Một số tác dụng không mong muốn của phương pháp điều trị gây xơ bọt ở bệnh nhân suy tĩnh mạch hiển bé mạn tính

Cơ sở nghiên cứu: Phương pháp gây xơ bọt

ngày càng được chỉ định rộng rãi cho suy tĩnh mạch

hiển bé mạn tính, tuy nhiên các nghiên cứu về tác

dụng phụ của phương pháp này tại Việt Nam còn

khá hạn chế.

Mục tiêu: Đánh giá tác dụng không mong muốn

của phương pháp điều trị gây xơ trên bệnh nhân suy

tĩnh mạch hiển bé mạn tính.

Phương pháp: Nghiên cứu can thiệp nhãn mở

trên 34 chân (31 bệnh nhân) suy tĩnh mạch hiển bé

mạn tính có chỉ định điều trị gây xơ bọt và theo dõi

sau 1 tháng.

 

pdf 6 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Một số tác dụng không mong muốn của phương pháp điều trị gây xơ bọt ở bệnh nhân suy tĩnh mạch hiển bé mạn tính", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số tác dụng không mong muốn của phương pháp điều trị gây xơ bọt ở bệnh nhân suy tĩnh mạch hiển bé mạn tính

Một số tác dụng không mong muốn của phương pháp điều trị gây xơ bọt ở bệnh nhân suy tĩnh mạch hiển bé mạn tính
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 75+76.2016152
Một số tác dụng không mong muốn của phương 
pháp điều trị gây xơ bọt ở bệnh nhân suy tĩnh 
mạch hiển bé mạn tính
Nguyễn Trung Anh*, Nguyễn Minh Đức*, Bùi Văn Dũng*, Đặng Thị Việt Hà**
Vũ Thị Thanh Huyền*,**, Phạm Thắng* 
Bệnh viện Lão khoa Trung ương*
Trường Đại học Y Hà Nội** 
TÓM TẮT
Cơ sở nghiên cứu: Phương pháp gây xơ bọt 
ngày càng được chỉ định rộng rãi cho suy tĩnh mạch 
hiển bé mạn tính, tuy nhiên các nghiên cứu về tác 
dụng phụ của phương pháp này tại Việt Nam còn 
khá hạn chế.
Mục tiêu: Đánh giá tác dụng không mong muốn 
của phương pháp điều trị gây xơ trên bệnh nhân suy 
tĩnh mạch hiển bé mạn tính.
Phương pháp: Nghiên cứu can thiệp nhãn mở 
trên 34 chân (31 bệnh nhân) suy tĩnh mạch hiển bé 
mạn tính có chỉ định điều trị gây xơ bọt và theo dõi 
sau 1 tháng.
Kết quả: Tuổi trung bình của đối tượng nghiên 
cứu là 56,4 ± 11,2. Nhóm tuổi từ 40 – 60 tuổi chiếm 
tỷ lệ cao nhất 58 %. Tỷ lệ nữ/nam ~ 4/1. Thể tích 
bọt gây xơ trung bình trong mỗi thủ thuật là 4,2 ± 
0,5 ml. Nồng độ bọt sử dụng trung bình là 2,1 ± 
0,5%. Một số tác dụng phụ thường gặp: 23,5% xuất 
hiện rối loạn sắc tố da, 14,7% đau dọc đường đi của 
tĩnh mạch. 
Kết luận: Gây xơ tĩnh mạch bằng chất tạo bọt 
dưới hướng dẫn của siêu âm là thủ thuật an toàn, 
xâm nhập tối thiểu trong điều trị suy tĩnh mạch hiển 
bé mạn tính. 
Từ khóa: Suy tĩnh mạch, gây xơ tạo bọt.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Suy tĩnh mạch mạn tính (chronic venous 
insufficiency) là bệnh lý có tỷ lệ mắc ngày càng 
tăng cao. Tỷ lệ dân số trưởng thành trên thế giới 
mắc bệnh chiếm 30-40% ở nhiều mức độ [1]. Tại 
Việt Nam, 62% bệnh nhân tại Phòng Khám bị suy 
tĩnh mạch mạn tính [2]. Hàng năm, các nước phát 
triển tiêu tốn hàng tỷ USD cho việc điều trị căn 
bệnh này. Suy tĩnh mạch chi dưới gây ra các triệu 
chứng khó chịu, đau đớn và mất thẩm mỹ, cản trở 
sinh hoạt. Nếu không được điều trị sẽ hình thành 
các cục máu đông trong lòng tĩnh mạch, các cục 
máu này có thể gây tắc mạch máu tại chỗ hoặc di 
chuyển theo dòng máu và gây tắc mạch chỗ khác, 
trong đó nguy hiểm nhất là tắc mạch phổi, có thể 
dẫn đến suy hô hấp và tử vong.
Trên thế giới đã áp dụng rất nhiều phương 
pháp điều trị khác nhau đối với suy tĩnh mạch chi 
dưới nói chung cũng như suy tĩnh mạch hiển bé 
nói riêng [3]. Trong đó phương pháp gây xơ bọt 
là phương pháp được chỉ định rộng rãi, có thể áp 
dụng cho gần như mọi bệnh lý của suy tĩnh mạch 
ở các hình thái khác nhau. Phương pháp này 
đã chứng minh được tính an toàn, hiệu quả, giá 
thành thấp, xâm nhập tối thiểu. Tuy nhiên một số 
tác dụng không mong muốn của gây xơ bọt như 
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 75+76.2016 153
rối loạn sắc tố da và mảng giãn mao mạch ảnh 
hưởng tới thẩm mỹ đã được ghi nhận trong một 
số nghiên cứu [4]. Mặc dù đã có một số nghiên 
cứu về suy tĩnh mạch mạn tính bằng phương pháp 
gây xơ bọt nhưng chưa có nghiên cứu nào đánh 
giá về hiệu quả và tác dụng không mong muốn 
trên bệnh nhân điều trị suy tĩnh mạch hiển bé 
mạn tính bằng phương pháp gây xơ bọt. Vì vậy 
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài nhằm xác 
định hiệu quả và tác dụng không mong muốn 
trên bệnh nhân suy tĩnh mạch hiển bé mạn tính 
được điều trị gây xơ bọt.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu gồm các bệnh nhân 
đến khám tại Bệnh viện Lão khoa Trung ương, 
được chẩn đoán suy tĩnh mạch hiển bé mạn tính 
có chỉ định can thiệp từ tháng 3/2014 đến tháng 
11/2014.
Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân
Các bệnh nhân được chẩn đoán suy tĩnh mạch 
hiển bé mạn tính với các tiêu chuẩn sau: tiêu 
chuẩn chẩn đoán suy tĩnh mạch hiển bé mạn tính 
trên lâm sàng, các triệu chứng cơ năng: nặng tức 
chân, đau nhức, phù chân, chuột rút về đêm; có 
thể thấy các giãn mao mạch, giãn TM dạng lưới, 
giãn TM dạng thân là những đám TM màu tím, 
đỏ hoặc xanh da trời; thường tập trung ở vùng 
bắp chân, khoeo chân hoặc bất kỳ vị trí nào của 
cẳng chân, hoặc các giãn TM ngoằn ngoèo chạy 
dọc theo chiều dài của cẳng chân. Nặng hơn có 
thể thấy các vùng thay đổi màu sắc da, phù chân, 
loét hay các xơ hóa da dạng mỡ, phân loại lâm 
sàng CEAP từ C2 trở lên [5], siêu âm Doppler có 
dòng trào ngược tại thân tĩnh mạch hiển bé với 
thời gian > 1 giây và bệnh nhân đồng ý tham gia 
nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân đang có huyết khối tĩnh mạch nông 
hoặc sâu, có bệnh lý rối loạn đông máu, bệnh lý 
động mạch ngoại vi, đang trong tình trạng nhiễm 
trùng, sốt, tiền sử dị ứng với thuốc gây xơ tĩnh mạch, 
phụ nữ có thai, cho con bú, bệnh nhân không đồng 
ý tham gia nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu can thiệp nhãn mở.
Cách thức tiến hành nghiên cứu
Đánh giá trước điều trị về: các đặc điểm chung 
của bệnh nhân (tuổi, nhóm tuổi, giới); đánh giá theo 
thang điểm độ nặng bệnh tĩnh mạch trên lâm sàng 
VCSS (Venous clinical severity score) [6]; thăm 
khám bằng siêu âm Doppler, làm các xét nghiệm để 
loại trừ các trường hợp có rối loạn đông máu và tình 
trạng nhiễm trùng, bệnh nhân ký vào giấy cam kết 
đồng ý điều trị.
Tiến hành điều trị
Chuẩn bị dụng cụ và phương tiện trước khi tiến 
hành điều trị, chuẩn bị bệnh nhân. Sau đó bệnh 
nhân được tiêm xơ (thuốc: Polidocanol, biệt dược 
Aetoxisclérol®) dưới hướng dẫn của siêu âm. 
Đánh giá tác dụng không mong muốn của bệnh 
nhân tại thời điểm tiêm xơ, sau 1 ngày và sau 4 tuần
Đau dọc theo tĩnh mạch hoặc tại vị trí búi giãn 
trong thời gian theo dõi, thâm da dọc theo tĩnh 
mạch được gây xơ, viêm mô tế bào tại vị trí tiêm, 
các mảng giãn mao mạch tại vị trí tiêm, dị ứng tại 
vị trí tiêm, tai biến mạch não thoáng qua, huyết 
khối tĩnh mạch nông, huyết khối tĩnh mạch sâu.
Xử lý số liệu
Các số liệu được xử lý và phân tích bằng phần 
mềm thống kê y học SPSS 16.0. Sử dụng các thuật 
toán: tính tỷ lệ phần trăm, tính giá trị trung bình. 
Sử dụng test χ2 để phân tích mối liên quan giữa các 
biến, T-test để so sánh giá trị trung bình. Sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05.
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 75+76.2016154
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm chung của nhóm bệnh nhân nghiên cứu
Tổng số có 31 bệnh nhân với 34 chân bị suy tĩnh 
mạch hiển bé mạn tính có chỉ định điều trị là 56,4± 
11,2 tuổi, bệnh nhân ít tuổi nhất là 29 tuổi, cao tuổi 
nhất là 78 tuổi. Thường gặp nhất là 40 - 60 tuổi 
(chiếm 58%), sau đó đến nhóm tuổi > 60 (35,5%), 
ít gặp nhất là nhóm tuổi < 40 (chiếm 6,5%). Phần 
lớn các bệnh nhân suy tĩnh mạch hiển bé mạn tính 
trong nghiên cứu là nữ giới chiếm 80,6% (25 bệnh 
nhân), nam giới chiếm 19,4% (6 bệnh nhân), tỷ lệ 
nữ/nam: 4 /1.
Điểm VCSS trung bình trước can thiệp là 6,6 ± 
1,1 điểm, trong đó bệnh nhân có điểm thấp nhất 
là 4 điểm và cao nhất là 9 điểm. Điểm VCSS trung 
bình sau can thiệp 4 tuần còn 3,3 ± 0,9 điểm, với 
bệnh nhân có điểm thấp nhất là 2 điểm và cao nhất 
là 6 điểm. Sau điều trị 4 tuần điểm VCSS giảm hơn 
so với trước điều trị, mức giảm 50%, sự khác biệt 
này có ý nghĩa thống kê với p < 0,001.
Sau can thiệp 4 tuần kết quả siêu âm Doppler: 
Đường kính tĩnh mạch hiển bé được điều trị tại quai 
và giữa cẳng chân đều giảm so với trước can thiệp, 
mức giảm trung bình tại quai tĩnh mạch khoảng 
20%, giữa cẳng chân 30%, mức giảm có ý nghĩa 
thống kê với p < 0,05, tỉ lệ tĩnh mạch hiển bé bị tắc 
hoàn toàn đạt 82,3% (28 chi). Có 17,7 % (6 chân) 
tĩnh mạch hiển bé tắc không hoàn toàn. Trong 
đó chỉ có 02 chân còn dòng trào ngược bệnh lý > 
0,5(s), 4 chân còn lại tĩnh mạch hiển bé tắc không 
hoàn toàn nhưng không còn dòng trào ngược bệnh 
lý. Không có trường hợp nào lòng tĩnh mạch hiển 
bé còn thông hoàn toàn.
Thể tích và nồng độ chất gây xơ bọt dùng trong 
thủ thuật
Trong nghiên cứu của chúng tôi sử dụng chất 
gây xơ là Polidocanol với biệt dược Aetoxisclérol 
sản xuất tại Pháp, với các nồng độ 1%, 2%, 3% có 
thể pha các loại nồng độ với nhau hoặc với nước 
cất để có thể có nồng độ mong muốn. Bọt gây xơ 
được tạo ra khi trộn thuốc gây xơ với không khí theo 
phương pháp Tessari.
Bảng 1. Thể tích và nồng độ chất gây bọt dùng trong 
mỗi thủ thuật
Thể tích bọt gây 
xơ (ml)
Nồng độ chất 
gây xơ bọt (%)
Trung bình
 ± SD
4,2 ± 0,5 2,1 ± 0,5
Min 3 1,5
Max 5 3
Thể tích bọt gây xơ trung bình trong mỗi thủ 
thuật là 4,2 ± 0,5 ml, thể tích dùng cao nhất là 5 ml 
và thấp nhất là 3 ml. Nồng độ bọt sử dụng trung 
bình là 2,1 ± 0,5%, nồng độ bọt cao nhất là 3% và 
thấp nhất là 1,5%.
Tác dụng không mong muốn của điều trị suy 
tĩnh mạch hiển bé mạn tính được gây xơ
Bảng 2. Tổng hợp các biến chứng ngay lúc can thiệp
Loại biến chứng
Số bệnh 
nhân
Tỷ lệ (%)
Đau dọc đường đi của 
TM
8 23,5
Dị ứng 0 0
Sốc 0 0
Đau nửa đầu 0 0
Rối loạn thị giác 0 0
Ho, khó thở 0 0
Triệu chứng khác 0 0
X
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 75+76.2016 155
Trong và ngay sau khi thực phương pháp điều 
trị gây xơ bọt chỉ gặp tác dụng phụ đau dọc đường 
đi của tĩnh mạch với tỉ lệ 23,5% (8 chân), không 
gặp các tác dụng phụ khác như dị ứng, phản vệ, tai 
biến mạch não thoáng qua, các triệu chứng của tắc 
mạch do khí.
 Bảng 3. Tổng hợp các biến chứng sau gây xơ 1 ngày
Loại biến chứng
Số bệnh 
nhân
Tỷ lệ (%)
Đau dọc đường đi của TM 6 17,6
Bầm tụ máu 0 0
Nhiễm trùng 0 0
Huyết khối TM sâu 0 0
Thuyên tắc phổi 0 0
Tai biến mạch não thoáng 
qua
0 0
Sau can thiệp 1 ngày cũng chỉ gặp triệu chứng 
đau dọc đường đi của tĩnh mạch với tỉ lệ giảm xuống 
chỉ còn 17,6%. Không gặp tác dụng phụ nào khác ở 
thời điểm đánh giá này.
Bảng 4. Tổng hợp các biến chứng sau gây xơ bọt 4 tuần
Loại biến chứng
Số bệnh 
nhân
Tỷ lệ (%)
Đau dọc đường đi của 
tĩnh mạch
5 14,7
Rối loạn sắc tố da 8 23,5
Bầm tụ máu 0 0
Hoại tử da 0 0
Huyết khối TM sâu 0 0
Thuyên tắc phổi 0 0
Nhiễm trùng điểm chọc 
mạch
0 0
Biến chứng khác 0 0
Sau can thiệp 4 tuần số chân còn đau dọc đường 
đi của tĩnh mạch còn 14,7% (5 chân), với mức độ 
đau giảm hơn so với thời điểm mới can thiệp. 
Đồng thời lúc này gặp 23,5% (8 chi) xuất hiện 
mảng rối loạn sắc tố da tương ứng với đường đi 
của tĩnh mạch hiển bé ở cẳng chân. Không gặp 
bệnh nhân nào có biến chứng huyết khối tĩnh 
mạch sâu, thuyên tắc phổi, bầm tụ máu, hoại tử 
da, nhiễm trùng điểm chọc mạch, cũng như các 
biến chứng khác.
BÀN LUẬN
Thuốc gây xơ được lựa chọn trong nghiên 
cứu của chúng tôi là Polidocanol với biệt dược 
là Aetoxisclérol® với các nồng độ 0,5%, 1%, 2% và 
3%. Polidocanol chính thức được FDA chấp nhận 
sử dụng vào tháng 3/2010 tại Mỹ, trước đó thuốc 
đã được đưa vào sử dụng điều trị suy tĩnh mạch 
mạn tính tại nhiều nước ở châu Âu và hiệu quả đã 
được chứng minh qua nhiều nghiên cứu. Thuốc 
có các ưu điểm là có thể dùng để điều trị bất kỳ 
loại giãn tĩnh mạch nào, ít gây đau, không gây 
hoại tử mô khi thoát mạch, các tác dụng phụ như 
phản ứng dị ứng chỉ gặp với tỷ lệ thấp (< 0,1%) 
[7]. Trong nghiên cứu của chúng tôi thể tích bọt 
gây xơ trung bình trong mỗi thủ thuật là 4,2 ± 0,5 
ml. Nồng độ bọt sử dụng trung bình là 2,1 ± 0,5%, 
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 75+76.2016156
nồng độ bọt cao nhất là 3% và thấp nhất là 1,5%. 
Nghiên cứu của tác giả người Pháp JL Gillet (2013) 
gây xơ cho 313 bệnh nhân bị suy tĩnh mạch hiển 
bé nồng độ chất gây xơ bọt sử dụng dao động từ 
0,5% đến 3%, thể tích bọt gây xơ trung bình là 3,1 
ml [8]. Nồng độ và thể tích bọt chúng tôi sử dụng 
theo khuyến cáo châu Âu về gây xơ bọt 2012. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi nồng độ và thể 
tích bọt trung bình cao hơn một số tác giả khác, 
nhưng khi xem xét kĩ hơn thì trong các nghiên cứu 
đó đường kính tĩnh mạch hiển bé được can thiệp 
bé hơn so với các bệnh nhân của chúng tôi, mặt 
khác tuổi trung bình của các bệnh nhân đó thấp 
hơn BN của chúng tôi nên có lẽ các tác giả đặt cao 
vấn đề thẩm mỹ, tránh biến chứng rối loạn sắc tố 
sau can thiệp.
Theo nhiều nghiên cứu đã công bố gây xơ bọt 
là phương pháp an toàn, biến chứng thường gặp là 
đau dọc tĩnh mạch được can thiệp, rối loạn sắc tố 
da, đám giãn mao mạch, hiếm gặp các biến chứng 
khác như huyết khối tĩnh mạch sâu, thuyên tắc 
phổi, hoại tử mô nặng, tai biến mạch não(< 
0,01%). Trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ gặp 
hai biến chứng là đau dọc tĩnh mạch và rối loạn sắc 
tố da sau điều trị 4 tuần. Ngay trong khi thực hiện 
tiêm xơ chỉ gặp tác dụng phụ đau dọc đường đi của 
tĩnh mạch với tỉ lệ 23,5%, không gặp các tác dụng 
phụ khác như dị ứng, phản vệ, các triệu chứng của 
tắc mạch do khí.
Sau can thiệp 1 ngày cũng chỉ gặp tác dụng phụ 
đau dọc đường đi của tĩnh mạch với tỉ lệ giảm 
đi đáng kể 17,6%. Sau can thiệp 4 tuần tỉ lệ này 
chỉ còn 14,7% số bệnh nhân có triệu chứng đau 
dọc đường đi của tĩnh mạch, đồng thời mức độ 
đau cũng giảm so với trước can thiệp, hầu hết các 
bệnh nhân này đều không phải xử trí gì, chỉ có 
một vài bệnh nhân phải sử dụng thuốc giảm đau 
Paracetamol đường uống 3-5 ngày.
Đồng thời tại thời điểm 4 tuần sau can thiệp 
gặp 23,5% (8 chi) xuất hiện mảng rối loạn sắc tố 
da dọc đường đi của tĩnh mạch hiển bé, tổn thương 
này cũng mờ dần theo thời gian. Không gặp bệnh 
nhân nào có biến chứng huyết khối tĩnh mạch 
sâu, thuyên tắc phổi, biến chứng thần kinh, bầm 
tụ máu, hoại tử da cũng như các biến chứng khác. 
Thomasset và cộng sự (2010) tiêm xơ cho 126 bệnh 
nhân, biến chứng sau 3 tháng: rối loạn sắc tố da 
28%, huyết khối tĩnh mạch sâu 1%, phản ứng dị 
ứng 1%, không thấy biến chứng trên thần kinh như 
đau đầu, nhìn mờ, rối loạn thăng bằng [9].
Rối loạn sắc tố da sau tiêm xơ đã được coi là 
một biến chứng xảy ra với mức độ thường xuyên 
nhưng chỉ thoáng qua, tức là dần biến mất theo 
thời gian. Nó thường có màu nâu, chạy dọc 
theo đoạn tĩnh mạch được điều trị, tỷ lệ xảy ra 
khoảng 10 – 30%, thường xuất hiện sau tiêm 
xơ 3 – 4 tuần, có thể mờ dần và biến mất sau 
6 – 12 tháng, cụ thể khoảng 70% không còn sau 
6 tháng, 10% còn tồn tại sau 1 năm. Bản chất 
biến đổi màu da là sự lắng đọng hemosiderin - 
một sản phẩm chuyển hóa của hemoglobin sau 
khi hồng cầu bị phá hủy trong đoạn tĩnh mạch 
được tiêm xơ. Các yếu tố thuận lợi để rối loạn 
sắc tố xảy ra là: cơ địa da của bệnh nhân, độ sâu 
và kích thước của tĩnh mạch trước điều trị, vị 
trí tĩnh mạch trên cơ thể (liên quan tới nguy 
cơ tiếp xúc với ánh sáng) cũng như nồng độ và 
loại chất gây xơ được sử dụng. Hiện nay chưa 
có phương pháp điều trị hiệu quả nào với rối 
loạn sắc tố nếu xảy ra sau tiêm xơ. Cần phải dự 
phòng trước khi nó xảy ra bằng việc lưu ý các 
yếu tố nguy cơ đã nêu.
Nghiên cứu của chúng tôi tiến hành sau 1 tháng, 
là thời điểm hay gặp nhất cũng như dễ phát hiện 
nhất nếu rối loạn sắc tố xảy ra. Nên rất cần sự theo 
dõi lâu dài hơn qua các nghiên cứu xa hơn đối với 
loại biến chứng này.
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 75+76.2016 157
SUMMARY
Some adverse effects of foam sclerotherapy in chronic small saphenous vein insufficiency patients
Background: Foam sclerotherapy is increasingly widespread method of treating chronic small 
saphenous vein insufficiency. Howerver, researches on side effects of this method have been limited in 
Vietnam.
Objectives: To asess some adverse effects of foam sclerotherapy in patients with chronic small 
saphenous vein insufficiency.
Methods: An open intervention study included of 34 limbs (31 patients) were done with one month 
follow-up period.
Results: The average age of subjects was 56,4 ± 11,2. The age group 40-60 accounted for the highest 
proportion (58%). The proportion of female/male was 4/1.The average volume of foam used per session 
was 4.2 ± 0,5 ml. The average concentration of foam used per session was 2,1 ± 0,5%. Common side effects 
included 23.5% appearing skin pigmentation disorders, 14.7% painalong the path of the vein.
Conclusions: Ultrasound-guided foam sclerotherapyforsmall saphenousis a safety, minimally invasive 
procedure in the treatment of chronic small saphenous veins insufficiency.
Key words: Chronic venous insufficiency, foam sclerotherapy.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Robertson L, C. Evans và Fowkes F.G (2008). “Epidemiology of chronic venous disease”, Phlebology, 
23(3), 103-11.
2. Nguyễn Tuấn Hải (2014),“Cập nhật điều trị suy tĩnh mạch mạn tính chi dưới”. Đại hội Tim mạch toàn 
quốc XIV.
3. Green, D., (1998). Sclerotherapy Treatment Insights.Dermatologic Clinics, 16(1), 195-211.
4. Cavezzi, A. and K. Parsi (2012). Complications of foam sclerotherapy. Phlebology, 27 Suppl 1, 46 - 51.
5. Allegra, C., et al (2003). The “C” of CEAP: suggested definitions and refinements: an International 
Union of Phlebology conference of experts. J Vasc Surg, 37(1), 129 - 31.
6. Vasquez MA, M.C., (2008). Venous clinical severity score and quality-of-life assessment tools: 
application to vein practice.Phlebology, 23, 259 - 275.
7. Green D (1998). “Sclerotherapy treatment insights”, Dermatol Clin, 16(1), 195-211.
8. Gillet J et al (2013), “Is the treatment of the small saphenous veins with foam sclerotherapy at risk of 
deep vein thrombosis?”, Phlebology.
9. Thomasset S.C et al (2010), “Ultrasound guided foam sclerotherapy: factors associated with outcomes 
and complications”,Eur J Vasc Endovasc Surg, 40(3),389 - 392.

File đính kèm:

  • pdfmot_so_tac_dung_khong_mong_muon_cua_phuong_phap_dieu_tri_gay.pdf