định đưa vụ án ra xét xử 
theo thủ tục rút gọn (Điều 318)
+ Văn bản trả lại đơn khởi kiện, đơn 
yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự (Điều 
194, 364 BLTTDS năm 2015); 
+ Thông báo thụ lý vụ việc dân sự 
(Điều 196, 365 BLTTDS năm 2015)
b) Hình thức thực hiện quyền yêu cầu, 
quyền kiến nghị 
Pháp luật hiện hành không quy định cụ 
thể về hình thức yêu cầu và kiến nghị, song 
với quy định về đối tượng của quyền yêu cầu 
và quyền kiến nghị như đã phân tích trên, 
hình thức thực hiện quyền yêu cầu và quyền 
kiến nghị của Viện kiểm sát cần đa dạng, 
linh hoạt để vừa đảm bảo tính pháp lý vừa 
phù hợp với mỗi đối tượng cụ thể. Vì vậy, 
về nguyên tắc, quyền yêu cầu, quyền kiến 
nghị phải thực hiện bằng văn bản song cũng 
có thể thực hiện bằng lời nói. Trong những 
trường hợp nhất định sau phiên tòa, phiên 
họp giải quyết các vụ việc dân sự, Kiểm sát 
viên có quyền yêu cầu sửa đổi, bổ sung biên 
bản phiên tòa, phiên họp theo Khoản 4 Điều 
236 BLTTDS năm 2015, quyền yêu cầu trong 
trường hợp này có thể thực hiện bằng lời nói 
hoặc tại phiên tòa, Kiểm sát viên (KSV) phát 
hiện Thẩm phán chủ tọa phiên tòa vi phạm 
về điều khiển việc hỏi (hỏi không đúng thứ 
tự) thì KSV sẽ yêu cầu (bằng lời nói) Thẩm 
phán phải khắc phục ngay vi phạm.
Trường hợp yêu cầu bằng văn bản thì 
phải tuân theo các quy định về hình thức 
tại Quyết định số 204/QĐ-VKSTC ngày 
01/6/2017 của Viện trưởng VKSND tối cao 
về việc ban hành 185 mẫu văn bản tố tụng, 
nghiệp vụ tạm thời trong lĩnh vực kiểm sát 
hoạt động tư pháp (gọi chung là Quyết định 
số 204/QĐ-VKSTC), mẫu 08-DS và 36-DS.
Quyền kiến nghị, đối với các vi 
phạm trong việc ban hành quyết định tố 
tụng của Tòa án, trong trường hợp này, 
Viện kiểm sát thường thực hiện kiến 
nghị bằng văn bản, qua những phương 
thức sau: kiến nghị trực tiếp đối với một 
vi phạm cụ thể; tập hợp nhiều vi phạm 
để ban hành kiến nghị yêu cầu Tòa án, 
các chủ thể tham gia tố tụng khắc phục 
vi phạm. Tuy nhiên, khác với văn bản 
được BLTTDS năm 2015 quy định về 
hình thức và nội dung rất cụ thể; văn 
bản kiến nghị không được luật quy định 
rõ nội dung, nhưng đã được Viện kiểm 
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUYỀN YÊU CẦU, QUYỀN KIẾN NGHỊ...
6 Khoa học Kiểm sát Số 06 - 2018
sát tối cao hướng dẫn thực hiện theo 
Mẫu 10-DS và 20-DS ban hành kèm theo 
Quyết định số 204/QĐ-VKSTC.
c) Căn cứ thực hiện quyền yêu cầu, 
quyền kiến nghị 
Về căn cứ thực hiện quyền yêu cầu
Trên cơ sở quy định của pháp luật về 
nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ 
chức, cá nhân trong việc thực hiện các hoạt 
động tư pháp, Viện kiểm sát có quyền yêu 
cầu các chủ thể đó thực hiện đúng những 
hoạt động tư pháp theo quy định của pháp 
luật. Trong tố tụng dân sự, khi Tòa án, người 
tiến hành tố tụng của Tòa án và chủ thể tham 
gia tố tụng thực hiện không đúng, không 
đầy đủ hoặc chưa thực hiện hoặc không thực 
hiện nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật 
quy định thì Viện kiểm sát có quyền yêu cầu 
các chủ thể phải nghiêm chỉnh thực hiện theo 
quy định của pháp luật. Như vậy, quyền yêu 
cầu có thể được VKS thực hiện trong trường 
hợp không có vi phạm, theo quy định của 
BLTTDS năm 2015, Viện kiểm sát được thực 
hiện quyền yêu cầu trong những trường hợp 
sau: Yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng 
cứ trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự 
(Khoản 3 Điều 58); Yêu cầu Tòa án cùng cấp 
và cấp dưới chuyển hồ sơ vụ việc dân sự 
cho Viện kiểm sát; Yêu cầu Tòa án thực hiện 
đúng các hoạt động tố tụng theo quy định tại 
Khoản 6 Điều 58; Yêu cầu Tòa án sao chụp 
bản sao đơn khởi kiện, đơn yêu cầu và tài 
liệu chứng cứ liên quan đến việc trả lại đơn 
khởi kiện, đơn yêu cầu; yêu cầu sửa đổi, bổ 
sung biên bản phiên tòa, phiên họp); Yêu 
cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, 
lưu giữ cung cấp tài liệu, chứng cứ theo quy 
định tại Khoản 4 Điều 106; Yêu cầu hoãn thi 
hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp 
luật của Toà án theo Khoản 1 Điều 332; Yêu 
cầu người gửi đơn đề nghị xem xét bản án, 
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp 
luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm sửa 
đổi, bổ sung theo Khoản 2 Điều 329, Điều 
357; Yêu cầu Tòa án, cơ quan khác, tổ chức, 
cá nhân cung cấp hồ sơ, tài liệu về việc giải 
quyết khiếu nại tố cáo theo quy định tại Điều 
515; Yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền 
xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng 
vi phạm pháp luật theo Khoản 8 Điều 58
Về căn cứ thực hiện quyền kiến nghị
Căn cứ chung để VKS thực hiện quyền 
kiến nghị là khi phát hiện hành vi, quyết 
định của Tòa án, người tiến hành tố tụng 
của Tòa án và các chủ thể tham gia tố tụng 
có vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng, 
không xâm phạm quyền con người, quyền 
công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và 
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì 
VKS thực hiện quyền kiến nghị (Khoản 2 
Điều 5 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân 
dân năm 2014), ngoài ra, BLTTDS năm 2015 
quy định cụ thể các trường hợp kiến nghị, 
ví dụ kiến nghị về văn bản trả lại đơn khởi 
kiện, đơn yêu cầu theo Điều 194l; kiến nghị 
về việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện 
pháp khẩn cấp tạm thời theo Điều 141... 
Riêng kiến nghị theo thủ tục đặc biệt, 
Khoản 1 Điều 358 BLTTDS năm 2015 quy 
định Viện kiểm sát nhân dân có quyền 
kiến nghị xem xét lại quyết định của Hội 
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao 
theo những căn cứ sau: Có vi phạm pháp 
luật nghiêm trọng; Phát hiện tình tiết quan 
trọng mới có thể làm thay đổi cơ bản nội 
dung quyết định mà Hội đồng Thẩm phán 
Tòa án nhân dân tối cao, đương sự đã 
không thể biết được khi ra quyết định đó.
 d) Thẩm quyền thực hiện quyền yêu 
cầu, quyền kiến nghị
- Tùy theo đặc điểm, tính chất và yêu 
cầu mà mỗi hành vi tố tụng cần có thẩm 
quyền thực hiện quyền yêu cầu khác nhau, 
về nguyên tắc, thẩm quyền thực hiện yêu 
cầu thuộc về Viện trưởng Viện kiểm sát và 
Kiểm sát viên. Song, pháp luật hiện hành 
không quy định cụ thể những trường 
hợp Viện trưởng Viện kiểm sát thực hiện 
quyền yêu cầu mà chỉ quy định chung 
Viện trưởng có quyền yêu cầu theo quy 
định của Điểm đ Khoản 1 Điều 57 BLTTDS 
năm 2015, các điều luật khác chỉ quy định 
VŨ THỊ HỒNG VÂN
7Số 06 - 2018 Khoa học Kiểm sát
quyền yêu cầu thuộc về Viện kiểm sát; đối 
với Kiểm sát viên, ngoài thẩm quyền thực 
hiện quyền yêu cầu theo Khoản 6 Điều 58 
BLTTDS năm 2015 có nhiều điều luật quy 
định Kiểm sát viên có quyền yêu cầu. 
Do vậy, Khoản 1 Điều 20 Thông tư 
liên tịch số 02/2016/TTLT - VKSNDTC - 
TANDTC ngày 31/8/2016 của VKSNDTC và 
TANDTC quy định về việc phối hợp giữa 
VKSND và TAND trong việc thi hành một 
số quy định của BLTTDS năm 2015 (sau 
đây gọi là Thông tư liên tịch số 02/2016) quy 
định: Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định 
thực hiện các quyền yêu cầu nghị quy định 
tại BLTTDS và Thông tư liên tịch số 02/2016, 
nghĩa là Viện trưởng Viện kiểm sát có quyền 
nhân danh Viện kiểm sát và đồng thời cũng 
là Kiểm sát viên, nếu có thực hiện mọi quyền 
yêu cầu mà pháp luật quy định cho Viện 
kiểm sát và Kiểm sát viên; nhưng Kiểm sát 
viên chỉ được thực hiện những quyền yêu 
cầu mà luật trực tiếp quy định cho Kiểm sát 
viên và các trường hợp khác theo quy định 
tại Khoản 2 Điều 20 Thông tư liên tịch số 
02/2016 và do Viện trưởng ủy quyền.
- Tương tự như quyền yêu cầu, luật 
không quy định thẩm quyền kiến nghị 
cho mỗi chủ thể mà quy định theo hướng: 
Đối với Viện trưởng VKS, thực hiện quyền 
kiến nghị theo quy định tại Điểm d Khoản 
1 Điều 57 BLTTDS năm 2015; đối với Kiểm 
sát viên, thực hiện quyền kiến nghị theo 
Khoản 6 Điều 58 và các điều luật khác 
của BLTTDS năm 2015, ngoài ra, luật chỉ 
quy định là Viện kiểm sát có quyền kiến 
nghị. Do vậy, Điều 20 Thông tư liên tịch 
số 02/2016 đã hướng dẫn, theo đó: 
+Viện trưởng thực hiện các quyền 
kiến nghị quy định tại BLTTDS và Thông 
tư liên tịch số 02/2016. Riêng Viện trưởng 
Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền 
kiến nghị theo thủ tục đặc biệt (khoản 1 
Điều 358 BLTTDS năm 2015). 
+ Kiểm sát viên thực hiện những quyền 
kiến nghị trong những trường hợp sau:
• Kiến nghị quyết định áp dụng, thay 
đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời 
hoặc việc không áp dụng, thay đổi, hủy 
bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời tại phiên 
tòa theo Điều 140 BLTTDS năm 2015;
• Kiến nghị với Tòa án đã trả lại 
đơn khởi kiện, đơn yêu cầu với Tòa án 
đã trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu 
theo Khoản 1 Điều 194, Khoản 3 Điều 364 
BLTTDS năm 2015.
e) Về thời hạn thực hiện quyền yêu 
cầu, quyền kiến nghị
Về thời hạn thực hiện quyền yêu cầu 
được pháp luật quy định trong 1 trường hợp 
duy nhất theo Khoản 3, 4 Điều 106 BLTTDS, 
theo đó, trong 15 ngày kể từ ngày yêu cầu 
cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý lưu 
giữ tài liệu, chứng từ có trách nhiệm cung 
cấp đầy đủ tài liệu chứng cứ theo yêu cầu. 
Ngoài ra, người có thẩm quyền có thể thực 
hiện quyền yêu cầu khác trong thời hạn hợp 
lý. Đối với quyền kiến nghị, về cơ bản luật 
cũng không quy định về thời hạn thực hiện, 
trừ một số trường hợp sau:
- Thời hạn kiến nghị quyết định chuyển 
vụ việc dân sự cho Tòa án khác là 03 ngày 
làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định 
của Tòa án (Điều 41 BLTTDS năm 2015); 
- Thời hạn kiến nghị quyết định áp 
dụng, thay đổi, hủy bỏ quyết định áp 
dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời 
(Điều 141 BLTTDS năm 2015);
- Thời hạn kiến nghị quyết định trả lại 
đơn khởi kiện, đơn yêu cầu theo khoản 1, 
5, 7 Điều 194, Điều 364 BLTTDS năm 2015 
là 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được 
quyết định của Tòa án.
f) Hậu quả pháp lý của quyền yêu cầu, 
quyền kiến nghị 
Nhằm thực hiện quyền yêu cầu hiệu 
quả, Khoản 3, 4 Điều 106 BLTTDS năm 2015 
quy định: trường hợp Viện kiểm sát có yêu 
cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ thì cơ quan, 
tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ tài 
liệu, chứng cứ có trách nhiệm cung cấp đầy 
đủ tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa 
án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận 
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUYỀN YÊU CẦU, QUYỀN KIẾN NGHỊ...
8 Khoa học Kiểm sát Số 06 - 2018
được yêu cầu. Hết thời hạn này mà không 
cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo 
yêu cầu của Tòa án thì cơ quan, tổ chức, cá 
nhân được yêu cầu phải trả lời bằng văn 
bản và nêu rõ lý do. Cơ quan, tổ chức, cá 
nhân không thực hiện yêu cầu của Tòa án 
mà không có lý do chính đáng thì tùy theo 
tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử phạt 
hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình 
sự theo quy định của pháp luật. Việc xử 
phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm 
hình sự theo quy định của pháp luật đối 
với cơ quan, tổ chức, cá nhân không phải 
là lý do miễn nghĩa vụ cung cấp tài liệu, 
chứng cứ cho Tòa án. Ngoài ra, về cơ bản 
pháp luật không quy định hậu quả của việc 
thực hiện quyền yêu cầu, do vậy, đây là một 
khó khăn trong thực tiễn thi hành, vì nhiều 
trường hợp, Viện kiểm sát có yêu cầu nhưng 
không được các chủ thể thực hiện đúng quy 
định pháp luật cũng như đúng yêu cầu của 
VKS. Khó khăn nhất là quyền yêu cầu Tòa 
án chuyển hồ sơ vụ việc dân sự để thực hiện 
quyền phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
Về quyền kiến nghị, Luật Tổ chức 
VKSND năm 2014 quy định cụ thể về hậu 
quả pháp lý của quyền kiến nghị, theo đó, các 
cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách 
nhiệm nghiêm chỉnh chấp hành kiến nghị của 
VKSND, xem xét, giải quyết, trả lời kiến nghị 
của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của 
pháp luật. Việc xem xét, giải quyết phải trên 
cơ sở đảm bảo nguyên tắc là phải khắc phục vi 
phạm pháp luật, xử lý nghiêm minh người vi 
phạm pháp luật hoặc áp dụng các biện pháp 
phòng ngừa vi phạm pháp luật. 
Đối với quyền kiến nghị theo thủ tục 
đặc biệt, Điều 358 BLTTDS năm 2015 quy 
định hậu quả pháp lý của quyền kiến nghị 
là: trường hợp có kiến nghị của Viện trưởng 
Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì Chánh 
án Tòa án nhân dân tối cao có trách nhiệm 
báo cáo Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân 
dân tối cao xem xét kiến nghị đó. Bên cạnh 
đó, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân 
tối cao phải tổ chức phiên họp để xem xét 
kiến nghị của Viện trưởng VKSNDTC, 
phiên họp đó phải có sự tham dự và phát 
biểu ý kiến của Viện trưởng VKSNDTC.
3. Mối quan hệ giữa quyền yêu cầu 
và quyền kiến nghị 
Việc thực hiện có hiệu quả quyền yêu 
cầu bảo đảm cho việc áp dụng các phương 
thức kiểm sát khác đạt hiệu quả cao hơn, 
chất lượng kiểm sát tốt hơn, đặc biệt đối với 
quyền kiến nghị. Ở đây, quyền yêu cầu được 
xem như quyền song hành, xoay quanh và 
phục vụ, hỗ trợ cho các quyền khác và nhằm 
mục tiêu là nâng cao hiệu quả của việc áp 
dụng các phương thức kiểm sát. Quyền 
yêu cầu là cơ sở, căn cứ để thực hiện quyền 
kiến nghị, nếu không có quyền yêu cầu hoặc 
quyền yêu cầu thực hiện không hiệu quả 
thì Viện kiểm sát khó có thể thực hiện tốt 
quyền kiến nghị. Điều đó thể hiện tại Điều 
21 Thông tư liên tịch số 02/2016, theo đó, 
trường hợp Viện kiểm sát cần xem xét kiến 
nghị việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu 
hoặc sau khi nhận được thông báo mở phiên 
họp giải quyết khiếu nại về việc trả lại đơn 
khởi kiện, đơn yêu cầu thì Viện kiểm sát gửi 
văn bản yêu cầu Tòa án cho sao chụp một số 
hoặc toàn bộ bản sao đơn khởi kiện, đơn yêu 
cầu và tài liệu, chứng cứ Hoặc quy định 
về quyền yêu cầu xác minh, thu thập tài liệu, 
chứng cứ là quyền được thực hiện trong tất 
cả các giai đoạn, từ khi thụ lý đến khi kết 
thúc việc giải quyết vụ việc dân sự, thực hiện 
tốt quyền này giúp cho chất lượng việc ban 
hành kiến nghị của VKS được nâng lên.
Quyền yêu cầu là một trong những nội 
dung quan trọng trong khi thực hiện quyền 
kiến nghị, bởi vì, khi thực hiện quyền kiến 
nghị, VKS cũng có quyền yêu cầu Tòa án 
khắc phục vi phạm và thực hiện đúng quy 
định của pháp luật. Khi phát hiện tòa án vi 
phạm trong việc trả lại đơn khởi kiện, đơn 
yêu cầu VKS thực hiện quyền kiến nghị yêu 
cầu Tòa án khắc phục vi phạm Điều này 
thể hiện trong mẫu số 10-DS ban hành kèm 
theo Quyết định số 204/VKSTC, theo đó, 
Viện trưởng VKS có quyền yêu cầu Chánh 
VŨ THỊ HỒNG VÂN
9Số 06 - 2018 Khoa học Kiểm sát
án Tòa án có biện pháp chỉ đạo kiểm tra để 
khắc phục vi phạm và trả lời cho VKS biết 
kết quả thực hiện quyền kiến nghị của VKS.
4. Kiến nghị và kết luận
Trong thời gian qua, toàn Ngành đã 
chú trọng và xác định thực hiện hiệu quả 
quyền yêu cầu và quyền kiến nghị là thực 
hiện tốt chức năng của VKS, nâng cao chất 
lượng, hiệu quả công tác kiểm sát, từ đó đề 
cao vị trí, vai trò của VKS trong tố tụng dân 
sự. Các Kiểm sát viên, cán bộ trong khâu 
công tác này cũng không ngừng nỗ lực học 
tập, nghiên cứu, trau dồi kiến thức pháp 
luật và các kỹ năng nghiệp vụ trong lĩnh vực 
này để thực hiện tốt chức năng của Ngành. 
Thông qua việc thực hiện các quyền này, 
VKS các cấp đã kịp thời phát hiện nhiều tồn 
tại, vi phạm pháp luật của Tòa án.
Tuy nhiên, việc thực hiện quyền yêu 
cầu và quyền kiến nghị của VKS đã và đang 
gặp phải khó khăn, vướng mắc như: việc 
yêu cầu chuyển hồ sơ vụ việc dân sự của 
Tòa án để thực hiện quyền kháng nghị rất 
chậm, có vụ việc không chuyển hồ sơ hoặc 
yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ 
cũng thường bị Tòa án thực hiện chậm, 
không thực hiện dẫn đến việc không đầy 
đủ chứng cứ khi xét xử. Về thực hiện quyền 
kiến nghị, khó khăn khăn lớn nhất mà các 
cấp kiểm sát gặp phải là Tòa án không thực 
hiện nghiêm các quy định về việc xem xét, 
giải quyết kiến nghị và trả lời cho VKS kết 
quả thực hiện quyền kiến nghị
Nguyên nhân của khó khăn này là do 
BLTTDS và các văn bản hướng dẫn thi hành 
còn nhiều điểm bất cập, đặc biệt là không 
quy định cụ thể chế tài xử lý trong trường 
hợp Tòa án không thực hiện quyền yêu cầu, 
quyền kiến nghị của VKS; ngoài ra, do công 
tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, đánh giá, rút 
kinh nghiệm về thực hiện quyền yêu cầu, kiến 
nghị chưa được quan tâm đúng mức nên có 
lúc, có nơi chưa kịp thời, quyết liệt; lực lượng 
Kiểm sát viên, cán bộ còn thiếu và phải kiêm 
nhiệm nhiều công việc khác, một số Kiểm sát 
viên, Kiểm tra viên, cán bộ chưa phát huy hết 
tinh thần trách nhiệm; quan hệ công tác giữa 
VKS với Tòa án chưa dựa trên cơ sở chức năng 
của từng Ngành mà còn còn nể nang, ngại 
va chạm nên khi phát hiện vi phạm nhưng 
không tiến hành yêu cầu, kiến nghị, 
Để thực hiện có hiệu quả quyền yêu 
cầu và quyền kiến nghị trong tố tụng dân 
sự, bên cạnh kiến nghị tiếp tục hoàn thiện 
các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, 
cần sự tập trung chỉ đạo sát sao, kịp thời 
của các cấp Lãnh đạo Viện kiểm sát, đây là 
điều kiện tiên quyết, căn bản để thực hiện 
tốt chức năng, nhiệm vụ của Ngành Kiểm 
sát nhân dân. Bên cạnh đó, các địa phương, 
đơn vị trong toàn Ngành phải xác định tầm 
quan trọng của việc thực hiện quyền yêu 
cầu, quyền kiến nghị là nhằm thực hiện hiệu 
quả nhiệm vụ của VKS trong tố tụng dân sự 
để gắn với việc thực hiện chỉ tiêu thi đua 
hàng năm; Lãnh đạo phải thường xuyên 
theo dõi, đôn đốc Kiểm sát viên, cán bộ bám 
sát tiến độ để kịp thời trao đổi, yêu cầu, kiến 
nghị tòa án giải quyết kịp thời đúng pháp 
luật. Mặt khác, về tổ chức cán bộ, phải bố 
trí, sắp xếp cán bộ làm công tác kiểm sát dân 
sự đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng 
có tính ổn định, hợp lý và linh hoạt; tăng 
cường vai trò, trách nhiệm, nâng cao năng 
lực, trình độ nghiệp vụ của Kiểm sát viên 
để thực hiện tốt quyền yêu cầu, quyền kiến 
nghị của VKS trong tố tụng dân sự; có chế 
độ khen thưởng, động viên kịp thời đối 
với người làm tốt cũng như xử lý nghiêm 
minh những người vi phạm trong công tác 
kiểm sát dân sự. Ngoài ra, chú trọng tăng 
cường phối hợp giữa VKS cấp trên và VKS 
cấp dưới đặc biệt là việc hướng dẫn nghiệp 
vụ; tăng cường mối quan hệ phối hợp với 
Tòa án và một số cơ quan hữu quan để nâng 
cao hiệu quả thực hiện quyền yêu cầu, kiến 
nghị nói riêng và chất lượng công tác kiểm 
sát giải quyết vụ việc dân sự nói chung. Tích 
cực thực hiện quyền yêu cầu được luật quy 
định, kiến quyết kiến nghị khi phát hiện vi 
phạm của Tòa án trong quá trình giải quyết 
các vụ việc dân sự./.

File đính kèm:

  • pdfmot_so_van_de_ve_quyen_yeu_cau_quyen_kien_nghi_cua_vien_kiem.pdf