Một số nguyên nhân cản trở việc triển khai các giải pháp tài chính phát triển các khu công nghiệp theo hướng bền vững ở Vĩnh Phúc

Tính đến tháng 10 năm 2019, tỉnh Vĩnh Phúc có 13 KCN đã và đang hoạt động với tổng quy mô là 2.653

ha, trong đó tổng diện tích đất công nghiệp theo quy hoạch là 1.880,5 ha. Theo Ban Quản lý các KCN tỉnh

Vĩnh Phúc, tính đến nay các KCN trong tỉnh có tổng số 224 dự án đầu tư còn hiệu lực, trong đó có 44 dự

án đầu tư trực tiếp trong nước (DDI) với tổng vốn đầu tư 15.070,51 tỷ đồng và 180 dự án đầu tư trực tiếp

nước ngoài (FDI) với tổng vốn đầu tư 2.699,73 triệu USD. Tỷ lệ dự án đã và đang hoạt động là 82,6% (gồm

185 dự án); chỉ còn 17,4% hiện chưa hoạt động, bao gồm 13 dự án đang triển khai xây dựng và lắp đặt

máy móc thiết bị nhà xưởng; 21 dự án mới cấp và đang làm các thủ tục triển khai dự án và bồi thường,

giải phóng mặt bằng và 5 dự án FDI thuộc diện giãn tiến độ, đang làm thủ tục chấm dứt hoạt động.

pdf 5 trang phuongnguyen 200
Bạn đang xem tài liệu "Một số nguyên nhân cản trở việc triển khai các giải pháp tài chính phát triển các khu công nghiệp theo hướng bền vững ở Vĩnh Phúc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số nguyên nhân cản trở việc triển khai các giải pháp tài chính phát triển các khu công nghiệp theo hướng bền vững ở Vĩnh Phúc

Một số nguyên nhân cản trở việc triển khai các giải pháp tài chính phát triển các khu công nghiệp theo hướng bền vững ở Vĩnh Phúc
54 Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
TAØI CHÍNH DOANH NGHIEÄP Soá 12 (197) - 2019
Con số về giá trị công nghiệp mà các KCN đã 
đóng góp số thu về NSNN tỉnh rất lớn. Chính sự 
phát triển các KCN đã tạo cho Vĩnh Phúc từ một 
tỉnh nghèo không cân đối được NS trở thành một 
trong những tỉnh đầu tiên của khu vực có số thu 
lớn, cân đối được NSĐP.
Để có được thành quả trên đây của các KCN, 
tỉnh đã ban hành và áp dụng nhiều chính sách 
kinh tế, kỹ thuật để thúc đẩy sự phát triển của 
chúng. Trong đó, nhóm các giải pháp và chính 
sách tài chính luôn được xem là những công cụ 
tạo động lực thu hút và thúc đẩy các nhà đầu tư 
mạnh mẽ nhất. Bởi vì các chính sách và giải pháp 
tài chính của địa phương cũng như của các doanh 
nghiệp đều trực tiếp liên quan đến chi phí, vốn, 
doanh thu và lợi nhuận của các doanh nghiệp.
Bên cạnh những thành quả được xem xét phân 
tích cả ở góc độ định tính và định lượng của các 
giải pháp tài chính đối với sự phát triển bền vững 
của các KCN tỉnh Vĩnh Phúc thời gian qua còn 
khá nhiều tồn tại và hạn chế.
Thứ nhất, các giải pháp tài chính của tỉnh 
Vĩnh Phúc áp dụng nguyên bản chính sách của 
nhà nước mà chưa tạo được sự khác biệt. Trong 
khi một số địa phương khác đã chủ động đề xuất, 
kiến nghị và thực hiện những giải pháp sáng tạo 
và linh hoạt hơn để thu hút đầu tư và khuyến 
khích đầu tư theo hướng có lợi cho cộng đồng các 
doanh nghiệp thì tỉnh Vĩnh Phúc lại chưa thực 
hiện được điều này. Các chính sách ưu đãi đầu 
MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN CẢN TRỞ VIỆC TRIỂN KHAI 
CÁC GIẢI PHÁP TÀI CHÍNH PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP 
THEO HƯỚNG BỀN VỮNG Ở VĨNH PHÚC 
Ths. Bùi Hữu Phú*
Ngày nhận bài: 4/10/2019
Ngày chuyển phản biện: 6/10/2019
Ngày nhận phản biện: 19/10/2019
Ngày chấp nhận đăng: 23/10/2019
Tính đến tháng 10 năm 2019, tỉnh Vĩnh Phúc có 13 KCN đã và đang hoạt động với tổng quy mô là 2.653 
ha, trong đó tổng diện tích đất công nghiệp theo quy hoạch là 1.880,5 ha. Theo Ban Quản lý các KCN tỉnh 
Vĩnh Phúc, tính đến nay các KCN trong tỉnh có tổng số 224 dự án đầu tư còn hiệu lực, trong đó có 44 dự 
án đầu tư trực tiếp trong nước (DDI) với tổng vốn đầu tư 15.070,51 tỷ đồng và 180 dự án đầu tư trực tiếp 
nước ngoài (FDI) với tổng vốn đầu tư 2.699,73 triệu USD. Tỷ lệ dự án đã và đang hoạt động là 82,6% (gồm 
185 dự án); chỉ còn 17,4% hiện chưa hoạt động, bao gồm 13 dự án đang triển khai xây dựng và lắp đặt 
máy móc thiết bị nhà xưởng; 21 dự án mới cấp và đang làm các thủ tục triển khai dự án và bồi thường, 
giải phóng mặt bằng và 5 dự án FDI thuộc diện giãn tiến độ, đang làm thủ tục chấm dứt hoạt động.
• Từ khóa: giải pháp tài chính, phát triển bền vững, khu công nghiệp.
As of October 2019, Vinh Phuc province has 13 
industrial parks which have been operating with 
a total scale of 2,653 hectares, of which the total 
planned industrial land area is 1,880.5 hectares. 
According to the Vinh Phuc Industrial Zones 
Authority, up to now, there are a total of 224 valid 
investment projects in the province, including 44 
domestic direct investment (DDI) projects with a 
total investment of 15,070. , VND 51 billion and 
180 foreign direct investment (FDI) projects with 
total investment capital of USD 2,699.73 million. 
The proportion of projects that have been operating 
is 82.6% (including 185 projects); only 17.4% are 
currently inactive, including 13 projects that are 
currently constructing and installing workshops 
and machines; 21 newly granted projects and 
procedures for project implementation and 
compensation, site clearance and 5 FDI projects 
subject to tempo extension and procedures for 
termination of operation.
• Keywords: financial solutions, sustainable 
development, industrial parks.
* Cục quản lý giám sát bảo hiểm
55Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
TAØI CHÍNH DOANH NGHIEÄPSoá 12 (197) - 2019
tư, các công cụ tài chính quan trọng như thuế, phí 
chưa có điểm nhấn rõ ràng để khuyến khích các 
nhà đầu tư công nghiệp.
Thứ hai, các giải pháp tài chính còn ít và 
nghèo nàn, chưa thể hiện được độ đa dạng trong 
việc sử dụng các công cụ tài chính thúc đẩy sự 
phát triển của các KCN. Các giải pháp tài chính 
qua công cụ thuế vẫn chỉ dừng lại ở hai loại thuế 
chủ yếu để tác động đến các doanh nghiệp đó là 
thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế xuất nhập 
khẩu, do đó chưa tạo được động lực hấp dẫn 
đối với các nhà đầu tư. Hàng năm chưa kịp thời 
công bố công khai các khoản miễn giảm đối với 
các KCN, do vậy chưa tác động được vào tâm lý 
của các chủ thể được thụ hưởng chính sách của 
địa phương. 
Thứ ba, chưa mạnh dạn sử dụng công cụ chi 
NS, cụ thể các công trình, hạng mục đầu tư bằng 
nguồn ngân sách địa phương đã được chú trọng 
nhưng còn chưa tương xứng so với nhu cầu. Mặc 
dù tỉnh đã rất chú trọng cho cơ sở hạ tầng như xây 
dựng hệ thống xử lý nước 
thải công nghiệp, hệ thống 
chiếu sáng, giải phóng mặt 
bằng, đường giao thông 
song so với sự phát triển 
của các KCN thì vẫn chưa 
tương xứng. Ngoài ra, các 
khoản chi đầu tư cho xây 
dựng nhà ở cho công nhân, 
trợ giá xe buýt, hỗ trợ cho 
nông dân sau khi nhường 
đất cho KCN, chi phát 
triển dịch vụ hỗ trợ KCN 
chưa được quan tâm thỏa 
đáng. Mặc dù những nội 
dung này hỗ trợ một cách 
gián tiếp cho sự phát triển 
của các KCN nhưng chúng 
lại có những tác động rất 
lớn đến các KCN ở nhiều 
phương diện liên quan đến 
sự phát triển bền vững.
Thứ tư, các chương 
trình hỗ trợ tín dụng chưa 
phát huy hiệu quả. Hầu hết 
các nhà đầu tư vào KCN 
đều chưa tiếp cận với các chương trình này. Mặc 
dù các ưu đãi tín dụng có thể vượt khả năng và 
thẩm quyền của địa phương song tỉnh có thể xây 
dựng đề án và xin cơ chế riêng cho tín dụng ưu 
đãi ở địa phương mình.
Đối với các doanh nghiệp việc thực hiện các 
giải pháp tài chính còn có những hạn chế sau:
- Các chính sách của doanh nghiệp chủ yếu 
do bắt buộc của các quy định chứ không phải do 
doanh nghiệp tự nguyện như: đầu tư trung tâm xử 
lý môi trường KCN, thanh toán phí môi trường, 
mua bảo hiểm các loại.
- Các doanh nghiệp chưa chủ động và tích cực 
trích lập và sử dụng các quỹ tài chính liên quan 
đến sự bền vững của quá trình hoạt động của các 
KCN như quỹ bảo vệ môi trường, quỹ hỗ trợ 
người lao động, các quỹ phúc lợi dành cho người 
lao động. Kết quả phân tích ở trên cho thấy mới 
có một tỷ lệ nhỏ các doanh nghiệp trích lập và 
vận hành quỹ này.
MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN CẢN TRỞ VIỆC TRIỂN KHAI CÁC GIẢI PHÁP 
TÀI CHÍNH PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG BỀN VỮNG 
Ở VĨNH PHÚC 
 Ths. Bùi Hữu Phú 
Tính đến tháng 10 năm 2019 tỉnh Vĩnh Phúc có 13 KCN đã và đang hoạt động với 
tổng quy mô là 2.653 ha, trong đó tổng diện tích đất công nghiệp theo quy hoạch là 
1.880,5 ha. Theo Ban Quản lý các KCN tỉnh Vĩnh Phúc, tính đến nay các KCN trong tỉnh 
có tổng số 224 dự án đầu tư còn hiệu lực, trong đó có 44 dự án đầu tư trực tiếp trong 
nước (DDI) với tổng vốn đầu tư 15.070,51 tỷ đồng và 180 dự án đầu tư trực tiếp nước 
ngoài (FDI) với tổng vốn đầu tư 2.699,73 triệu USD. Tỷ lệ dự án đã và đang hoạt động là 
82,6% (gồm 185 dự án); chỉ còn 17,4% hiện chưa hoạt động, bao gồm 13 dự án đang 
triển khai xây dựng và lắp đặt máy móc thiết bị nhà xưởng; 21 dự án mới cấp và đang 
làm các thủ tục triển khai dự án và bồi thường, giải phóng mặt bằng và 5 dự án FDI thuộc 
diện giãn tiến độ, đang làm thủ tục chấm dứt hoạt động.1 
Bảng 01. Giá trị sản xuất công nghiệp từ các KCN Vĩnh Phúc 2014-2019 
ĐVT: Triệu VND 
2010 
(Theo giá 
1994) 
2014 
(Theo giá 
2010) 
2015 
(Theo giá 
2010) 
2016 
(Theo giá 
2010) 
2017 
(Theo giá 
2010) 
2018 
(Theo giá 
2010) 
6 tháng 2019 
(Theo giá 
2010) 
KCN Khai Quang 2.762,35 12.910,98 20.260,67 30.481,97 32.036,05 35.833,62 18.412,91 
KCN Bình Xuyên 631.001.866,5 7.281,82 7.202,67 874,45 9.940,96 11.545,75 4.494,39 
KCN Bình Xuyên II 0 - 7,90 94,15 1.127,81 2.406,25 1.128,78 
KCN Bá Thiện I 174,08 2.850,43 6.630,98 14.438,75 16.818,97 80.973.751,99 
KCN Bá Thiện II 0 - 243,94 1.245,03 4.697,72 10.164,32 50.905.414,42 
KCN Kim Hoa 21.835,84 45.101,17 49.709,85 49.749.44 
Tổng thu 25.229,19 64.080,20 80.230,59 96.986,02 44.252,43 
 Nguồn: Ban Quản lý các KCN Vĩnh Phúc, năm 2017, 2018 & 2019 chưa bao gồm KCN Kim Hoa 
Không chỉ con số về giá trị công nghiệp mà các KCN đã đóng góp số thu về NSNN tỉnh 
rất lớn. Chính sự phát triển các KCN đã cho Vĩnh Phúc từ một tỉnh nghèo khong cân đối 
được NS trở thành một trong các tỉnh đầu tiên của khu vực có số thu lớn, cân đối được 
NSĐP 
1 https://banqlkcn.vinhphuc.gov.vn/noidung/tintuc/Lists/thongtinkinhte/View_Detail.aspx?ItemID=45 
Bảng 02. Số thu từ các KCN Vĩnh Phúc 2010-2018 
ĐVT: Triệu VND 
 Năm 
KCN 
2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 
Bá thiện I 13 55 16 17 95 99 399 4.088 15.929 
Bá Thiện II 3 3 11 890 1.860 33 4.557 14.862 24.936 
Bình Xuyên I 127.242 145.991 137.969 184.267 167.205 194.223 226.911 170.683 247.844 
Bình Xuyên II 9 9 12 10 9 5.474 1.293 9.002 21.205 
Khai Quang 69.545 86.805 137.781 182.457 323.674 340.574 345.500 371.035 426.384 
Kim Hoa 1.603.121 1.557.224 1.619.372 3.572.686 4.615.443 5.771.207 8.383.183 7.029.206 8.852.474 
Tổng thu 1.799.843 1.790.087 1.895.160 3.940.328 5.108.286 6.311.611 8.691.842 7.598.867 9.588.772 
Nguồn: Cục Thuế tỉnh Vĩnh Phúc 
Để có được thành quả trên đây của các KCN, tỉnh đã ban hành và áp đụng nhiều 
chính sách kinh tế kỹ thuật để thúc đẩy sự phát triể của chúng. Trong đó, nhóm các giải 
pháp và chính sách tài chính luôn được xem là những công cụ tạo động lực thu hút và 
thúc đẩy các nhà đầu tư mạnh mẽ nhất. Bởi vì các chính sách và giải pháp tài chính của 
địa phương cũng như của các doanh nghiệp đều trực tiếp liên quan đến chi phí, vốn, 
doanh thu và lợi nhuận của các doanh nghiệp. 
 Bên cạnh những thành quả được xem xét phân tích cả ở góc độ định tính và định 
lượng của các giải pháp tài chính đối với sự phát triển bền vững của các KCN tỉnh Vĩnh 
Phúc thời gian qua òn khá nhiều tồn tại và hạn chế.
 Thứ nhất, các giải pháp tài chính của tỉnh Vĩnh Phúc áp dụng nguyên bản chính 
sách của nhà nước mà chưa tạo được sự khác biệt. Trong khi một số địa phương khác đã 
chủ động đề xuất, kiến nghị và thực hiện những giải pháp sáng tạo và linh hoạt hơn để 
thu hút đầu tư và khuyến khíc đầu tư theo hướng có lợi cho cộng đồng các doanh nghiệp 
thì tỉnh Vĩnh Phúc lại chưa thực hiện được điều này. Các chính sách ưu đãi đầu tư, các 
công cụ tài chính quan trọng như thuế, phí chưa có điểm nhấn rõ ràng để khuyến khích 
các nhà đầu tư công nghiệp. 
Thứ hai, các giải pháp tài chính còn ít và nghèo nàn, chưa thể hiện được độ đa 
dạng trong việc sử dụng các công cụ tài chính thúc đẩy sự phát triển của các KCN. Các 
giải pháp tài chính qua công cụ thuế vẫn chỉ dừng lại ở hai loại thuế chủ yếu để tác động 
đến các doanh nghiệp đó là thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế xuất nhập khẩu, o đó 
chưa tạo được động lực hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Hàng năm chưa kịp thời công bố 
công khai các khoản mễn giảm đối với các KCN, do vậy chưa tác động được vào tâm lý 
của các chủ thể được thụ hưởng chính sách của địa phương. 
 T ứ ba, hưa mạnh dạn sử dụng công cụ chi NS, cụ thể các công trình, hạng mục 
đầu tư bằng nguồn ngân sách địa phương đã được chú trọng nhưng còn chưa tương xứng 
so với nhu cầu. Mặc dù tỉnh đã rất chú trọng cho cơ sở hạ tầng như xây dựng hệ thống xử 
56 Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
- Các doanh nghiệp vẫn chưa thực sự quan 
tâm đến các vấn đề môi trường tự nhiên như cây 
xanh, tiếng ồn, khói bụi mà mới chỉ tập trung 
vào xử lý nước thải, chất thải rắn theo quy định. 
Việc thanh toán theo quy định của chủ đầu tư hạ 
tầng và công ty dịch vụ, các doanh nghiệp coi 
đó là các chi phí trích ra từ doanh thu, chưa hạch 
toán dạng quỹ, chưa căn cứ tỷ lệ trên doanh thu 
để sử dụng cho các mục đích này. Trong khi đó, 
các vấn đề nêu ra trong hạn chế này lại chính là 
những nội dung của sự bền vững các KCN trong 
giai đoạn tiếp theo.
- Chính sách nhà ở và phương tiện đi lại cho 
người lao động hiện vẫn bị bỏ ngỏ. Đến năm 
2019 mới chỉ có một KCN tại địa phương có đầu 
tư nhà ở cho người lao động, đáp ứng một tỷ lệ 
thấp đối với nhu cầu. Về phương tiện di chuyển, 
các doanh nghiệp công nghiệp tại Vĩnh Phúc mới 
chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu của bộ phận 
làm việc gián tiếp, bộ phận làm việc trực tiếp phải 
tự lo phương tiện đi lại. Với hệ thống hạ tầng giao 
thông ở các địa phương hiện nay, việc người lao 
động tự lo phương tiện đi lại sẽ trở thành một 
nhân tố ảnh hưởng không tích cực đến sự bền 
vững của các doanh nghiệp và các KCN. Chỗ ở 
dưới các hình thức ở nhờ, thuê trọ ở gần KCN.
- Các doanh nghiệp hạ tầng chủ yếu thực hiện 
chiến lược đầu tư dần, do vậy cũng ảnh hưởng 
đến hình ảnh và thiết kế, quy hoạch chung của 
KCN, khó đảm bảo tính đồng bộ theo thiết kế ban 
đầu, từ đó tính bền vững sẽ bị ảnh hưởng theo 
chiều không tích cực.
- Các chính sách về tài chính đối với người 
lao động tại các KCN chưa được thực hiện thỏa 
đáng, chưa thực sự phù hợp với một địa phương 
có công nghiệp phát triển như Vĩnh Phúc. Cụ thể 
đó là các chính sách đãi ngộ, hỗ trợ người lao 
động, chưa được quan tâm đúng mức.
Nguyên nhân của những hạn chế
Một số nguyên nhân thuộc về thể chế và 
chính sách của Nhà nước
Thứ nhất, quy định chưa rõ ràng. Nhiều quy 
định về KCN, cao nhất là Nghị định của Chính 
phủ về KCN đã ban hành và áp dụng nhưng quá 
trình thực thi còn có những bất cập nhất định. 
Theo quy định của Nghị định, các chủ đầu tư hạ 
tầng công nghiệp phải đầu tư trung tâm xử lý 
nước thải công nghiệp. Tuy nhiên, cụ thể như thế 
nào thì lại không quy định, từ đó tạo kẽ hở cho 
các chủ đầu tư hạ tầng, khi đó xảy ra một số tình 
huống: (1) Chủ đầu tư có xây dựng nhưng với 
quy mô công suất nhỏ hơn với nhu cầu thực tế, 
kết quả là không đáp ứng được nhu cầu của cả 
KCN; (2) Chủ đầu tư không xây dựng hạng mục 
này, xuất phát từ nhiều lý do trong đó một lý do 
là vốn đầu tư lớn; (3) Chủ đầu tư xây dựng trung 
tâm xử lý đáp ứng được công suất hoạt động của 
khu ở giai đoạn đầu với một diện tích nhất định, 
sau đó đầu tư tiếp giai đoạn hai chủ đầu tư phớt lờ 
hạng mục này nên không đáp ứng được nhu cầu. 
Riêng đối với vấn đề này cần phải luật hóa mới 
đủ mạnh để đạt các mục tiêu quản lý.
Ngoài ra, phần diện tích cây xanh trong KCN 
cũng không được quy định cụ thể, do vậy trong 
báo cáo của các chủ đầu tư có cây xanh nhưng 
trên thực tế không có hoặc có rất ít.
Về chiếu sáng KCN, đây cũng là vấn đề nổi 
cộm, chưa được quy định cụ thể, phần diện tích 
chung của KCN được chiếu sáng đầy đủ sẽ góp 
phần tích cực đảm bảo an toàn an ninh cho các 
chủ thể. Hiện nay, nhiều KCN ở Vĩnh Phúc và các 
địa phương lân cận đang xảy ra tình trạng chiếu 
sáng không đảm bảo, xảy ra tình trạng an ninh 
không đảm bảo, tác động không tốt đến tâm lý 
các doanh nghiệp và người lao động trong KCN.
Tất cả các vấn đề trên đối với chủ đầu tư hạ 
tầng thực chất đều xuất phát từ lý do liên quan 
đến chi tiêu tài chính của chủ đầu tư. Giai đoạn 
đầu tư KCN cần nhiều vốn nhưng nguồn thu chưa 
có, việc đầu tư đồng bộ cũng rất khó khăn, các 
Hình thức phổ biến đáp ứng nhu cầu về nhà ở 
của công nhân các KCN Vĩnh Phúc 
Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả 
- Các doanh nghiệp hạ tầng chủ yếu thực hiện chiến lược đầu tư dần, do vậy cũng 
ảnh hưởng đến hình ảnh và thiết kế, uy hoạch chung của KCN, k ó đảm bảo tính đồng 
bộ theo thiết kế ban đầu, từ đó tính bền vững sẽ bị ảnh hưởng theo chiều không tích cực. 
- Các chính sách về tài chính đối với người lao động tại các KCN chưa được thực 
hiện thỏa đáng, chưa thực sự phù hợp với một địa phương có công nghiệp phát triển như 
Vĩnh Phúc. Cụ thể đó là các chính sách đãi ngộ, hỗ trợ người lao động, chưa được quan 
tâm đúng mức. 
Tự đi thuê nhà 
ở xung quanh 
các KCN 
67% 
Ở tại gia đình 
gần KCN 
24% 
Ở trong các khu 
dịch vụ nằm 
trong các KCN 
2% 
Ở trong các nhà 
do các DN tự 
đầu tư bên 
ngoài KCN 
7% 
TAØI CHÍNH DOANH NGHIEÄP Soá 12 (197) - 2019
57Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
TAØI CHÍNH DOANH NGHIEÄPSoá 12 (197) - 2019
chủ đầu tư thường dựa vào những điểm thiếu chặt 
chẽ của chính sách để hoạt động.
Thứ hai, chế tài chưa đủ mạnh
Đối với chủ đầu tư hạ tầng công nghiệp, như 
phân tích trên do những quy định của nghị định 
và các thông tư hướng dẫn, các chính sách liên 
quan chưa cụ thể rõ ràng, trong nhiều năm qua 
vẫn chưa có sự thay đổi đáng kể. Nghị định của 
chính phủ quy định chưa cụ thể, nếu có hướng 
dẫn thực hiện cụ thể thì các chủ thể sẽ vẫn tuân 
thủ đầy đủ. Ví dụ, có xây dựng hạng mục xử lý 
nước thải nhưng nếu công suất thấp hơn sẽ bị 
phạt mức độ nào, nếu không xây dựng hạng mục 
này có bị đình chỉ hoạt động hay không.
Những nguyên nhân từ phía chính quyền 
địa phương:
Thứ nhất, địa phương chưa chủ động xây 
dựng và áp dụng chính sách ưu đãi riêng của 
tỉnh đối với việc hỗ trợ phát triển các KCN. Các 
ưu đãi về tài chính đều thực hiện đúng theo các 
chương trình và chính sách của TW mà chưa có 
chủ trương xây dựng chính sách ưu đãi cụ thể để 
thể hiện rõ hơn quan điểm thu hút đầu tư của tỉnh. 
Ngoài các chính sách ưu đãi về tài chính của Nhà 
nước, nếu địa phương có chính sách riêng sẽ tạo 
ra động lực thu hút mạnh hơn, các nhà đầu tư sẽ 
có sự so sánh nhất định trong việc lựa chọn cơ 
hội đầu tư.
Thứ hai, địa phương chưa thực hiện chính 
sách đa dạng các nguồn vốn trong đầu tư hỗ trợ 
các KCN. Đây cũng là một trong số các nguyên 
nhân thiếu nguồn tài trợ vốn cho xây dựng và phát 
triển các KCN. Trong điều kiện ngân sách địa 
phương còn eo hẹp, thực hiện đa dạng các nguồn 
vốn đầu tư là rất cần thiết và hiệu quả. Tuy nhiên 
tại địa phương này, trong thời gian qua chưa có 
một chính sách nào được ban hành để thực hiện 
đa dạng các nguồn vốn đầu tư thúc đẩy quá trình 
phát triển các KCN. Trong khi mô hình đầu tư tư 
nhân và mô hình hợp tác công tư trong huy động 
vốn xây dựng các công trình, hạng mục hỗ trợ 
KCN đã và đang được thực hiện có hiệu quả ở 
nhiều quốc gia và một số địa phương trong nước.
Thứ ba, tỉnh chưa sử dụng giải pháp chi NS 
một cách thỏa đáng để tác động thúc đẩy phát 
triển các KCN là do ngân sách còn khó khăn và 
nguồn thu hạn chế. Tổng số thu ngân sách hàng 
năm tại địa phương đã đạt và vượt mức để cân 
đối thu chi địa phương nhưng vẫn chưa có khoản 
NSĐP nào để cho các hạng mục, các công trình, 
chương trình hỗ trợ các KCN. Cơ cấu kinh tế đã 
có xu hướng chuyển dịch tích cực những giá trị 
tạo ra từ hai khu vực công nghiệp và dịch vụ đã 
tăng cao, kinh tế địa phương chủ yếu tập trung 
vào công nghiệp, kéo theo nguồn thu từ sản xuất 
công nghiệp và dịch vụ khá lớn. Tuy vậy, NSĐP 
ưu tiên cho công nghiệp vẫn chỉ dừng lại ở định 
hướng, chưa đi vào thực tế được nhiều. NSĐP 
ưu tiên cho công nghiệp mới chỉ là các lĩnh vực 
mang tính gián tiếp đối với các chủ thể.
Thứ tư, cho đến nay tỉnh Vĩnh Phúc vẫn chưa 
xây dựng và thực hiện ưu đãi tín dụng đối với 
các dự án đầu tư vào các KCN (chưa đánh giá 
được vai trò, tác dụng của đòn bẩy tín dụng đối 
với các KCN, các chủ đầu tư sơ cấp và thứ cấp). 
Đối với các nhà đầu tư thứ cấp và công ty hạ 
tầng, hoạt động đầu tư vào KCN luôn cần lượng 
vốn lớn, trong khi nguồn vốn tự có hạn chế, 
các doanh nghiệp cơ bản trông chờ vào vốn tín 
dụng. Nguồn vốn vay tín dụng với những ưu đãi 
về lãi suất sẽ giúp các doanh nghiệp tiết kiệm 
chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh 
đạt các mục tiêu lâu dài và bền vững. Do đó, khi 
các chính sách tín dụng chưa được thiết kế hợp 
lý sẽ trở thành một trở lực đối với quyết định 
đầu tư của các doanh nghiệp.
Thứ năm, chưa quan tâm, nhận thức, đánh 
giá đúng vai trò của các dịch vụ hỗ trợ phi tài 
chính, chưa có ưu đãi, hỗ trợ tài chính đối với 
các dịch vụ hỗ trợ này. Đây được coi là một 
trong những nguyên nhân làm giảm sự hấp dẫn 
của các KCN trên địa bàn. Hệ thống các dịch vụ 
hỗ trợ kinh doanh là một trong các nhân tố đảm 
bảo hiệu quả hoạt động và phát triển bền vững 
của các KCN. Để phát triển hệ thống dịch vụ cần 
có chính sách khuyến khích ở mức độ hợp lý đối 
với các tổ chức cung cấp dịch vụ. Với tư cách 
là các thực thể kinh doanh trong nền kinh tế, 
các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cũng rất cần 
được các ưu đãi tài chính như chính sách miễn 
giảm thuế các loại, hỗ trợ tín dụng, trợ giá một 
số dịch vụ phi kinh doanh, mặt bằng kinh doanh. 
Trong thời gian qua, tại địa phương chưa ưu đãi, 
chưa chú trọng phát triển các dịch vụ này, do đó 
năng lực cung cấp hạn chế.
58 Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
Nguyên nhân từ phía các doanh nghiệp
Thứ nhất, tính phụ thuộc cao. Hầu hết các 
doanh nghiệp thứ cấp đều là các công ty, chi 
nhánh của các công ty mẹ có trụ sở ở nước ngoài. 
Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều do chiến 
lược kinh doanh được chỉ đạo từ đại bản doanh 
của chúng. Các nhà quản lý đang thực hiện công 
việc và nhiệm vụ tại các KCN ở Việt Nam không 
được vượt khỏi ranh giới quyền hạn đó. Các 
quyết định lớn đều phải trực tiếp hoặc gián tiếp 
xin ý kiến cấp trên, đặc biệt là các quyết định về 
tài chính. Thực tế này là một rào cản trong hoạt 
động của các doanh nghiệp.
Thứ hai, quy mô nhỏ cũng là một nguyên 
do dẫn đến các tồn tại trên. Hoạt động với một 
quy mô nhỏ, chẳng hạn là các công ty vệ tinh 
của các doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp cũng 
có những khó khăn nhất định. Quy mô không đủ 
lớn khó có thể bài bản, về cơ cấu tổ chức chưa 
hoàn chỉnh, chiến lược chưa rõ ràng và năng lực 
tài chính yếu là những đặc trưng của các doanh 
nghiệp nhỏ. Đối với các doanh nghiệp làm vệ 
tinh. Mặc dù đầu ra có sẵn nhưng cũng tạo tính 
phụ thuộc lớn, trường hợp khách hàng khó khăn 
sẽ kéo theo hệ lụy cho các doanh nghiệp kiểu này. 
Với những lý do đó, bắt buộc các doanh nghiệp 
quan tâm đầu tư đến các hạng mục khác như cây 
xanh, xử lý tiếng ồn, khói bụi, nhà ở cho công 
nhân và phương tiện đi lại của họ là một khó 
khăn, không thể giải quyết một sớm một chiều.
Thứ ba, các doanh nghiệp mới đi vào hoạt 
động. Mới hoạt động là đặc trưng cơ bản của 
các doanh nghiệp công nghiệp và các KCN Vĩnh 
Phúc. Tại các KCN của địa phương chỉ có một, 
hai KCN hoạt động thời gian tương đối dài, trong 
đó KCN Kim Hoa chỉ có một doanh nghiệp hoạt 
động (Công ty HONDA Việt Nam). Số còn lại 
đều mới ở giai đoạn đầu tư, các doanh nghiệp 
đang trong thời gian chạy thử là chủ yếu, ở giai 
đoạn này các doanh nghiêp chi nhiều hơn thu. Do 
đó các khoản chi ít liên quan đến kết quả trực tiếp 
sẽ khó được thực hiện hơn. Ví dụ, chi phí hỗ trợ 
nhà ở cho công nhân, phương tiện đi lại, một số 
loại bảo hiểm đặc thù sẽ trở thành những khoản 
chi rất khó khăn đối với doanh nghiệp.
Thứ tư, ý thức, tinh thần của doanh nghiệp. 
Đây là nguyên nhân mang tính chủ quan đối với 
doanh nghiệp. Trong nhiều trường hợp không 
thuộc các nguyên nhân kể trên, điều kiện của 
doanh nghiệp hoàn toàn có thể đáp ứng về tài 
chính cho các chỉ tiêu bền vững nhưng các doanh 
nghiệp vẫn không thực hiện. Các doanh nghiệp 
này thường tìm mọi cách chây ì các khoản phí bảo 
hiểm, bỏ qua một số sản phẩm bảo hiểm không 
mang tính bắt buộc. Các chi phí có liên quan và 
mang tính hỗ trợ người lao động không được các 
doanh nghiệp thuộc nhóm này quan tâm.
Thứ năm, các doanh nghiệp thiếu chiến lược, 
chủ yếu hoạt động theo dạng tự phát. Thực tế này 
không chỉ là các doanh nghiệp vốn đầu tư trong 
nước mà các doanh nghiệp nước ngoài cũng có 
một số. Không phải bản thân các doanh nghiệp 
không xây dựng được chiến lược mà thực chất 
là hoạt động kinh doanh kiểu chộp giật. Các chỉ 
tiêu kinh doanh chủ yếu tập trung vào doanh số, 
lợi nhuận và tìm mọi cách cắt giảm các chi phí 
có liên quan. Đặc biệt có những doanh nghiệp bỏ 
trốn sau một số năm hoạt động để lại một khoản 
nợ lớn. Trường hợp khác, doanh nghiệp chuyển 
nhượng nhà xưởng, thiết bị cho các nhà đầu tư 
mới. Đối với các doanh nghiệp thuộc nhóm này 
các chi phí cho mục tiêu phát triển bền vững 
không được quan tâm, xem xét.
 Việc xác định chính xác các nguyên nhân 
khách quan và chủ quan như trên sẽ được coi 
là căn cứ, là cơ sở để đề xuất các kiến nghị và 
giải pháp tài chính sát thực đối với các chủ thể 
liên quan.
Tài liệu tham khảo:
Ban Quản lý các KCN Vĩnh Phúc, Báo cáo tổng kết hoạt 
động các năm 2010-2018.
 Cục Thuế tỉnh Vĩnh Phúc, Báo cáo kết quả thu thuế 
các KCN.
Cục Thống kê Vĩnh Phúc, Niên giám thống kê năm 
2016, 2017 & 2018.
https://banqlkcn.vinhphuc.gov.vn/noidung/tintuc/Lists/
thongtinkinhte/View_Detail.aspx?ItemID=45
Kết quả khảo sát của tác giả tại tỉnh Vĩnh Phúc 2018
Ban quản lý khu công nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc.
https://banqlkcn.vinhphuc.gov.vn/noidung/tintuc/Lists/
thongtinkinhte/View_Detail.aspx?ItemID=45
Trung tâm Hành chính công tỉnh Vĩnh Phúc.
TAØI CHÍNH DOANH NGHIEÄP Soá 12 (197) - 2019

File đính kèm:

  • pdfmot_so_nguyen_nhan_can_tro_viec_trien_khai_cac_giai_phap_tai.pdf