Một số mô hình thường được áp dụng trên thế giới để đánh giá chất lượng Báo cáo tài chính của doanh nghiệp xây dựng

Tóm tắt

Chất lượng báo cáo tài chính (BCTC) có ý nghĩa

quan trọng đối với không chỉ các nhà đầu tư,

các nhà cho vay, mà còn đối với các đối thủ cạnh

tranh của doanh nghiệp xây dựng hay các cơ

quan quản lý Nhà nước. Thông tin trên BCTC giúp

các đối tượng này có những nhìn nhận chính xác

hơn về tính trung thực và hợp lý của việc lập và

trình bày các thông tin tài chính. Đồng thời, cũng

giúp các đối tượng này ra các quyết định phù hợp

liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh

nghiệp xây dựng. Bài viết này tổng hợp một số

mô hình đang được áp dụng để đánh giá chất

lượng BCTC nhằm giúp các nhà phân tích, các đối

tượng có liên quan có cơ sở đánh giá chính xác

nhất.

Từ khóa: báo cáo tài chính, hoạt động kinh doanh, đánh

giá chất lượng

Abstract

The quality of financial report has a significant meaning

not only to investors, lenders, but also to competitors

of construction enterprises or government agencies.

The information provided in the report helps these

agencies to have a more accurate view at the fidelity

and reasonability in the making and presenting the

financial information. Simultaneously, it helps these

agencies to make suitable decisions relating to business

activities of the construction enterprises. This paper

presents some models which are being applied in order

to evaluate the quality of the financial report so that

analysts and those who may concern can have good

base to get the most accurate evaluation.

Key words: financial report, business activities, evaluate

the quality

pdf 7 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Một số mô hình thường được áp dụng trên thế giới để đánh giá chất lượng Báo cáo tài chính của doanh nghiệp xây dựng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số mô hình thường được áp dụng trên thế giới để đánh giá chất lượng Báo cáo tài chính của doanh nghiệp xây dựng

Một số mô hình thường được áp dụng trên thế giới để đánh giá chất lượng Báo cáo tài chính của doanh nghiệp xây dựng
90 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG
KHOA H“C & C«NG NGHª
Một số mô hình thường được áp dụng trên thế giới 
để đánh giá chất lượng báo cáo tài chính 
của doanh nghiệp xây dựng
Some frequently applied models in the world to qualitative evaluation of the financial report 
of construction enterprises
Nguyễn Thu Hương
Tóm tắt
Chất lượng báo cáo tài chính (BCTC) có ý nghĩa 
quan trọng đối với không chỉ các nhà đầu tư, 
các nhà cho vay, mà còn đối với các đối thủ cạnh 
tranh của doanh nghiệp xây dựng hay các cơ 
quan quản lý Nhà nước. Thông tin trên BCTC giúp 
các đối tượng này có những nhìn nhận chính xác 
hơn về tính trung thực và hợp lý của việc lập và 
trình bày các thông tin tài chính. Đồng thời, cũng 
giúp các đối tượng này ra các quyết định phù hợp 
liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh 
nghiệp xây dựng. Bài viết này tổng hợp một số 
mô hình đang được áp dụng để đánh giá chất 
lượng BCTC nhằm giúp các nhà phân tích, các đối 
tượng có liên quan có cơ sở đánh giá chính xác 
nhất.
Từ khóa: báo cáo tài chính, hoạt động kinh doanh, đánh 
giá chất lượng
Abstract
The quality of financial report has a significant meaning 
not only to investors, lenders, but also to competitors 
of construction enterprises or government agencies. 
The information provided in the report helps these 
agencies to have a more accurate view at the fidelity 
and reasonability in the making and presenting the 
financial information. Simultaneously, it helps these 
agencies to make suitable decisions relating to business 
activities of the construction enterprises. This paper 
presents some models which are being applied in order 
to evaluate the quality of the financial report so that 
analysts and those who may concern can have good 
base to get the most accurate evaluation.
Key words: financial report, business activities, evaluate 
the quality.
ThS. Nguyễn Thu Hương
Bộ Môn Kinh Tế XD, Khoa Quản lý đô thị 
ĐT: 0983652295
Ngày nhận bài: 
Ngày sửa bài: 
Ngày duyệt đăng: 
1. Đặt vấn đề
Phân tích BCTC là một hệ thống các phương pháp tiếp cận các thông tin 
trên BCTC nhằm phục vụ cho mục tiêu ra quyết định. Các quyết định liên quan 
đến hệ thống BCTC doanh nghiệp rất đa dạng nhưng có một điểm chung đó 
là cùng đánh giá khả năng tạo ra dòng tiền của doanh nghiệp trong tương 
lai. Chính vì vậy, trong quá trình phân tích BCTC, các nhà phân tích thường 
quan tâm đến chất lượng BCTC đã công bố. Chất lượng BCTC có liên quan 
đến việc phản ánh trung thực, hợp lý về tình hình hoạt động kinh doanh của 
doanh nghiệp và những thông tin này rất hữu ích cho dự báo dòng tiền trong 
tương lai. 
BCTC được lập dựa trên cơ sở tuân thủ các chuẩn mực, chế độ kế toán. 
Yêu cầu của việc lập và trình bày BCTC phải đảm bảo tính trung thực, hợp lý 
và đáng tin cậy trong việc phản ánh tình hình và kết quả kinh doanh của doanh 
nghiệp xây dưng. Yêu cầu về tính hợp lý của thông tin tài chính cho phép nhà 
quản trị doanh nghiệp có thể linh hoạt trong việc vận dụng các chính sách, 
các phương pháp kế toán. Đồng thời, để đảm bảo được tính tin cậy cũng đòi 
hỏi nhà quản trị doanh nghiệp phải tuân thủ một cách chặt chẽ và chi tiết các 
chuẩn mực và chế độ kế toán. Tuy nhiên, trong thực tế BCTC của DN vẫn có 
thể bị tác động bởi các mục tiêu khác nhau của các nhà quản trị doanh nghiệp. 
DeAngelo (1986) đã chỉ ra bằng chứng về việc các nhà quản trị doanh nghiệp 
đã tác động vào lợi nhuận dồn tích cùng với những thay đổi kế toán để thực 
hiện hành vi quản trị lợi nhuận của doanh nghiệp. Schipper (1989) đã đề cập 
đến tính trung thực của việc lập và trình bày BCTC, trong đó đề cập đến hành 
vi can thiệp có cân nhắc trong quá trình cung cấp thông tin tài chính nhằm đạt 
được những mục đích của nhà quản trị. Trueman and Titman (1989) đã xem 
xét đến động cơ của các nhà quản trị trong việc “đánh bóng” BCTC và kết luận 
doanh nghiệp có hiệu quả kinh doanh càng thấp thì càng có động cơ can thiệp 
vào BCTC càng nhiều. Do đó, hành động can thiệp vào BCTC doanh nghiệp 
chính là sự vận dụng khéo léo, linh hoạt các chuẩn mực, chế độ kế toán của 
nhà quản trị doanh nghiệp sao cho có lợi nhất cho doanh nghiệp. 
Như vậy, hành động can thiệp vào BCTC doanh nghiệp xây dựng sẽ ảnh 
hưởng đến chất lượng thông tin cung cấp cho các nhà đầu tư và các đối tượng 
bên ngoài, từ đó ảnh hưởng đến việc ra quyết định của các đối tượng này. 
Bởi nó không phản ánh được bản chất, đôi khi có thể dẫn tới những thông 
tin sai lệch về tình hình tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh 
nghiệp xây dựng. Hành động can thiệp làm ảnh hưởng đến chất lượng BCTC 
thực tế luôn tồn tại, vậy làm thế nào để các đối tượng bên ngoài có thể đánh 
giá được về chất lượng BCTC doanh nghiệp xây dựng? Bài viết này sẽ tổng 
hợp một số mô hình dùng để đánh giá chất lượng BCTC doanh nghiệp nhằm 
giúp các nhà phân tích, các đối tượng bên ngoài có cơ sở để đo lường chất 
lượng BCTC. Trên cơ sở đó tạo điều kiện thuận lợi cho các bên liên quan có 
quyết định hợp lý đối với tình hình tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh 
của doanh nghiệp xây dựng. Trong đó, bài viết chủ yếu xem xét các mô hình 
đo lường chất lượng BCTC thông qua hành vi quản trị lợi nhuận trong doanh 
nghiệp. Đây là hành vi chủ yếu tác động đến doanh thu, chi phí và lợi nhuận 
từ đó làm sai lệch các thông tin về tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh 
của doanh nghiệp. Hành vi quản trị lợi nhuận chính là việc nhà quản trị tài 
chính sử dụng những phản ánh chủ quan của mình trong quá trình lập và trình 
bày BCTC nhằm thay đổi các thông tin tài chính cung cấp cho các đối tượng 
có liên quan, hoặc nhằm thay đổi các kết quả của các hợp đồng mà có điều 
khoản ràng buộc dựa trên số liệu kế toán.
91 S¬ 37 - 2020
2. Động cơ tác động tới chất lượng báo cáo tài chính 
doanh nghiệp
Thông tin trên BCTC doanh nghiệp có thể được sử dụng 
cho rất nhiều mục tiêu khác nhau, vì vậy các nhà quản trị 
doanh nghiệp có rất nhiều động cơ khác nhau để tác động 
đến BCTC. Chẳng hạn như Friedlan (1994) đã đưa ra bằng 
chứng hàng loạt công ty tác động đến BCTC trước khi phát 
hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng. Hay Penman (2001) 
đưa ra kết quả đánh giá phần lớn các công ty đều tác động 
tới BCTC trước các đợt phát hành cổ phiếu tăng thêm Vì 
vậy, động cơ tác động đến BCTC doanh nghiệp có thể xuất 
phát từ các lý do sau:
- Phát hành cổ phiếu ra công chúng
Khi các thông tin về tình hình tài chính doanh nghiệp được 
công bố sẽ ảnh hưởng đến sự biến động giá cổ phiếu trên 
thị trường. Theo Friedlan (1994) và Penman (2001), để giảm 
thiểu rủi ro khi phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng, 
cũng như các đợt phát hành cổ phiếu tăng vốn cho doanh 
nghiệp thì các doanh nghiệp đều có hành động can thiệp vào 
BCTC. Các doanh nghiệp đã linh hoạt trong việc vận dụng 
các chuẩn mực kế toán vào việc ghi chép và phản ánh các 
nghiệp vụ kinh tế phát sinh sao cho BCTC của doanh nghiệp 
“đẹp nhất” có thể trong con mắt các nhà đầu tư. Bởi các 
thông tin trên BCTC là một trong những cơ sở quan trọng để 
nhà đầu tư cân nhắc ra quyết định liên quan đến lựa chọn, 
hay cơ cấu lại danh mục đầu tư Do đó, hành vi can thiệp 
vào BCTC của nhà quản trị sẽ ảnh hưởng đến giá trị cổ phiếu 
trên thị trường. 
Mặt khác, các nhà phân tích đầu tư trên thị trường chứng 
khoán cũng luôn quan tâm đến các chỉ số phản ánh hiệu quả 
kinh doanh của doanh nghiệp như các chỉ tiêu phản ánh về 
khả năng sinh lời. Chính vì vậy, các nhà quản trị tài chính 
cũng phải quan tâm đến việc làm sao cho BCTC của họ trở 
nên “hấp dẫn” đáp ứng kỳ vọng của các nhà phân tích. Với 
lý do đó, các nhà quản trị doanh nghiệp có thể có những tác 
động đến BCTC doanh nghiệp, từ đó làm ảnh hưởng đến 
chất lượng BCTC. 
- Giảm chi phí thuế thu nhập
Giảm chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp là một trong 
những yếu tố góp phần gia tăng lợi ích cho chủ sở hữu doanh 
nghiệp (Ronen và Yaari, 2008). Trong quá trình kinh doanh, 
các doanh nghiệp sẽ có những can thiệp nhất định vào hệ 
thống BCTC nhằm mục tiêu tiết kiệm đáng kể chi phí thuế thu 
nhập doanh nghiệp. Chuẩn mực kế toán Việt Nam quy định 
rất rõ về các nguyên tắc lập và trình bày BCTC, vì vậy, nhà 
quản trị có thể thực hiện hành vi quản trị lợi nhuận thông qua 
điều chỉnh lợi nhuận chịu thuế. Với việc thực hiện mục tiêu 
tiết kiệm chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp các nhà quản 
trị doanh nghiệp đã làm ảnh hưởng đến chất lượng BCTC. 
- Ảnh hưởng từ các hợp đồng
Các thông tin kế toán có thể được sử dụng cho rất nhiều 
loại hợp đồng khác nhau như: Hợp đồng thù lao cho các nhà 
quản trị doanh nghiệp, hay hợp đồng vay vốn Hợp đồng 
thù lao giữa các nhà quản trị doanh nghiệp với chủ doanh 
nghiệp thường dựa trên hiệu quả hoạt động kinh doanh của 
doanh nghiệp. Brick và Wald (2006) đã chứng mình rằng thù 
lao cho các nhà quản trị doanh nghiệp tỉ lệ thuận với hiệu quả 
kinh doanh của doanh nghiệp. Kết quả kinh doanh càng cao 
thì thù lao cho các nhà quản trị doanh nghiệp càng lớn. Do 
đó, khi kết quả kinh doanh chưa đạt đến kỳ vọng của các nhà 
quản trị thì nhà quản trị có xu hướng tác động đến BCTC sao 
cho thỏa mãn được mục tiêu đã đề ra. 
Đồng thời, để tránh việc vi phạm các hợp đồng vay vốn 
của doanh nghiệp, các nhà quản trị cũng có khuynh hướng 
tác động đến BCTC. Khi ký kết hợp đồng vay vốn với các chủ 
nợ, doanh nghiệp được yêu cầu phải đảm bảo duy trì một số 
chỉ tiêu tài chính ở mức nhất định. Nếu doanh nghiệp vi phạm 
cam kết có thể dẫn đến hành động can thiệp của người cho 
vay như điều chỉnh tăng lãi suất hoặc yêu cầu trả nợ trước 
hạn. Vì khi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh không tốt 
sẽ ảnh hưởng đến khả năng trả lãi vay và nợ gốc, do đó sẽ 
dẫn đến rủi ro cho các chủ nợ. Kết quả là các nhà quản trị sẽ 
có một số hành vi can thiệp đến BCTC để giảm thiểu việc vi 
phạm các cam kết về vay vốn. 
Bên cạnh những động cơ trên còn phải kể tới: việc thực 
hiện quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp & lựa chọn nhà thầu 
trong hoạt động xây dựng.
Cuối cùng, với mục tiêu ổn định lợi nhuận giữa các kỳ 
kinh doanh, tạo hình ảnh tốt về công ty để thu hút đầu tư 
từ bên ngoài, hay tránh công bố lợi nhuận cao, để tránh cơ 
quan quản lý Nhà nước có những hành động chính sách điều 
tiết hoạt động của doanh nghiệp như rút bớt các chính sách 
ưu đãi, đều có thể dẫn đến hành vi can thiệp lên BCTC 
của các nhà quản trị, từ đó ảnh hưởng không nhỏ đến chất 
lượng BCTC. 
3. Các mô hình đánh giá chất lượng BCTC
Như đã trình bày trong phần trên, đánh giá chất lượng 
BCTC chủ yếu tập trung vào đánh giá chất lượng lợi nhuận 
hay công tác quản trị lợi nhuận trong doanh nghiệp. Chất 
lượng lợi nhuận thường được xem xét dựa trên tính ổn định 
và tính bền vững theo thời gian. Để đo lường chất lượng 
BCTC doanh nghiệp, trong phạm vi bài viết này tác giả trình 
bày một số mô hình được áp dụng phổ biến trên thế giới
Mô hình 1: Theo Leuz et al (2003), nắm bắt được tâm 
lý của các nhà đầu tư dài hạn luôn thích sự tăng trưởng lợi 
nhuận đều đặn và ổn định qua các năm. Bởi sự ổn định giá 
cổ phiếu hoặc tăng giá trị thị trường của cổ phiếu thường 
được phản ánh thông qua chỉ tiêu này. Chính vì vậy, các nhà 
quản trị tài chính doanh nghiệp cũng luôn tìm mọi cách để 
hạn chế tối đa sự biến động về lợi nhuận. Vì mục tiêu đó, 
họ luôn có xu hướng điều chỉnh lợi nhuận theo hướng ổn 
định giữa các kỳ kế toán để đảm bảo lợi nhuận tăng trưởng 
ổn định trong dài hạn. Trên quan điểm đó, Leuz et al (2003) 
đã đánh giá chất lượng lợi nhuận thông qua việc xác định 
mối quan hệ giữa độ lệch chuẩn của lợi nhuận thuần từ hoạt 
động kinh doanh với độ lệch chuẩn của tiền từ hoạt động kinh 
doanh (HĐKD). 
 Độ lệch chuẩn của lợi nhuận thuần từ HĐKD
Độ lệch chuẩn của tiền từ hoạt động kinh doanh (1)
Theo đó, khi hệ số này càng cao thì chất lượng BCTC 
của doanh nghiệp càng cao tương ứng và ngược lại. Vì khi 
hệ số này càng cao, mức độ điều chỉnh lợi nhuận của doanh 
nghiệp càng thấp. 
Mô hình 2: Robinson et al (2009) chủ yếu bàn về lợi 
nhuận dồn tích, là cách đánh giá cơ bản về chất lượng lợi 
nhuận của doanh nghiệp để các nhà phân tích có thể dễ 
dàng sử dụng trong việc tính toán. Sử dụng số liệu trên bảng 
cân đối kế toán, chúng ta có thể đo lường sự thay đổi ròng 
của các khoản mục phi tiền tệ để tính tổng lợi nhuận dồn 
tích (aggregate accruals) trong năm tài chính. Lợi nhuận 
dồn tích chỉ đơn giản là sự thay đổi trong tài sản kinh doanh 
thuần từ đầu năm đến cuối kỳ. Tài sản kinh doanh thuần 
(Net operating assets- NOA) là phần chênh lệch giữa tài sản 
kinh doanh (tổng tài sản trừ tiền và tương đương tiền và các 
92 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG
KHOA H“C & C«NG NGHª
khoản đầu tư tài chính ngắn hạn) và nợ kinh doanh (tổng nợ 
phải trả trừ đi các khoản vay phải trả lãi):
Tài sản kinh doanh thuần (NOA) = Tài sản kinh doanh – 
Nợ kinh doanh (2)
Theo cách tiếp cận từ bảng cân đối kế toán (Balance 
Sheet- B/S), chúng ta có thể xác định lợi nhuận dồn tích cho 
năm t:
Lợi nhuận dồn tíchtB/S = NOAt - NOAt-1 (3)
Tuy nhiên, chỉ tiêu này sẽ chịu sự tác động bởi nhân tố 
quy mô hoạt động kinh doanh khi so sánh chất lượng BCTC 
giữa các doanh nghiệp. Vì vậy, người phân tích cần có sự 
điều chỉnh quy mô doanh nghiệp khi tiến hành phân tích bằng 
cách đơn giản là đo lường lợi nhuận dồn tích thông qua tài 
sản kinh doanh thuần bình quân. Do đó, đánh giá đầu tiên về 
chất lượng BCTC được tính toán thông qua tỉ số dồn tích tính 
dựa trên bảng cân đối kế toán như sau:
Tỉ số dồn tíchtB/S =
 (NOAt - NOAt-1) (4)
 (NOAt + NOAt -1) / 2 
Ngoài ra, chúng ta cũng có thể xác định tỉ số dồn tích dựa 
trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Cách tiếp cận này cho phép 
xem xét sự khác biệt giữa lợi nhuận dồn tích với dòng tiền từ 
hoạt động kinh doanh và hoạt động đầu tư. Từ báo cáo lưu 
chuyển tiền tệ (Cash Flow Statement), lợi nhuận dồn tích sẽ 
được xác định như sau:
Lợi nhuận dồn tíchtCF = Nlt - (CFOt + CFlt) (5)
Trong đó, Nlt là lợi nhuận sau thuế của năm t. CFOt là 
dòng tiền từ hoạt động kinh doanh của năm t. CFlt là dòng 
tiền từ hoạt động đầu tư trong năm t. Xem xét đến sự khác 
biệt về quy mô, chất lượng BCTC có thể được đánh giá 
thông qua cách thứ hai dựa trên tỉ số dồn tích tính từ báo cáo 
lưu chuyển tiền tệ như sau: 
Tỉ số dồn tíchtCF =
 Nlt-(CFOt+CFlt) (6)
 (NOAt + NOAt -1)/2
Các tỉ số dồn tích trong cả hai công thức trên đều xem xét 
đến phần lợi nhuận mà doanh nghiệp chưa thu được bằng 
tiền, vì vậy các tỉ số cao cho thấy chất lượng BCTC doanh 
nghiệp càng thấp. 
Mô hình 3: Xuất phát từ mối quan hệ giữa bảng cân đối 
kế toán với báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo phương pháp 
trực tiếp, lợi nhuận dồn tích (accruals) chính là phần chênh 
lệch giữa lợi nhuận trên báo cáo kết quả kinh doanh với dòng 
tiền trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Lợi nhuận dồn tích hay 
chính là phần lợi nhuận kế toán không bằng tiền, hay biến 
kế toán dồn tích:
Lợi nhuận dồn tích = Tổng lợi nhuận – Lợi nhuận bằng tiền 
 (7)
Trong đó, phần lợi nhuận bằng tiền không thể điều chỉnh 
được, vì vậy các nhà quản tr ... S. Lê Quân - Hiệu 
trưởng; PGS.TS.KTS. Nguyễn Tuấn Anh - Phó Hiệu trưởng; 
PTS.TS.KTS. Phạm Trọng Thuật - Chủ tịch Hội đồng Trường; 
các nhà khoa học, các giảng viên đang làm công tác giảng 
dạy trong và ngoài Trường.
Với những kết quả đạt được trong luận án, Nghiên cứu 
sinh Trần Nhật Khôi đã hoàn thành mục đích và nhiệm vụ 
nghiên cứu. Luận án có những đóng góp thiết thực vào việc 
nghiên cứu các giải pháp tổ chức không gian kiến trúc chợ 
đầu mối nông sản thực phẩm phù hợp với quá trình phát 
triển đô thị Hà Nội.
Hội đồng đánh giá đây là một công trình nghiên cứu khoa 
học độc lập, nghiêm túc, bám sát và đáp ứng được những 
yêu cầu của luận án Tiến sĩ. Nghiên cứu sinh đã vận dụng 
lý thuyết để phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết vấn đề 
nghiên cứu. Kết quả phân tích và một số nhận định có chất 
lượng khoa học. Đề tài nghiên cứu có ý nghĩa sâu sắc cả về 
lý luận và thực tiễn.
Với kết quả 06/06 phiếu tán thành, Hội đồng đã thông 
qua Nghị quyết và đề nghị Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội 
cấp văn bằng học vị Tiến sĩ cho NCS Trần Nhật Khôi.
Tiếp và làm việc với đoàn chuyên gia 
đánh giá ngoài của tổ chức đại học Pháp 
ngữ AUF
Sáng 27/2/2020, lãnh đạo Trường Đại học Kiến trúc Hà 
Nội đã tiếp và làm việc với đoàn chuyên gia đánh giá ngoài 
của Tổ chức Đại học Pháp ngữ (AUF).
Dẫn đầu đoàn chuyên gia đánh giá ngoài là ngài Yves 
Perraudeau - Cựu Tư vấn Giáo dục đại học, Đại sứ quán 
Pháp tại CHDCND Lào cùng các thành viên trong đoàn: Ngài 
Jun Oba - Viện nghiên cứu khoa học. Đại học Hiroshima; 
ngài Thierry Bontems - Trung tâm Nghiên cứu Khoa học 
Quốc gia; ngài Sabine Goulin - Giám đốc Tổ chức hỗ trợ 
Quản trị và Chất lượng - Đại học Lorraine và bà Nguyễn 
Thị Cúc Phương - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Hà Nội, 
Điều phối dự án.
PGS.TS.KTS. Lê Quân đã giới thiệu một cách ngắn gọn 
về lịch sử phát triển, các hoạt động hợp tác quốc tế trong giáo 
dục và đào tạo của Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội. Trường 
Đại học Kiến trúc Hà Nội đã nhận thức rất sâu sắc về ý nghĩa 
của hoạt động đánh giá ngoài cũng như công tác kiểm định 
chất lượng mang tầm cỡ quốc tế và cho rằng việc tổ chức 
đánh giá ngoài là một chủ trương rất đúng đắn, kịp thời, giúp 
cho lãnh đạo Nhà trường thấy rõ những điểm mạnh, điểm 
yếu, những tiêu chuẩn đã đạt được và những tiêu chuẩn 
chưa đạt được theo quy định, để từ đó Nhà trường có hướng 
khắc phục những thiếu sót và từng bước ngày càng nâng 
cao chất lượng giáo dục lên một tầm cao mới. 
Ngài Yves Perraudeau - Cựu Tư vấn Giáo dục đại học, 
Đại sứ quán Pháp tại CHDCND Lào hoan nghênh và khẳng 
định sự hỗ trợ trong việc đánh giá, kiểm định chất lượng của 
Tổ chức giáo dục Đại học Pháp ngữ AUF sẽ giúp Trường 
Đại học Kiến trúc Hà Nội cải thiện nâng cao về năng lực 
quản trị đại học, nâng cao chất lượng. Đây cũng là động lực 
để khuyến khích nhiều Trường Đại học trong khối phát triển 
theo hướng này.
Hai bên đã thống nhất lại toàn bộ nội dung, chương trình 
đánh giá chính thức và cũng chỉ ra một số nội dung mà Nhà 
trường cần phải bổ sung, hoàn thiện trong thời gian tới. 
Đồng thời các chuyên gia AUF cũng giải đáp mọi thắc mắc 
của Nhà trường về yêu cầu, ý nghĩa của một số tiêu chuẩn, 
tiêu chí và đề nghị Hội đồng tự đánh giá Trường tiếp tục bổ 
sung hoàn thiện nội dung các tiêu chí, minh chứng để đợt 
khảo sát chính thức đạt được kết quả tốt nhất.
95 S¬ 37 - 2020
Trường Đại học Kiến Trúc Hà Nội tiếp và 
làm việc với IIG Việt Nam
Chiều 26/2/2020 Hiệu trưởng Trường Đại học Kiến trúc 
Hà Nội - PGS.TS.KTS. Lê Quân đã có buổi tiếp và làm việc 
với đoàn công tác IIG Việt Nam do ông Đoàn Hồng Nam - 
Chủ tịch dẫn đầu. Cùng đi với ông Đoàn Hồng Nam có bà 
Tân Anh - Trưởng phòng Phát triển dự án II của IIG Việt Nam 
và một số thành viên khác.
Tại buổi làm việc, HAU và IIG Việt Nam đã thống nhất giải 
pháp đối với các vấn đề còn tồn đọng, những khó khăn trong 
quá trình triển khai chương trình đào tạo tiếng Anh theo định 
hướng TOEIC và phương pháp ứng dụng phần mềm Office 
365 vào giảng dạy.
Theo ông Đoàn Hồng Nam - Chủ tịch IIG Việt Nam, việc 
dạy và học bằng phần mềm trở nên thuận tiện do các giảng 
viên có thể sử dụng kết hợp nhiều hình thức minh họa bài 
giảng, mang đến lượng kiến thức sinh động hơn tới sinh 
viên. Đối với việc giảng dạy truyền thống, cách thức truyền 
tải dường như có phần hạn chế hơn do chỉ thông qua giao 
tiếp, giáo cụ trực quan Phương pháp giảng dạy trực tuyến 
bằng phần mềm đã và đang được triển khai thí điểm ở nhiều 
trường và mang lại những hiệu quả tích cực. Với những tính 
năng ưu việt của mình, dạy học trực tuyến được dự đoán sẽ 
tạo nên một cuộc cách mạng trong việc ứng dụng khoa học 
công nghệ vào giáo dục. Dạy học trực tuyến được kỳ vọng 
trở thành công cụ có thể thay thế cho việc dạy học truyền 
thống chứ không còn đơn thuần chỉ là công cụ hỗ trợ.
Office 365 là phần mềm cho phép tạo các Teams có thể 
tương ứng với mỗi lớp, thành viên trong Teams chính là sinh 
viên của từng lớp. Giảng viên có thể luân phiên đăng nhập 
để giảng dạy cho Teams/ lớp đó đúng với thời khóa biểu hiện 
hành. Phần mềm cũng cung cấp nền tảng để các giáo viên 
và sinh viên thu hình, thu tiếng trực tiếp thông qua camera. 
Các giảng viên có thể giảng bài trực tuyến và sinh viên theo 
dõi qua màn hình. Nội dung bài giảng cũng được tải lên cho 
sinh viên tham khảo dưới nhiều hình thức như Powerpoint, 
Excel, Word. Ngoài ra, Office 365 còn cung cấp các công 
cụ quen thuộc như Office, Outlook và OneNote, kết hợp với 
Microsoft Lync, SharePoint và Exchang để tạo ra một giải 
pháp tuyệt vời nhất để giao tiếp và tương tác, phục vụ cho 
quá trình giảng dạy một cách hiệu quả.
Với vị thế là tổ chức giáo dục hàng đầu Việt Nam, hiện 
nay IIG đã chính thức trở thành nhà phân phối các sản phẩm 
Office 365 in Education của Microsoft tại Việt Nam.
Lãnh đạo hai bên cũng giao nhiệm vụ cho Phòng phát 
triển Dự án 2 IIG cùng Viện Đào tạo Hợp tác Quốc tế HAU tổ 
chức cuộc họp chuyên môn tổng kết việc triển khai chương 
trình giảng dạy trong thời gian vừa qua, đề xuất những điều 
chỉnh, bổ sung chương trình nâng cao hiệu quả triển khai 
trong thời gian tới.
Tọa đàm “Kiến trúc đô thị Nhật Bản thế 
kỷ XX”
Nằm trong khuôn khổ chương trình hợp tác với các 
Trường Đại học, Tập đoàn Nhật Bản, sáng 20/02/2020 tại 
Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội đã diễn ra buổi tọa đàm với 
chủ đề “Kiến trúc đô thị Nhật Bản thế kỷ XX”. Buổi tọa đàm 
có sự tham gia của nhiều chuyên gia đầu ngành trong lĩnh 
vực Kiến trúc, Quy hoạch của Việt Nam và một số chuyên gia 
đến từ Tập đoàn Plantec Architect Nhật Bản.
Tham dự buổi tọa đàm có ông Hiroyuki Tsurumi - Tổng 
Giám đốc Plantec Architect Nhật Bản; bà Nguyễn Phan 
Mỹ Linh - Nguyên Thứ trưởng Bộ Xây dựng; KTS. Nguyễn 
Tấn Vạn - Chủ tịch Hội Kiến trúc sư Việt Nam; GS.TS.KTS. 
Nguyễn Quốc Thông - Phó Chủ tịch Hội Kiến trúc sư Việt 
Nam; ThS.KTS. Lã Thị Kim Ngân - Viện trưởng Viện Kiến 
trúc, Hội Kiến trúc sư Việt Nam.
Về phía Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội có PGS.
TS.KTS. Lê Quân - Hiệu trưởng Nhà trường; TS.KTS. Ngô 
Thị Kim Dung - Phó Hiệu trưởng; PGS.TS.KTS. Phạm Trọng 
Thuật - Chủ tịch Hội đồng Trường cùng một số chuyên 
gia đầu ngành trong lĩnh vực Kiến trúc, Quy hoạch và Xây 
dựng
Plantec là một tập đoàn của Nhật Bản có trụ sở chính 
tại Tokyo và các chi nhánh ở Nhật Bản, Bangkok Thái Lan, 
HongKong, Italia và Việt Nam Plantec hoạt động trên các 
lĩnh vực: Tư vấn quy hoạch đô thị, thiết kế kiến trúc, giám 
sát, xây dựng, quản lý dự án, quản lý xây dựng, quản lý cơ 
sở, thiết kế nội thất, bán và xuất khẩu vật liệu xây dựng, vật 
cố ánh sáng và thiết bị sưởi ấm Trung tâm Sài Gòn và Trụ 
sở Acecook là những dự án có sự tham gia của các chuyên 
gia Plantec.
Tại buổi tọa đàm, các đại biểu được nghe chuyên gia của 
Plantec - ông Hiroyuki Tsurumi - Tổng Giám đốc thuyết trình 
giới thiệu về Kiến trúc Nhật bản thế kỷ XX.
Tại Nhật Bản, Phần lớn những ngôi nhà cổ và những nhà 
thờ tại Nhật đều được xây dựng bằng gỗ. Những cách thức 
và kỹ thuật được sử dụng trong xây dựng không chỉ phản 
ánh khí hậu của Nhật Bản mà còn thể hiện được nguồn gốc 
sâu xa trong sự phát triển của văn hóa Nhật Bản. 
Khi Nhật Bản mở cửa, kiến trúc phương Tây bắt đầu thay 
thế những tòa nhà truyền thống của Nhật. Các kiến trúc sư 
ở Nhật Bản bắt đầu kết hợp các phương pháp xây dựng 
truyền thống với thiết kế châu Âu. Họ cũng áp dụng những 
vật liệu xây dựng mới như bê tông và thép. Người Nhật luôn 
áp dụng phương châm: “Kỹ thuật từ Tây - Lấy hồn Nhật làm 
tâm điểm”. Trước học văn hóa - mỹ thuật Nhật Bản và Châu 
Á, sau đó mới tiếp thu có chọn lọc văn hóa, kỹ thuật phương 
Tây. Nhật Bản là nước duy nhất đạt được tính hiện đại do 
bản thân không bị đè nặng bởi truyền thống quá khứ hoặc 
di sản thuộc địa như hầu hết các nước Châu Á khác. Một số 
Kiến trúc sư Nhật Bản như Tange Kenzo hoặc Arata Isozaki 
đã tạo ra phong cách độc đáo và phát triển thiết kế hiện đại 
mang tính quốc tế
Buổi tọa đàm thu hút nhiều câu hỏi, sự quan tâm, trao 
đổi kinh nghiệm của các chuyên gia đầu ngành cũng như 
chia sẻ quan điểm, xu hướng và hành nghề kiến trúc tại Nhật 
Bản. Đây cũng là tiền đề mở ra cơ hội hợp tác trong lĩnh vực 
đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ giữa 
Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội và đối tác Nhật Bản.
Workshop lần 3 Dự án ERASMUS
Sáng 20/2/2020 tại Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội đã 
diễn ra workshop lần thứ 3 trong dự án MONTUS.
Tham dự workshop có PGS.TS.KTS. Lê Quân - Hiệu 
trưởng Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội. Hội thảo còn có 
sự tham gia của các nhóm nghiên cứu đến từ Trường Đại 
học Công nghệ (ĐHQGHN), Đại học Toulouse II (Cộng 
hòa Pháp), Đại học Ferrara (Cộng hòa Italia), Đại học VUB 
(Vương Quốc Bỉ), Đại học Walailak và Viện Công nghệ Châu 
Á (Thái Lan), Viện Công nghệ Campuchia, Đại học Nông 
lâm Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Sư phạm Kỹ thuật Đà 
Nẵng.
96 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG
TIN T¸C & S¼ KIªN
THỂ LỆ VIẾT VÀ GỬI BÀI 
CHO TẠP CHÍ KHOA HỌC KIẾN TRÚC – XÂY DỰNG
1. Bài gửi đăng tạp chí phải là công trình nghiên cứu 
của tác giả, chưa đăng và chưa gửi đăng ở bất kỳ tạp 
chí nào khác.
2. Bài gửi đăng bằng tiếng Việt hoặc tiếng Anh, được 
đánh máy tính, in trên 1 mặt giấy khổ A4 thành 2 bản 
(phông chữ Arial (Unicode), cỡ chữ 11; lề trên và lề 
dưới 3cm; lề phải và lề trái 3cm).
3. Các hình vẽ phải rõ ràng, chuẩn xác. Nếu bài có ảnh 
thì phải gửi kèm ảnh gốc độ phân giải 200dpi. Hình vẽ 
và ảnh phải được chú thích đầy đủ.
4. Các công thức và các thông số có liên quan phải 
được chế bản bằng phần mềm Mathtype (kể cả công 
thức hoặc các thành phần của công thức có trên các 
dòng văn bản).
5. Tài liệu tham khảo chính, trích dẫn phải có đủ các 
thông tin theo trình tự sau: Họ tên tác giả (hoặc chủ 
biên), tên sách (tên bài báo/tạp chí, tên báo cáo khoa 
học), nơi xuất bản, nhà xuất bản, năm xuất bản, trang 
trích dẫn (tối đa 10 tài liệu tham khảo chính).
6. Ghi rõ họ, tên, học hàm, học vị, nơi làm việc, số điện 
thoại, e-mail của tác giả kèm theo một file chứa nội 
dung bài báo.
7. Bài viết phải có tên bằng tiếng Việt và tiếng Anh, các 
từ khóa tìm kiếm. Mỗi bài cần kèm theo phần tóm tắt 
bằng tiếng Việt và tiếng Anh (cỡ chữ 10, tối đa là 150 
từ) cung cấp những nội dung chính của bài viết.
8. Cấu trúc bài báo gồm các phần: dẫn nhập, nội dung 
khoa học và kết luận (viết thành mục riêng). Bài báo 
phải đưa ra được các kết quả nghiên cứu mới hoặc 
các ứng dụng mới hay phải nêu được hiện trạng, 
những hướng phát triển cơ bản của vấn đề được đề 
cập, khả năng nghiên cứu, phát triển và ứng dụng 
tại Việt Nam. Bài giới thiệu tổng quan không quá 10 
trang; công trình nghiên cứu và triển khai ứng dụng 
không quá 8 trang.
9. Với bài thông tin khoa học, tin ngắn: Là các bài dịch 
tổng thuật, tổng quan về các vấn đề khoa học công 
nghệ xây dựng kiến trúc có tính thời sự.
10. Không trả lại bản thảo cho những bài không đăng./.
Workshop lần thứ 3 nằm trong khuôn khổ dự án MONTUS 
“Master On New Technologies Using Services” được tài trợ 
bởi quỹ EU Erasmus+. Dự án là sự kế thừa những thành 
quả và tiếp tục phát triển dựa trên dự án TORUS “Toward an 
Open Resource Upon Service” trong thời gian từ năm 2015 
- 2018. Đây cũng là một trong 6 dự án của Pháp được lựa 
chọn trong số 147 dự án được lựa chọn từ 874 ứng cử viên. 
Dự án được tài trợ bởi Liên minh Châu Âu trong 3 năm với 
khuôn khổ chương trình xây dựng năng lực Erasmus+ cùng 
mục tiêu phát triển các nghiên cứu về Điện toán đám mây 
trong khoa học môi trường và thúc đẩy nền giáo dục ở các 
nước Đông Nam Á.
Mục tiêu chính của dự án là xây dựng và đề xuất khung 
chương trình đào tạo Thạc sĩ ứng dụng điện toán đám mây 
cho dữ liệu môi trường hướng tới môi trường bền vững. Dự 
án MONTUS kế thừa các kết quả nghiên cứu và đầu tư hạ 
tầng tính toán từ dự án TORUS.
Đây là workshop có tính thực tiễn cao và nhận được sự 
quan tâm, hỗ trợ và phối hợp của tất cả các bên liên quan. 
Các phương pháp tiếp cận và giải quyết vấn đề trong quá 
trình thực hiện workshop là những phương pháp tiếp cận 
mới nhằm đảm bảo thực hiện các giải pháp linh hoạt và bền 
vững với mục tiêu lâu dài.
NCS Đào Công Hùng bảo vệ thành công 
luận án tiến sĩ chuyên ngành Quản lý đô 
thị và công trình
Sáng 15/1/2020, Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội 
tổ chức đánh giá Luận án Tiến sĩ cấp Trường cho nghiên 
cứu sinh Đào Công Hùng với đề tài: “Quản lý không gian, 
kiến trúc, cảnh quan thành phố Bắc Giang hướng tới đô thị 
xanh”, chuyên ngành Quản lý đô thị và công trình, mã số 
62.58.01.06. Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lương 
Tú Quyên và TS. Nguyễn Thị Lan Phương hướng dẫn.
Tham dự buổi bảo vệ có PGS.TS.KTS. Lê Quân - Hiệu 
trưởng; PGS.TS.KTS. Nguyễn Tuấn Anh - Phó Hiệu trưởng; 
TS.KTS. Ngô Thị Kim Dung - Phó Hiệu trưởng; các nhà khoa 
học, các giảng viên đang làm công tác giảng dạy trong và 
ngoài Trường; đồng nghiệp cùng gia đình và bạn bè của 
Nghiên cứu sinh.
Với những kết quả đạt được trong luận án, nghiên cứu 
sinh Đào Công Hùng đã hoàn thành mục đích và nhiệm vụ 
nghiên cứu. Luận án có những đóng góp thiết thực vào việc 
đề xuất các giải pháp quản lý không gian, kiến trúc, cảnh 
quan thành phố Bắc Giang nhằm xây dựng và phát triển 
không gian, iến trúc, cảnh quan theo hướng tới đô thị xanh, 
góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân; 
gìn giữ, phát huy các giá trị văn hóa, điều kiện tự nhiên, phát 
triển kinh tế - xã hội và chống chịu với biến đổi khí hậu.
Hội đồng đánh giá đây là một công trình nghiên cứu khoa 
học độc lập, nghiêm túc, bám sát và đáp ứng được những 
yêu cầu của luận án Tiến sĩ. Nghiên cứu sinh đã vận dụng 
lý thuyết để phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết vấn đề 
nghiên cứu. Kết quả phân tích và một số nhận định có chất 
lượng khoa học. Đề tài nghiên cứu có ý nghĩa sâu sắc cả về 
lý luận và thực tiễn.
Với kết quả 07/07 phiếu tán thành, Hội đồng đã thông 
qua Nghị quyết và đề nghị Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội 
cấp văn bằng học vị Tiến sĩ cho Nghiên cứu sinh Đào Công 
Hùng.

File đính kèm:

  • pdfmot_so_mo_hinh_thuong_duoc_ap_dung_tren_the_gioi_de_danh_gia.pdf