Một số nhận xét sơ bộ về kỹ năng thực hành hen, COPD và viêm phổi cộng đồng thông qua phần mềm nice-Vn
Xây dựng một phần mềm liên kết với trang web của Hội chuyên ngành để khảo sát, đánh giá thực trạng
thực hành là một ý tưởng đáp ứng được nhiều hiệu quả. Với chức năng phản biện khoa học cho các cơ quan
quản lý chuyên ngành, bằng sự kết nối này, phần mềm sẽ cung cấp kênh thông tin khoa học, môi trường
kiểm tra năng lực và cấp chứng nhận thực hành. Đặc biệt phần mềm sẽ giúp cho Hội có cách nhìn đúng
và cụ thể những khoảng trống cần được hỗ trợ. Bên cạnh đó, với cách xây dựng có hướng mở, dễ áp dụng,
phần mềm hoàn toàn có thể là phương tiện giúp các cơ quan quan lý muốn khảo sát đánh giá những nội
dung cần quan tâm.
Trên cơ sở 3 nội dung có tính thực hành cao trong chuyên ngành bệnh phổi là COPD, Hen và Viêm phổi
cộng đồng, phần mềm NICE-VN đã giúp xác định những nội dung thực hành còn hạn chế. Đây là những
thông tin đặc biệt hữu ích không chỉ cho công tác Hội mà cả cho các cơ quan quản lý y tế và các thầy thuốc
tham khảo. Cách tiếp cận và sử dụng NICE-VN trong công tác đào tạo cũng là một hướng hiệu quả đóng
góp thêm cho các phương pháp đào tạo hiện nay, nhất là đào tạo sau đại học.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số nhận xét sơ bộ về kỹ năng thực hành hen, COPD và viêm phổi cộng đồng thông qua phần mềm nice-Vn

74 Hô hấp số 19/2019 1. ĐẶT VẤN ĐỀ VÀ MỤC TIÊU Kiến thức y học hiện nay đang phát triển rất nhanh. Chỉ 5-10 năm sau khi ra trường, một thầy thuốc nếu không cập nhật thông tin thường xuyên kiến thức y học sẽ trở thành lạc hậu. Vào đầu tháng 5/2016, kênh truyền hình CNN có đưa tin từ Johns Hopkins Medicine (một bệnh viện đại học ở Mỹ) thông báo về nguyên nhân gây tử vong ở Mỹ rằng tai nạn y khoa là nguyên nhân gây tử vong đứng ở hàng thứ 3 (chỉ sau bệnh tim mạch và ung thư). Trong đó bao gồm những lý do như thiếu trách nhiệm, thiếu kiến thức, thiếu kỹ năng của thầy thuốc (1). Việt Nam của chúng ta không phải là ngoại lệ đối với thực trạng này. Hen phế quản, Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) và Viêm phổi cộng đồng (VPCĐ) là ba bệnh lý phổ biến nhất trong thực hành lâm sàng chuyên khoa nội nói chung và chuyên khoa hô hấp. Với đặc điểm mạn tính và có sử dụng kháng sinh trong điều trị nên ba bệnh lý này chiếm một tỷ trọng lớn chi phí chăm sóc y tế. Bên cạnh đó, những khiếm khuyết về kỹ thuật chăm sóc trong thực hành từ phía y tế trong ba bệnh lý trên để lại hậu quả lớn không chỉ trên gánh nặng nguồn lực y tế, xã hội mà còn trên sức khỏe người bệnh và môi trường sinh thái do tạo ra các chủng vi khuẩn kháng và đa kháng thuốc. Y văn Việt Nam, trong khả năng mà chúng tôi tham khảo được, chưa có những bài viết tổng quan hay nghiên cứu đề cập tới vấn đề chất lượng và các tác động của dịch vụ chăm sóc từ các cơ sở y tế, không chỉ là các cơ sở y tế tuyến đầu mà ngay cả các cơ sở y tế tuyến cuối hay các trung tâm y tế. Ngược lại, những vấn đề này được xem xét, nghiên cứu và đề cập thường xuyên trên các diễn đàn y học quốc tế (2-4). Nghiên cứu: MỘT SỐ NHẬN XÉT SƠ BỘ VỀ Kỹ NăNG THỰC HÀNH HEN, COPD VÀ VIÊM PHỔI CỘNG ĐỒNG THôNG QUA PHẦN MỀM NICE-VN TS.BS NGUyễN VăN THÀNH PCT Hội Phổi Việt Nam, PCT Hội Hô hấp Việt Nam E-mail: [email protected] Tóm tắt Xây dựng một phần mềm liên kết với trang web của Hội chuyên ngành để khảo sát, đánh giá thực trạng thực hành là một ý tưởng đáp ứng được nhiều hiệu quả. Với chức năng phản biện khoa học cho các cơ quan quản lý chuyên ngành, bằng sự kết nối này, phần mềm sẽ cung cấp kênh thông tin khoa học, môi trường kiểm tra năng lực và cấp chứng nhận thực hành. Đặc biệt phần mềm sẽ giúp cho Hội có cách nhìn đúng và cụ thể những khoảng trống cần được hỗ trợ. Bên cạnh đó, với cách xây dựng có hướng mở, dễ áp dụng, phần mềm hoàn toàn có thể là phương tiện giúp các cơ quan quan lý muốn khảo sát đánh giá những nội dung cần quan tâm. Trên cơ sở 3 nội dung có tính thực hành cao trong chuyên ngành bệnh phổi là COPD, Hen và Viêm phổi cộng đồng, phần mềm NICE-VN đã giúp xác định những nội dung thực hành còn hạn chế. Đây là những thông tin đặc biệt hữu ích không chỉ cho công tác Hội mà cả cho các cơ quan quản lý y tế và các thầy thuốc tham khảo. Cách tiếp cận và sử dụng NICE-VN trong công tác đào tạo cũng là một hướng hiệu quả đóng góp thêm cho các phương pháp đào tạo hiện nay, nhất là đào tạo sau đại học. NghiêN cứu 75 Hô hấp số 19/2019 Trên cơ sở này, việc đặt vấn đề khảo sát thực trạng và đề ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc y tế trong chuyên ngành bệnh phổi là rất cần thiết. Trong kỷ nguyên cách mạng công nghiệp 4.0, sử dụng mạng (internet) là giải pháp tỏ ra thích hợp và hiệu quả nhất. Phần mềm NICE-VN được thiết kế trong khuôn khổ một dự án khoa học do Hội Bệnh phổi thực hiện dưới sự quản lý và cung cấp tài chính của Sở KH-CN thành phố Cần Thơ có tên gọi: “Khảo sát thực trạng và đề xuất giải pháp trong thực hành chăm sóc y tế đối với một số bệnh lý phổ biến chuyên khoa nội Hô hấp thông qua internet”. Dự án xác định có mục tiêu như sau: Xây dựng và thông qua một phần mềm kết nối với trang web của Hội để: 1) Nhận định được thực trạng chất lượng thực hành trong ba bệnh: Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (J44.9): Chẩn đoán, đánh giá và quyết định xử trí khi khám lần đầu ở phòng khám (không nhập viện), Hen phế quản (J45.9): Chẩn đoán hen nặng-khó điều trị (SRA) và quyết định xử trí theo hướng kiểu hình (phenotype) và Viêm phổi cộng đồng (J18.9): Thực hành hiệu quả 72 giờ đầu. 2) Đề xuất được các giải pháp khả thi để cải thiện chất lượng thực hành trong ba bệnh lý nói trên dựa trên cơ sở các phân tích từ mục tiêu 1. 2. TỔNG QUAN THỰC TRẠNG THỰC HÀNH COPD, HEN VÀ VIÊM PHỔI CỘNG ĐỒNG Gần đây, một nghiên cứu đăng trên tạp chí khoa học Thực hành Miễn dịch Dị ứng lâm sàng (Mỹ, 2013) (2) Awaya Y và các tác giả Nhật đã đề cập tới chất lượng chăm sóc cơn hen cấp tại các phòng cấp cứu của nhiều bệnh viện ở Nhật Bản, trong đó nhấn mạnh thực hành xử trí cơn hen cấp ở các phòng cấp cứu chưa đạt yêu cầu và cần chuyển kiến thức thành việc làm cụ thể như các tài liệu hướng dẫn khuyến cáo. Nghiên cứu này cũng cho rằng việc tuân thủ theo phác đồ đã hướng dẫn sẽ giúp làm giảm nguy cơ tái nhập viện do xuất hiện cơn hen cấp. Từ một cách nhìn khác, một nghiên cứu ở Anh (năm 2006) (3) lại cho thấy so với tài liệu hướng dẫn quốc gia thì ở Anh, các cơ sở y tế xử trí đợt cấp COPD rất không giống nhau cả về kỹ thuật, nguồn lực và cách tổ chức. Điều này đòi hỏi sự cụ thể trong phân tuyến xử trí và các cấp độ thực hành cần được đặt ra trong một cấu trúc thống nhất. Nhấn mạnh hiệu quả của vấn đề hướng dẫn đi kèm đào tạo, một nghiên cứu ở Australia (năm 2010) (4) kết luận việc đánh giá tình trạng bệnh nặng và sử dụng kháng sinh hợp lý trong viêm phổi cộng đồng nhập viện ở 26 bệnh viện cải thiện rất rõ sau khi có những tác động của đào tạo. Ở lần đánh giá đầu tiên, trước can thiệp, tỷ lệ đánh giá đúng mức độ nặng của bệnh chỉ đạt 6% và chỉ có 20% các chỉ định kháng sinh đúng theo tài liệu hướng dẫn. Vậy đâu là yếu tố quan trọng tác động làm thay đổi hành vi thực hành lâm sàng của các bác sỹ ?. Một nghiên cứu trên các bác sỹ ở các cơ sở y tế tuyến đầu và tuyến 2 nhận định 3 yếu tố có tác động quan trọng nhất là yếu tổ chức (organisational factor), yếu tố đào tạo (education) và yếu tố tiếp xúc với thực hành chuyên khoa (contact with professionals). Tổng cộng 3 yếu tố này tác động làm thay đổi tới 47,9% hành vi thực hành lâm sàng, trong đó yếu tố đào tạo có tác động nhiều hơn ở những thay đổi xử trí (management) và kỹ năng ra quyết định (prescribing). Các tác giả của nghiên cứu này cũng cho rằng yếu tố đào tạo, nhất là hướng dẫn kỹ năng thực hành, là quan trọng, nhưng đã chưa được thực hiện đầy đủ và cần được chú trọng hơn (5). Ở Việt Nam, có thể một phần lĩnh vực đánh giá chất lượng thực hành chăm sóc y tế chưa được chú ý đúng mức nên y văn đề cập đến vấn đề này còn rất ít. Trong một nghiên cứu về sai sót trong sử dụng thuốc ở các bệnh viện Việt Nam (năm 2015) Huong-Thao Nguyen và cs (6) ghi nhận tỷ lệ sai sót là 39,1%. Các yếu tố có liên quan tới sai sót trong sử dụng thuốc có ý nghĩa là cách sử dụng và thời gian sử dụng. Trong bài viết của Martin AM và cs đã được trích dẫn ở trên (1), các tác giả cho rằng đánh giá các sai sót y tế và chia xẻ các thành quả khoa học sẽ tạo ra chất lượng cung cấp dịch vụ chăm sóc an toàn và tin cậy. Các vấn đề về lỗi y tế không nên được miễn trừ khỏi các tiếp cận khoa học và sự nhận biết về nó sẽ giúp nâng cao kiến thức, tăng cường các biện pháp làm giảm thiểu lỗi như hợp NghiêN cứu 76 Hô hấp số 19/2019 tác, đầu tư cho công tác nghiên cứu cũng như dự phòng. Giải pháp đầu tiên cần có để đánh giá chất lượng và điều chỉnh các khiếm khuyết trong thực hành là cần phải có thông tin phản biện. Trên nền tảng này, các tổ chức, các cơ quan hữu quan sẽ có cơ sở để tiếp cận điều chỉnh các chính sách cho hợp lý hơn. Đào tạo bổ sung kiến thức y khoa liên tục cho các thầy thuốc (continuing medical education, CME) là hình thức đào tạo không mới. Đây là nhu cầu bắt buộc đối với các thầy thuốc và thuật ngữ CME được đề xuất sử dụng nhiều từ những năm 1950 (7). Một trong các phương pháp nhằm khai thác những tiến bộ của công nghệ thông tin trong đào tạo CME là hình thức đào tạo qua internet (internet-based lecture). Đã có nhiều nghiên cứu chứng minh hiệu quả của phương pháp đào tạo này không kém phương pháp giảng tại giảng đường truyền thống (traditional classroom lecture) (8,9). Tạp chí đào tạo từ xa của Thổ Nhĩ Kỳ (2013) (9) còn có một nghiên cứu cho rằng đào tạo CME qua mạng có số người tham gia nhiều hơn so với phương pháp truyền thống. Ở Việt nam (tại bệnh viện Việt Đức, 2016) (10), nhóm nghiên cứu Dung PT và cs, từ một nghiên cứu bổ sung kiến thức thực hành, đã cho rằng đào tạo bổ sung kỹ năng thực hành trong môi trường làm việc cụ thể sau khi ra trường là rất cần thiết. Việc này chương trình đào tạo trong trường không thể đề cập tới. Từ những khó khăn trong thực tế công tác đào tạo của Việt Nam như vấn đề ngân sách, thời gian, nhân lực, môi trường thực hành, điều kiện đi lại, tuổi tác, việc cần có một giải pháp khắc phục nhằm cải thiện kiến thức và kỹ năng thực hành của cán bộ y tế là việc làm cấp thiết. Trong tình hình này, Hội cho rằng đào tạo CME qua mạng là giải pháp có tính khả thi và là cách tiếp cận hợp lý. Để phục vụ cho mục đích này, cần có các đánh giá thực trạng thực hành, nhìn thấy những khoảng trống và lỗi phổ biến để từ đó có các đề xuất phục vụ việc thiết kế bài giảng phù hợp, hiệu quả. Hình 1. Phương pháp tác động có tính tương hỗ và khả thi thông qua internet Trên cơ sở các phân tích như trên, dự án này đề xuất một phương pháp khảo sát kỹ năng thực hành qua mạng, hoặc có thể gián tiếp từ hồi cứu bệnh án, hoặc trực tiếp thông qua đánh giá tiền tác động (pre-test) từ các lớp tập huấn CME. Các dữ liệu thu được sẽ phản ánh thực trạng thực hành và là cơ sở để xây dựng các kế hoạch tác động nhằm cải thiện khoảng trống kiến thức, kỹ năng cho các thầy thuốc mà trong đó giải pháp quan trọng là xây dựng các bài giảng CME sát hợp nhất với nhu cầu thực tế như mô hình hình 1 mô tả. Đây là cách tiếp cận mà chúng tôi chưa thấy ở Việt Nam triển khai. Từ góc độ trách nhiệm Hội, đây là một việc làm cần thiết và có tính khả thi cao. Dự án mang ý nghĩa Khảo sát thực trạng và Đào tạo CME thông qua internet trong chuyên ngành Lao và Bệnh phổi được đặt tên giao dịch tiếng Anh là NICE-VN (National Insight of Clinical Experience in Vietnam) với tiêu chí hướng tới mở rộng và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực này. 3. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Đối với nội dung thực hành Chẩn đoán, Đánh giá và Quyết định xử trí khi khám lần đầu Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính ở phòng khám (không nhập viện). Số liệu này thu được từ khảo sát pre-test cấp CME ở các lớp tập huấn cho các các bác sỹ khu vực đồng bằng sông Hồng (Hải Phòng tháng 10/2018) và các bác sỹ khu vực đồng bằng sông Cửu Long (Cần Thơ tháng 1/2019). Trên 103 lần test, kết quả cho những nhận xét khái quát như sau. NghiêN cứu 77 Hô hấp số 19/2019 Kỹ năng a, b, d đã cho các kết quả rất tốt. Cụ thể kỹ năng a (Kỹ năng khai thác thông tin và ghi chép của thầy thuốc trước một bệnh cảnh hướng tới chẩn đoán COPD) 97% đúng, 3% sai. Kỹ năng b (Kỹ năng ghi nhận thông tin khám thực thể khi khám lần đầu: Các triệu chứng cần ghi nhận khi chẩn đoán lâm sàng COPD) 96% đúng, 4% sai. Kỹ năng d (Kỹ năng đánh giá và phân loại COPD: Đánh giá và phân loại lần đầu từ khám và xét nghiệm) 98% đúng, 2% sai. Đây là các kỹ năng thực hàng mang tính hành chính và thao tác thực hành cơ bản mặc dù đơn giản nhưng đòi hỏi thầy thuốc cần khai thác đầy đủ thông tin và thông tin hướng tới chẩn đoán, xử trí tiếp theo COPD nên rất cần thỏa mãn các yêu cầu mang tính định nghĩa, đánh giá, phân loại bệnh. Các kỹ năng c, e cho các kết quả rất đáng lưu ý. Cụ thể kỹ năng c (Kỹ năng quyết định Xét nghiệm: quyết định thực hiện và kết quả khi khám lần đầu với chẩn đoán COPD) đúng 76%, sai 24% và kỹ năng e (Kỹ năng Chẩn đoán và Xử trí COPD) đúng 48% và sai 52%. Đây là các kỹ năng thể hiện năng lực chuyên môn của thầy thuốc, có tác động lớn tới hiệu quả điều trị, quản lý bệnh nhân. Đồng thời các kỹ năng này cũng thể hiện hiệu quả của hệ thống y tế trong chăm sóc các bệnh mạn tính và hiệu quả quản lý chi phí y tế. COPD là bệnh lý “hiện đại”, với thuật ngữ Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, bệnh lý này mới chỉ xuất hiện trong y văn chính thức khoảng vài thập niên trở lại đây. Nhiều vấn đề về bệnh học, nhiều đề xuất thực hành trong tiếp cận COPD và nhiều thuốc mới đã ra đời chỉ trong khoảng 1 thập niên gần đây. Cũng chính vì vậy, thực hành COPD có nhiều thay đổi quan trọng qua từng năm. Vấn đề tiếp cận xử trí bệnh nhân COPD theo kiểu hình (hay phenotype), mục e, là một khái niệm rất mới, và có thể dễ hiểu vì sao khoảng trống thực hành trong kỹ năng xử trí COPD lại lớn như vậy, 52% sai. Phân tích những thông số (parameters) được đánh giá sai cao, từ 30% trở lên, từ mục e, cho thấy như sau: - Câu hỏi 85-86 (mục e): Loại trừ chẩn đoán COPD, sai 37%. - Câu hỏi 87-88 (mục e): Chẩn đoán COPD chưa xác định, sai 55%. - Câu hỏi 89-90 (mục e): Chẩn đoán xác định COPD, sai 70%. - Câu hỏi 93-94 (mục e): Chỉ định thuốc dãn phế quản tác dụng nhanh, sai 80%. - Câu hỏi 95-96 (mục e): Chỉ định thuốc dãn phế quản tác dụng dài, sai 76%. - Các câu hỏi từ 97-98 đến 115-116 (mục e): Là các câu hỏi liên quan tới kết hợp thuốc, chỉ định các thuốc ít sử dụng và vắc-xin phòng bệnh. Ngoại trừ chỉ định vắc-xin cúm mùa (sai 11%), chỉ định corticosteroid uống (sai 22%), các câu hỏi còn lại đều sai ở mức trên 30% (từ 47% đến 69%). Trên cơ sở các nhận xét về khoảng trống như trên cho thấy nhận dạng bệnh học COPD trên từng người bệnh để từ đó có chẩn đoán đúng và trị liệu đúng đang được xem là vấn đề còn nhiều phức tạp từ nhận thức tới tiếp cận thực hành. Mặc dù các tài liệu hướng dẫn quốc gia, quốc tế đã khá đồng thuận trong thuật ngữ điều trị theo “cá thể hóa” (personalized treatment) nhưng thực tế thực hành ở Việt Nam, để tiếp cận và áp dụng thuần thục quan điểm này, các kỹ năng thực hành chẩn đoán và điều trị của thầy thuốc là đáng quan tâm nhất và rất cần được cải thiện. Đối với nội dung thực hành Hen phế quản: Chẩn đoán hen nặng-khó điều trị (SRA) và Quyết định xử trí theo hướng kiểu hình (phenotype). Số liệu này thu được từ khảo sát hồi cứu bệnh án bệnh nhân đang quản lý điều trị tại các Phòng Khám bệnh viện Phổi Trung ương (Hà Nội), Phòng Khám bệnh viện Phạm Ngọc Thạch (TP. Hồ Chí Minh) và Phòng Khám bệnh viện Đa khoa trung ương Cần Thơ. Trên 101 bệnh án, kết quả cho những nhận xét khái quát như sau. Kỹ năng a (kỹ năng ghi nhận thông tin hướng tới chẩn đoán và xử trí SRA) đúng 92%, sai 8%. NghiêN cứu 78 Hô hấp số 19/2019 Kỹ năng b (kỹ năng xác định phương pháp trị liệu có thể áp dụng với chẩn đoán SRA) đúng 73%, sai 27%. Một cách khái quát, kỹ năng thực hành điều trị đối với SRA vẫn đang còn là một khoảng trống khá lớn. Phân tích chi tiết các thông số trong kỹ năng a, tỷ lệ sai ở các câu hỏi là thấp (dưới 20% và đa số là dưới 10%) ngoại trừ các câu hỏi 15-16 (chẩn đoán xác định hen) sai 29%, câu hỏi 35-36 (chỉ định Xquang ngực thẳng) sai 45% và câu hỏi 39-40 (chẩn đoán xác định SRA) sai 23%. Đây là các câu hỏi dưới dạng phân tích mà câu trả lời cần có điều kiện. Kỹ năng phân tích cần dựa trên kiến thức được trình bày trong tài liệu hướng dẫn chuẩn và cập nhật. Khi áp dụng các kiến thức này thầy thuốc cần có nhãn quan phân biệt một tình trạng rối loạn (disorder) với một bệnh (disease) mạn tính để quyết định xử trí. Thí dụ chẩn đoán Hen, câu 15-16, rất cần dựa trên tiền sử lặp đi lặp lại của triệu chứng và/hoặc tình trạng tăng phản ứng phế quản thể hiện ngoài cơn cấp. Hoặc trong thí dụ khác, câu 35-36, quyết định Xquang ngực trong bệnh cảnh nghi Hen phế quản. Trong trường hợp này, Xquang ngực là quyết định cần thiết nếu nghi ngờ COPD (khi bệnh nhân trên 40 tuổi, có hút thuốc lá). Mặc dù Xquang ngực không cung cấp thông tin giúp cho chẩn đoán xác định COPD nhưng, trong nhiều trường hợp, nó có khả năng cung cấp thông tin hình ảnh gợi ý mà trong Hen thông thường không có. Ở kỹ năng b, các câu hỏi thuộc về điều trị kháng viêm steroid và thuốc dãn phế quản đều có tỷ lệ đúng cao, trên 90%. Tuy nhiên các câu hỏi trị liệu kháng viêm không steroid và theo phenotype có tỷ lệ sai khá cao. Mặc dù số liệu được lấy từ các cơ sở điều trị chuyên khoa nhưng khảo sát cho thấy SRA và trị liệu kháng viêm không steroid theo phenotype vẫn là những khái niệm khá mới đối với các thầy thuốc. Kết hợp kết quả khảo sát trên hai kỹ năng Chẩn đoán và Xử trí SRA cho thấy hiểu biết của thầy thuốc về dạng bệnh lý này còn hạn chế. SRA chiếm tỷ lệ khoảng 10% trong dân số Hen. Tuy nhiên, ở các phòng khám khảo sát, nơi là tuyến cuối chuyên khoa tỷ lệ này có thể sẽ cao hơn và đây là những nơi cần có đủ điều kiện con người và cơ sở vật chất để xử trí những trường hợp này. Nếu có tầm nhìn phân tuyến chức năng trong quản lý và điều trị hen thì các khoảng trống kiến thức, kỹ năng thực hành như trên tại các cơ sở y tế tuyến cuối cần phải được ưu tiên cải thiện. Đối với nội dung Viêm phổi cộng đồng: Thực hành hiệu quả 72 giờ đầu nhập viện. Số liệu này thu được từ khảo sát hồi cứu bệnh án của các bệnh nhân đã được điều trị tại khoa Nội Hô hấp bệnh viện Đa khoa trung ương Cần Thơ. Trên 109 bệnh án, kết quả cho những nhận xét khái quát như sau. Nội dung viêm phổi cộng đồng, khảo sát kỹ năng thực hành trong 72 giờ đầu hướng tới đánh giá quyết định nhập viện, chỉ định xét nghiệm, chỉ định kháng sinh trên cơ sở đánh giá kỹ năng chẩn đoán, kỹ năng xác định mức độ nặng của bệnh. Đây là các kỹ năng quan trọng, có khả năng chi phối tỷ lệ tử vong sớm và các hệ lụy kéo theo khi thực hành thiếu chuẩn như quá tải bệnh viện, xét nghiệm quá mức và chỉ định kháng sinh không hợp lý. Có 6 kỹ năng được khảo sát, trong đó các kỹ năng thăm khám lâm sàng là rất tốt. Kỹ năng a (ghi nhận thông tin dân số và lý do nhập viện) đúng 97%, sai 3%. Kỹ năng b (ghi nhận thông tin tiền sử) đúng 98%, sai 2%. Kỹ năng c (khám toàn thân lần đầu) đúng 98%, sai 2%. Kỹ năng d (quyết định xét nghiệm ban đầu) đúng 98%, sai 2%. Cách khảo sát các kỹ năng a, b, c, d trên được thực hiện trên cơ sở trả lời đúng - sai từ kiến thức vốn có trên một bảng liệt kê mang tính gợi ý. Các thông số được yêu cầu trả lời đều là khả thi trong thực hành thường quy ở tầm tuyến cuối của các bệnh viện được khảo sát. Do vậy sẽ không có nhiều vấn đề để phân tích với 4 kỹ năng này. Hai kỹ năng e và f là các kỹ năng phân tích. Kỹ năng e (Chẩn đoán, quyết định nơi điều trị và xét nghiệm bổ sung) đúng 83%, sai 17%. Kỹ năng NghiêN cứu 79 Hô hấp số 19/2019 f (Điều trị kháng sinh) đúng 91%, sai 9%. Dù cho đánh giá đúng từ 2 kỹ năng này là cao nhưng cũng không thể không cần phân tích chi tiết để xác định những khoảng trống cần phải được cải thiện. Ở kỹ năng e, kỹ năng Chẩn đoán - Phân loại mức độ nặng - Quyết định nơi điều trị các nội dung câu hỏi có một mối liên quan chặt chẽ với nhau. Với các câu hỏi ở 3 nội dung trên, nếu quyết định chẩn đoán sai ở một câu sẽ kéo theo sai ở các câu tiếp theo. Có 3 câu hỏi có tỷ lệ trả lời sai cao nhất, gồm Chẩn đoán viêm phổi cộng đồng (câu 43-44) sai 49%, xác định viêm phổi nặng (câu 89-90) sai 70% và chuyển vào khoa nội điều trị (câu 93-94) sai 79%. Từ các tài liệu khảo sát kỹ năng thực hành viêm phổi, các tài liệu trong nước và quốc tế đều có chung nhận định chẩn đoán sai, nhất là dương sai, thường ở mức cao. Khi phân tích bệnh án ở khoa nội, trên các câu hỏi về kỹ năng quyết định ban đầu về chẩn đoán, đánh giá mức độ nặng và quyết định nhập viện đối với viêm phổi không thể không tính đến vai trò quyết định của các bác sỹ làm việc ở phòng cấp cứu. Đây là nơi tiếp nhận bệnh nhân và có các quyết định ban đầu mà sau đó, các hoạt động tiếp theo, nhất là ở khoa nội, sẽ phải chịu áp lực thực hiện “duy trì” quyết định từ phòng cấp cứu. Khảo sát NICE-VN thực hiện trên viêm phổi cộng đồng nhập viện trong 72 giờ đầu sẽ khó có thể tách bạch được đâu là khoảng trống kỹ năng thực hành của các bác sỹ phòng cấp cứu, đâu là của các bác sỹ thuộc khoa nội. Tuy nhiên, tỷ lệ sai cao trong chẩn đoán, đánh giá mức độ nặng và quyết định nhập viện vào khoa nội cho chúng ta một cái nhìn có tính liên hệ với tình trạng quá tải bệnh viện, và những hệ lụy kéo theo về quyết định xét nghiệm, chỉ định thuốc điều trị. Nhìn một cách khái quát, kỹ năng f (chỉ định điều trị kháng sinh) có tỷ lệ sai thấp, 9%. Tuy nhiên khi phân tích các thông số khảo sát cho thấy các trường hợp chỉ định kháng sinh kết hợp có tỷ lệ sai khá cao. Kết hợp kháng sinh uống (câu 117- 118) sai 20% và kết hợp kháng sinh tĩnh mạch (câu 121-122) sai 14%. Kết quả này là phù hợp với tình trạng sai trong đánh giá mức độ nặng do kết hợp kháng sinh có chỉ định trong viêm phổi nặng. Từ khảo sát kỹ năng f (chỉ định điều trị kháng sinh) cho chúng ta thấy một nhận định khả quan rằng thực hành kháng sinh hướng tới nhiễm khuẩn không phổ biến và kháng thuốc là khá hợp lý. Tỷ lệ sai ở nội dung này là thấp, 5% (ở câu 115-116) và 8% (ở câu 123-124). Kháng sinh phổ rộng và kết hợp kháng sinh là các chỉ định trong các tình huống này và sai sót sẽ hoặc làm tăng chỉ định thuốc kháng sinh quá mức hoặc dễ tạo ra thất bại điều trị trong 72 giờ đầu. Nhìn một cách khái quát, các kỹ năng xử trí trong viêm phổi cộng đồng nhập viện trong 72 giờ đầu là khá tốt. Khoảng trống rất cần được lưu ý là chẩn đoán, đánh giá mức độ nặng. Hai vấn đề này sẽ kéo theo việc quyết định nhập viện và chỉ định kháng sinh kết hợp không hợp lý. 4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Xây dựng một phần mềm, liên kết với trang web của Hội chuyên ngành để khảo sát, đánh giá là một ý tưởng đáp ứng được nhiều hiệu quả. Với chức năng phản biện khoa học cho các cơ quan quản lý chuyên ngành, bằng sự kết nối này, phần mềm sẽ cung cấp kênh thông tin khoa học, môi trường kiểm tra năng lực và cấp chứng nhận thực hành. Đặc biệt phần mềm sẽ giúp cho Hội có cách nhìn đúng và cụ thể những khoảng trống cần được hỗ trợ. Bên cạnh đó, với cách xây dựng có hướng mở, dễ áp dụng, phần mềm hoàn toàn có thể là phương tiện giúp các cơ quan quan lý muốn khảo sát đánh giá những nội dung cần quan tâm. Trên cơ sở 3 nội dung có tính thực hành cao trong chuyên ngành bệnh phổi là COPD, Hen và Viêm phổi cộng đồng, phần mềm NICE-VN đã giúp xác định những nội dung còn hạn chế. Đây là những thông tin đặc biệt hữu ích không chỉ cho công tác Hội mà cả cho các cơ quan quản lý y tế và các thầy thuốc tham khảo. Cách tiếp cận và sử dụng NICE-VN trong công tác đào tạo cũng là một hướng hiệu quả đóng góp thêm cho các phương pháp đào tạo hiện nay, nhất là đào tạo sau đại học. Với cách tiếp cận và hiệu quả bước đầu của NICE-VN, nhóm tác giả đề xuất cần mở rộng NghiêN cứu 80 Hô hấp số 19/2019 cách tiếp cận trên NICE-VN sang các nội dung khác, nhất là các nội dung được xem là dễ tạo ra các sai sót chuyên môn như kỹ thuật cấp cứu, kỹ thuật hồi sức, chuẩn bị tiền phẫu, trị liệu ung thư, tiêm chủng và cần liên tục cập nhật kiến thức và đào tạo CME không chỉ đối với bác sỹ mà còn đối với cả điều dưỡng, kỹ thuật viên, nhân viên chăm sóc y tế. (Có thể xem để biết cụ thể thêm trên: www:// hoitho-cuocsong.org.vn/cantho/NICE-VN). Tài liệu tham khảo 1. Martin A Makary, Michael Daniel. Medical error - the third leading cause of death in the US. BMJ 2016; 353:i2139 doi: 10.1136/bmj. i2139 2. Hasegawa K, Chiba T, Hagiwara Y, Watase H, Tsugawa Y, Brown DF, Camargo CA Jr; Japanese Emergency Medicine Network Investigators. Quality of care for acute asthma in emergency departments in Japan: a multicenter observational study. J Allergy Clin Immunol Pract. 2013 Sep-Oct;1(5):509-15.e1-3. doi: 10.1016/j.jaip.2013.05.001. Epub 2013 Jun 21. 3. Harold Hosker, Katharine Anstey, Derek Lowe, Michael Pearson, C. Michael Roberts. Variability in the organisation and management of hospital care for COPD exacerbations in the UK. Respiratory Medicine (2007) 101, 754–761 4. Kylie A. Mcintosh, David J. Maxwell, Lisa K. Pulver et al. A quality improvement initiative to improve adherence to national guidelines for empiric management of community-acquired pneumonia in emerency departments. International Journal for Quality in Health Care 2011; Volume 23, Number 2: pp. 142–150 5. Lynne A Allery, Penny A Owen, Michael R Robling. Why general practitioners and consultants change their clinical practice: a critical incident study. BMJ 1997;314:870–4 6. Huong-Thao Nguyen, Tuan-Dung Nguyen, Edwin R. van den Heuvel và cs. Medication Errors in Vietnamese Hospitals: Prevalence, Potential Outcome and Associated Factors. PLOS ONE | DOI:10.1371/journal.pone.0138284 September 18, 2015. 7. Ahmed K, Ashrafian H. Life-long learning for physicians. Science 2009. 326(5950):227. doi: 10.1126/science.326_227a. PMID 19815754 8. Rita Wutoh, Suzanne Austin Boren, E. Andrew Balas. elearning: A Review of Internet-Based Continuing Medical Education. Journal of Continuing Education in the Health Professions. Volume 24, pp. 20-30. 9. Nima Hemati, Soghra Orani. A Comparison of internet-based learning and traditional classroom lecture CPR for continuing medical education. Turkish Online Journal of Distance Education- TOJDE January 2013 ISSN 1302-6488 Volume: 14 Number: 1 Article 22 10. Dung PT, Chinh ND, Hanh BM, Notter J. Evaluating a training programme at Viet Duc University Hospital in Vietnam. Br J Nurs. 2016 Jun 23;25(12):S14-21. doi: 10.12968/bjon.2016.25.12. S14.
File đính kèm:
mot_so_nhan_xet_so_bo_ve_ky_nang_thuc_hanh_hen_copd_va_viem.pdf