Một số lưu ý khi điều trị đái tháo đường típ 2 ở người cao tuổi

Đái tháo đường ở người cao tuổi là một thách thức lớn cho hệ thống y tế. Thầy thuốc cần đánh giá toàn diện

bệnh nhân cao tuổi vốn có nhiều nguy cơ đa bệnh lý và nguy cơ suy giảm nhận thức. Điều trị đái tháo đường cần

phải cá thể hoá để có mục tiêu phù hợp cho từng đối tượng. Đối với người đái tháo đường cao tuổi có ít bệnh lý

đồng mắc và chức nhận thức còn nguyên vẹn, mục tiêu HbA1c < 7,5%;="" còn="" với="" những="" bệnh="" nhân="" nhiều="">

đồng mắc và nhận thức suy giảm, mục tiêu HbA1c ít chặc chẽ hơn (HbA1c < 8,0-8,5%).="" metformin="" là="" lựa="">

hàng đầu nếu không có chống chỉ định kết hợp thay đổi lối sống. Các thuốc nhóm khác nên được phối hợp nếu

đường huyết vẫn không thể kiểm soát tốt. Đồng vận GLP-1 hay ức chế SGLT2 là ưu tiên nếu bệnh nhân có bệnh

tim mạch do xơ vữa. Khi cần kiểm soát đường huyết bằng insulin, phác đồ đơn giản được ưa chuộng cho người

cao tuổi là insulin nền một lần ngày kết hợp thuốc viên hạ đường huyết

pdf 6 trang phuongnguyen 380
Bạn đang xem tài liệu "Một số lưu ý khi điều trị đái tháo đường típ 2 ở người cao tuổi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số lưu ý khi điều trị đái tháo đường típ 2 ở người cao tuổi

Một số lưu ý khi điều trị đái tháo đường típ 2 ở người cao tuổi
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2019 6
MỘT SỐ LƯU Ý KHI ĐIỀU TRỊ ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÍP 2 
Ở NGƯỜI CAO TUỔI 
Nguyễn Thị Mây Hồng*, Nguyễn Phạm Như Đài*, Cao Đình Hưng** 
TÓM TẮT 
Đái tháo đường ở người cao tuổi là một thách thức lớn cho hệ thống y tế. Thầy thuốc cần đánh giá toàn diện 
bệnh nhân cao tuổi vốn có nhiều nguy cơ đa bệnh lý và nguy cơ suy giảm nhận thức. Điều trị đái tháo đường cần 
phải cá thể hoá để có mục tiêu phù hợp cho từng đối tượng. Đối với người đái tháo đường cao tuổi có ít bệnh lý 
đồng mắc và chức nhận thức còn nguyên vẹn, mục tiêu HbA1c < 7,5%; còn với những bệnh nhân nhiều bệnh 
đồng mắc và nhận thức suy giảm, mục tiêu HbA1c ít chặc chẽ hơn (HbA1c < 8,0-8,5%). Metformin là lựa chọn 
hàng đầu nếu không có chống chỉ định kết hợp thay đổi lối sống. Các thuốc nhóm khác nên được phối hợp nếu 
đường huyết vẫn không thể kiểm soát tốt. Đồng vận GLP-1 hay ức chế SGLT2 là ưu tiên nếu bệnh nhân có bệnh 
tim mạch do xơ vữa. Khi cần kiểm soát đường huyết bằng insulin, phác đồ đơn giản được ưa chuộng cho người 
cao tuổi là insulin nền một lần ngày kết hợp thuốc viên hạ đường huyết. 
Từ khóa: đái tháo đường, người cao tuổi 
ABSTRACT 
DIABETES MANAGEMENT IN THE ELDERLY 
Nguyen Thi May Hong, Nguyen Pham Nhu Dai, Cao Dinh Hung 
Diabetes in the older adults has become an enormous challenge for health system in both developed and 
developing countries. Clinicians need to have comprehensive consideration for older adults with diabetes who have 
high risk for multicorbidy and cognitive dysfunction. Besides, diabetes management should be individualized to 
determine the appropriate target. Older adults who are otherwise healthy with few coexisting chronic illnesses and 
intact cognitive function can have lower glycemic goals (HbA1c <7.5%); by contrast, less intensive target (HbA1c 
< 8.0-8.5 %) would be reasonable for those with multiple coexisting chronic illnesses and cognitive impairment. 
Metformin is considered as first-line treatment in the absence of contraindications in parallel with lifestyle 
modification. When intial pharmacologic therapy is insufficent, other drugs should be added to better control 
glycemic control. Glucagon-like peptide 1 receptor agonists or sodium-glucose cotransporter 2 inhibitors should be 
selected in subjects with atherosclerotic cardiovascular disease. Finally, once-daily basal insulin in combination 
with non-insulin agents is the proper option in older adults due to its regimen simplification. 
Keywords: diabetes, the older adults 
ĐÁI THÁO ĐƯỜNG Ở NGƯỜI CAO 
TUỔI LÀ THÁCH THỨC LỚN CHO HỆ 
THỐNG Y TẾ 
Hiện nay đái tháo đường (ĐTĐ) là một gánh 
nặng cho nền y tế của nhiều quốc gia trên thế 
giới, cả ở các nước phát triển và đang phát triển. 
Số lượng người bệnh ĐTĐ gia tăng theo tuổi. Tại 
Hoa Kỳ, số lượng người trên 65 tuổi mắc bệnh 
ĐTĐ ước tính khoảng 25% và được biết đến là 1 
trong 7 nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở 
nước này vào năm 2015. Ngoài ra, vấn đề chi phí 
điều trị cũng gây băn khoăn cho nhiều người. Cụ 
thể chi phí điều trị ĐTĐ trong 1 năm cho người 
lớn tuổi là 13.239 $, còn ở người trẻ con số này là 
6.675 $(4). Tại Việt Nam, tuổi thọ trung bình ngày 
*Khoa Nội tiết BV Thống Nhất **Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 
Tác giả liên lạc: BSCKII. Nguyễn Thị Mây Hồng ĐT: 0909 354 348 Email: nguyenmay08@yahoo.com 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2019 7
càng tăng, kéo theo đó là những mối quan tâm 
về các bệnh mãn tính không lây trên nhóm 
người cao tuổi, đặc biệt là ĐTĐ. Vào năm 2015 
đã có 3,5 triệu người mắc bệnh ĐTĐ theo báo 
cáo của Hiệp hội đái tháo đường thế giới IDF 
Diabetes Atlas và con số này được dự báo sẽ 
tăng lên 6.1 triệu vào năm 2040. Tại Việt Nam, 
theo kết quả điều tra năm 2015 của Bộ Y Tế có 
đến 68,9% người tăng đường huyết chưa được 
phát hiện và chỉ có 28,9% người bệnh đái tháo 
đường được quản lý tại cơ sở y tế 
(daithaoduong.kcb.vn/tinhhinhdaithaoduong/). 
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM ĐÁI THÁO 
ĐƯỜNG Ở NGƯỜI CAO TUỔI VÀ 
HƯỚNG ĐIỀU TRỊ 
Đối tượng người cao tuổi là đối tượng đặc 
biệt đòi hỏi chúng ta cần có cách tiếp cận hợp lý 
trên cơ sở đánh giá toàn điện và ưu tiên các vấn 
đề thường gặp ở người cao tuổi. 
Rối loạn nhận thức 
Người cao tuổi ĐTĐ có nguy cơ rối loạn 
nhận thức cao gấp 2 lần so với nhóm không 
ĐTĐ. Biểu hiện rối loạn nhận thức có thể từ 
giảm nhận thức thoáng qua, mất trí nhớ đến sa 
sút trí tuệ (1,4). Bệnh nhân có rối loạn nhận thức sẽ 
gây khó khăn rất nhiều cho thầy thuốc cũng như 
bản thân bệnh nhân trong quá trình điều trị và 
tự chăm sóc trong các vấn đề như theo dõi 
đường huyết, hiệu chỉnh liều lượng insulin, sử 
dụng thuốc và thực hành chế độ dinh dưỡng 
phù hợp cho bệnh ĐTĐ. Chính vì vậy, việc kiểm 
soát đường huyết gặp rất nhiều khó khăn. Do 
đó, bệnh nhân ĐTĐ cần được tầm soát rối loạn 
nhận thức định kỳ bằng một số công cụ đơn giản 
như Minimental State Examination để phát hiện 
và điều trị kịp thời(5). Đối với các đối tượng bệnh 
nhân có rối loạn nhận thức, thầy thuốc tránh 
kiểm soát đường huyết quá chặt chẽ, tránh các 
chế độ điều trị phức tạp, giảm số lần dùng thuốc 
và cần hướng dẫn thêm cho người trực tiếp 
chăm sóc bệnh nhân. Bên cạnh đó, thầy thuốc có 
thể nhắc nhở bệnh nhân uống thuốc đúng và 
đầy đủ bằng các phương tiện như bỏ thuốc vào 
hộp thuốc và chuông hẹn giờ uống thuốc(4). 
Hạ đường huyết 
Hạ đường huyết là rào cản khi muốn đạt 
mục tiêu kiểm soát đường huyết tối ưu do 
tăng nguy cơ xảy ra các biến cố tim mạch và 
các biến cố khác. Người cao tuổi có nguy cơ bị 
hạ đường huyết cao hơn người trẻ. Các 
nguyên nhân gây hạ đường huyết thường là 
do điều trị insulin quá liều, suy chức năng 
thận tiến triển, ăn uống kém hoặc bỏ bữa ăn. 
Hạ đường huyết có mối liên quan đến việc suy 
giảm chức năng nhận thức theo 2 chiều: suy 
giảm nhận thức tăng nguy cơ hạ đường huyết 
và tiền sử hạ đường huyết nặng liên quan đến 
chứng sa sút trí tuệ (dementia). Người thầy 
thuốc cần đánh giá một cách thận trọng và 
thường xuyên về chức năng nhận thức, tình 
trạng chức năng của các cơ quan trong cơ thể 
(như suy gan, suy thận) của bệnh nhân cùng 
với các yếu tố nguy cơ gây hạ đường huyết 
(như dùng insulin hay thuốc kích thích tiết 
insulin, chế độ ăn uống thất thường, vận động 
thể lực cường độ nặng và tiền sử hạ đường 
huyết) nhằm thiết lập chế độ điều trị hợp lý 
vừa kiểm soát tốt đường huyết nhưng giảm 
thiểu nguy cơ hạ đường huyết. Bên cạnh đó, 
thầy thuốc cần thường xuyên giáo dục sức 
khoẻ, hướng dẫn bệnh nhân và người nhà 
bệnh nhân về nhận biết các dấu hiệu hạ 
đường huyết và cách xử trí kịp thời. 
Đa bệnh lý và sử dụng cùng lúc nhiều thuốc 
Đái tháo đường thường gia tăng nguy cơ 
biến chứng và tình trạng đa bệnh lý ở người cao 
tuổi. Người cao tuổi là đối tượng có nhiều bệnh 
lý phối hợp, đòi hỏi thầy thuốc cần phải đánh giá 
toàn diện, nhất là các vấn đề về tim mạch. Tình 
trạng đa bệnh lý đòi hỏi cần phải sử dụng nhiều 
thuốc để kiểm soát các bệnh đồng mắc và hạn 
chế biến chứng của ĐTĐ. Tuy nhiên, việc dùng 
nhiều thuốc có thể gây tốn kém, làm tăng nguy 
cơ tương tác thuốc và tác dụng phụ của thuốc. 
Để giảm thiểu các tác hại này, thầy thuốc cần 
kiểm tra đơn thuốc mỗi lần tái khám, ngưng tất 
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2019 8
cả các thuốc không có ích cho việc điều trị, tránh 
điều trị phức tạp quá mức và cố gắng đơn giản 
hoá phác đồ điều trị(4). 
Giảm hoạt động thể chất 
Người cao tuổi có thể bị giới hạn về nghe và 
nhìn dẫn tới nhiều hệ lụy nghiêm trọng, tạo cho 
bệnh nhân cao tuổi cảm giác bị cô lập, khó tuân 
thủ điều trị, tăng nguy cơ té ngã và tàn tật. 
Người thầy thuốc cần thể hiện sự cảm thông, 
đồng thời giới thiệu cho bệnh nhân các thiết bị 
hỗ trợ khả năng nghe và nhìn (như máy trợ 
thính, mắt kính, gậy, khung đi). Ngoài ra, người 
cao tuổi còn được khuyến khích tập các bài tập 
thể dục an toàn và các bài tập vật lý trị liệu phù 
hợp với điều kiện thể chất của mình. Người thầy 
thuốc cũng cần tăng cường trao đổi thông tin với 
người nhà để hỗ trợ tâm lý cho bệnh nhân(4). 
MỤC TIÊU ĐIỀU TRỊ CHO TỪNG ĐỐI TƯỢNG 
Mục tiêu điều trị ĐTĐ ở người cao tuổi cần 
đặt bệnh nhân làm trung tâm và cá thể hoá dựa 
trên tình trạng sức khoẻ hiện tại và triển vọng 
sống của bệnh nhân(1,3). 
Đối với nhóm người cao tuổi mắc ĐTĐ còn 
tương đối khoẻ mạnh, có kỳ vọng sống lâu dài, 
đủ để hưởng lợi từ việc kiểm soát đường huyết 
chặt chẽ nên mục tiêu điều trị tương tự như ở 
người trẻ. Trên các đối tượng bệnh nhân ĐTĐ 
xuất hiện nhiều bệnh lý đồng mắc có suy giảm 
chức năng nhận thức từ nhẹ đến vừa hoặc nhóm 
bệnh nhân có biến chứng hay có bệnh mãn tính 
ở giai đoạn cuối, mục tiêu đường huyết ít chặt 
chẽ hơn (Bảng 1). 
Ngoài kiểm soát đường huyết, chúng ta cần 
lưu ý kiểm soát các bệnh đồng mắc, đặc biệt là 
tim mạch. Kiểm soát huyết áp (ưu tiên sử dụng 
nhóm thuốc ức chế men chuyển hay ức chế thụ 
thể), kiểm soát lipid máu (sử dụng statin) và 
dùng aspirin để phòng ngừa nguyên phát hay 
thứ phát các biến cố tim mạch cũng quan trọng 
không kém với việc đạt đường huyết mục tiêu. 
Mục tiêu HbA1c > 8,5% không được khuyến 
cáo vì bệnh nhân có nguy cơ cao mắc các biến 
chứng nguy hiểm do tăng đường huyết như 
chậm lành vết thương, hôn mê tăng đường 
huyết do tăng áp lực thẩm thấu máu, chẳng hạn 
như suy tim sung huyết giai đoạn 3-4, bệnh mạn 
tính cần lọc máu hoặc ung thư di căn. Các tình 
trạng này làm suy giảm chức năng và giảm đáng 
kể tuổi thọ của bệnh nhân. 
Bảng 1. Mục tiêu điều trị về đường huyết, huyết áp, lipid máu trên đối tượng đái tháo đường cao tuổi 
Đặc điểm bệnh nhân HbA1C * Đường huyết đói/ 
trước ăn 
Đường huyết trước 
ngủ 
Huyết áp Lipid 
Khoẻ mạnh, ít bệnh lý đồng 
mắc mạn tính và chức năng 
nhận thức không bị suy giảm 
< 7,5% 90-130 mg/dL 
(5,0-7,2 mmol/L) 
đường huyết trước 
ngủ là 90-150 mg/dL 
(5,0-8,3 mmol/L) 
< 140/90 
mmHg 
statin để kiểm soát mức 
lipid máu nếu dung nạp 
được hoặc không có 
chống chỉ định 
Nhiều bệnh lý đồng mắc (từ 3 
bệnh trở lên
Ŧ
 hoặc suy giảm > 
2 IADL, suy giảm chức năng 
nhận thức từ nhẹ đến vừa 
< 8,0 % 90-150 mg/dL 
(5,0-8,3 mmol/L) 
100-180 mg/dL 
(5,6-10,00 mmol/L) 
< 140/90 
mmHg 
statin để kiểm soát mức 
lipid máu nếu dung nạp 
được hoặc không có 
chống chỉ định 
Phức tạp/ sức khoẻ kém (chăm 
sóc lâu dài hoặc bệnh mạn tính 
giai đoạn cuối hoặc phụ trên 2 
IADL hoặc suy giảm nhận thức 
trung bình đến nặng 
< 8,5% 100-180 mg/dL 
(5,6-10,0 mmol/L) 
110-200 mg/dL 
(6,1- 11,1 mmol/L) 
< 150/90 
mmHg 
statin được cân nhắc nếu 
đem lại lợi ích cho bệnh 
nhân, chủ yếu trong 
phòng ngừa thứ phát 
IADL: sinh hoạt hằng ngày(2) * có thể đưa HbA1c thấp hơn nếu không có hạ đường huyết 
DÙNG THUỐC HỢP LÝ TRONG ĐIỀU TRỊ ĐÁI 
THÁO ĐƯỜNG Ở NGƯỜI CAO TUỔI 
Các thuốc điều trị ĐTĐ dùng cho người cao 
tuổi cùng với những ưu điểm và lưu ý khi sử 
dụng được liệt kê ở Bảng 2. 
Biguanides, Thiazolidinediones, Sulfonylureas 
Biguanides (metformin) 
Có cơ chế làm tăng nhạy cảm với insulin. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2019 9
Đây là thuốc được dùng đầu tay cho người cao 
tuổi mắc bệnh ĐTĐ típ 2 nếu không có chống chỉ 
định và dung nạp tốt. Thuốc này nên tạm thời 
ngừng sử dụng trước khi làm các thủ thuật và 
khi có bệnh cấp tính gây ảnh hưởng đến chức 
năng thận, gan hay nhiễm trùng(1,4). 
Nhóm Thiazolidinediones 
Dung nạp tốt và rất hiệu quả làm cải thiện 
tình trạng đề kháng insulin nhưng cần hết sức 
thận trọng khi sử dụng do nhiều chống chỉ định 
ở người cao tuổi (suy tim sung huyết, phù, nguy 
cơ té ngã gãy xương). 
Nhóm Sulfonylureas 
Kích thích tế bào beta tiểu đảo tụy tiết 
insulin. Thuốc có ưu điểm là chi phí tương đối 
thấp nhưng sử dụng cần thận trọng do tác dụng 
phụ gây hạ đường huyết khá phổ biến. Thầy 
thuốc nên ưu tiên những sulfonylureas tác dụng 
ngắn ở người lớn tuổi như glipizide. Chống chỉ 
định dùng glyburide do tác dụng hạ đường 
huyết kéo dài(1,4). 
Nhóm chất ức chế kênh đồng vận chuyển natri-
glucose (SGLT2 inhibitors) 
Cơ chế tác dụng của nhóm thuốc ức chế 
SGLT2 là ức chế sự tái hấp thu glucose tại ống 
lượn gần gây tăng bài tiết glucose niệu và giảm 
glucose máu. Cơ chế tác dụng độc lập với hoạt 
động của insulin. Hiện tại, empagliflozin và 
canagliflozin thuộc nhóm thuốc này có bằng 
chứng có lợi cho bệnh nhân mắc bệnh tim mạch 
do xơ vữa động mạch, suy tim sung huyết hay 
suy thận tiến triển(1,4). 
Nhóm thuốc điều trị dựa vào incretin 
Incretin là những hormon dạng peptide, 
chúng được tiết vào máu chỉ vài phút sau khi 
thức ăn tác động lên niêm mạc ruột. Hormone 
này gồm hai chất là GIP và GLP-1 có những tác 
dụng làm giảm đường huyết, đặc biệt đường 
huyết sau ăn trên người đái tháo đường típ 2 
nhưng dễ dàng bị bất hoạt bởi men DPP-4. Vì 
vậy để tăng tác dụng giảm đường huyết của 
incretin có thể dùng các sản phẩm đồng vận 
incretin hay thuốc ức chế men DPP-4 để tăng tác 
dụng của incretin nội sinh. 
Đồng vận GLP-1 là thuốc đường tiêm nên 
đòi hỏi bệnh nhân còn đủ khả năng thị giác, 
vận động và nhận thức để tự sử dụng. Ưu 
điểm của nhóm thuốc này là ít nguy cơ hạ 
đường huyết tuy nhiên chi phí còn cao. Một số 
thuốc trong nhóm đã được chứng minh là có 
lợi ích trên bệnh tim mạch do xơ vữa 
(liraglutide > semaglutide > exenatide phóng 
thích chậm). Tác dụng phụ bao gồm buồn nôn, 
nôn, tiêu chảy, sụt cân. 
Ức chế DPP-4 rất ít nguy cơ hạ đường huyết. 
Nhóm này cũng có tác dụng phụ trên đường tiêu 
hoá tương tự nhóm đồng vận GLP-1. Chi phí còn 
cao cũng ít nhiều là rào cản cho việc dùng nhóm 
thuốc này(1,4). 
Liệu pháp insulin 
Việc sử dụng insulin đòi hỏi bệnh nhân hoặc 
người chăm sóc phải có kỹ năng và hiểu biết tốt. 
Insulin sử dụng như điều trị khởi đầu cho bệnh 
nhân cao tuổi ĐTĐ típ 2 khi HbA1C > 9%, đường 
huyết đói > 250 mg/dL (13,9 mmol/L), đường 
huyết bất kỳ liên tục > 300 mg/dL (16,7 mmol/L), 
hay có ceton niệu đồng thời có triệu chứng lâm 
sàng của tăng đường huyết. Do lo ngại tác dụng 
hạ đường huyết, nhiều nhà lâm sàng chỉ sử 
dụng insulin trong thời gian ngắn để kiểm soát 
đường huyết nhằm ngăn ngừa biến chứng cấp 
tính. Khi đã kiểm soát tốt đường huyết cũng như 
khôi phục độ nhạy insulin của cơ thể, insulin 
được giảm liều dần và thay thế bằng metformin 
hay các thuốc hạ đường huyết khác ít nguy cơ hạ 
đường huyết hơn. 
Khi cần dùng insulin lâu dài để kiểm soát 
đường huyết, thầy thuốc nên ưu tiên lựa chọn 
phát đồ đơn giản và ít nguy cơ gây hạ đường 
huyết. Điều trị tiêm insulin nền mỗi ngày một 
lần kết hợp thuốc viên uống là một lựa chọn hợp 
lý ở nhiều bệnh nhân cao tuổi. Mũi tiêm insulin 
nền này nên được tiêm buổi sáng để kiểm soát 
tốt đường huyết tăng sau ăn vốn đóng góp phần 
quan trọng trong mức đường huyết nền của 
bệnh nhân và cũng hạn chế nguy cơ hạ đường 
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2019 10
huyết buổi sáng. Các nhà lâm sàng khuyến cáo 
nên chỉnh liều insulin 2-3 đơn vị mỗi 5-7 ngày 
cho đến khi đường huyết đói đạt mục tiêu(1,4). 
Bảng 2: Các nhóm thuốc điều trị ĐTĐ 
NHÓM THUỐC LỢI ÍCH LƯU Ý Ở NGƯỜI CAO TUỔI 
Biguanides (metformin) 
Chí phí thấp 
Ít nguy cơ hạ đường huyết 
Rối loạn tiêu hoá nhưng sử dụng dạng phóng thích 
kéo dài có thể hạn chế tác dụng này. 
Thận trọng với bệnh nhân suy chức năng gan hoặc 
suy tim sung huyết do tăng nguy cơ nhiễm axit lactic. 
Thiếu vitamin B12. 
Chống chỉ định khi suy thận tiến triển. 
Thiazolidinediones 
Ít nguy cơ hạ đường huyết 
Dùng được trên bệnh nhân có chức năng 
thận giảm 
Phù, suy tim sung huyết 
Tăng khả năng mất xương và nguy cơ gãy xương 
Mối liên hệ có thể với ung thư bàng quang 
Sulfonylureas 
Chi phí thấp Nguy cơ hạ đường huyết 
Ưu tiên sulfonylureas tác dụng ngắn như glipizide 
Đồng vận GLP-1 
Ít nguy cơ hạ đường huyết 
Có thể chỉ định cho bệnh nhân dư cân 
Buồn nôn, ói, tiêu chảy 
Chi phí cao 
Phải dùng đường tiêm 
Ức chế DPP-4 
Ít nguy cơ hạ đường huyết Buồn nôn, ói, tiêu chảy 
Chi phí cao 
Ức chế SGLT2 
Ít nguy cơ hạ đường huyết 
Lợi ích cho bệnh nhân có bệnh tim mạch 
do xơ vữa, suy tim sung huyết 
Làm giảm tiến triển bệnh thận 
Tăng nguy cơ nhiễm trùng tiết niệu hay nấm sinh 
dục, mất nước, sụt cân. 
Tăng nguy cơ nhiễm toan ceton. 
Insulin nền 
Dùng insulin nền 1 lần/ ngày đơn giản, 
phù hợp và dễ tuân trị 
Ít có nguy cơ hạ đường huyết 
Tóm lại, metformin là thuốc đầu tay trong 
điều trị ĐTĐ típ 2 ở người cao tuổi. Nếu không 
thể đạt được mục tiêu HbA1c, thầy thuốc nên 
phối hợp thêm các nhóm thuốc hạ đường huyết 
khác tùy bệnh cảnh lâm sàng của bệnh nhân. Khi 
bệnh nhân có bệnh tim mạch do xơ vữa hoặc 
bệnh thận mạn, các thuốc đồng vận GLP-1 hoặc 
ức chế SGLT2 đã được chứng minh là có lợi trên 
tim mạch hay bệnh thận tiến triển và ưu tiên sử 
dụng cho nhóm đối tượng bệnh nhân này. Khi 
bệnh nhân có điều kiện kinh tế hạn chế, nhóm 
thuốc Sulfonylureas hoặc Thiazolidinediones là 
lựa chọn hợp lý. Một khi cần sử dụng insulin để 
kiểm soát đường huyết, insulin nền phối hợp với 
các thuốc viên hạ đường huyết sẽ giúp đơn giản 
hoá phác đồ điều trị và dễ dàng chấp nhận hơn ở 
người cao tuổi. Nếu vẫn không thể kiểm soát 
được đường huyết, thầy thuốc nên hội ý thêm 
với đồng nghiệp chuyên khoa Dinh Dưỡng và 
Nội Tiết để cùng nhau phối hợp điều trị. 
THAY ĐỔI LỐI SỐNG 
Giáo dục sức khỏe để thay đổi lối sống bao 
gồm dinh dưỡng hợp lý và vận động thể lực là 
biện pháp nền tảng trong điều trị ĐTĐ. ĐTĐ 
cũng là yếu tố nguy cơ làm giảm sức cơ, chất 
lượng và khối lượng cơ, gây khởi phát bệnh lý 
suy yếu (frailty). Suy yếu là sự suy giảm thể chất 
và chức năng của cơ thể làm gia tăng nguy cơ 
của các biến cố về sức khoẻ như té ngã, tàn tật, 
nhập viện, tử vong. Để phòng ngừa suy yếu trên 
bệnh nhân ĐTĐ chúng ta cần cung cấp chế độ 
dinh dưỡng hợp lý tối ưu, đầy đủ protein, acid 
amin cùng với vận động thể lực đều đặn thông 
qua các bài tập aerobic và bài tập kháng lực(1). 
KẾT LUẬN 
Quản lý và điều trị ĐTĐ ở người cao tuổi là 
thách thức lớn cho hệ thống y tế. Thầy thuốc 
chúng ta cần đánh giá bệnh nhân một cách toàn 
diện để đưa ra mục tiêu kiểm soát đường huyết 
phù hợp cho từng đối tượng. Với việc đặt bệnh 
nhân làm trung tâm và cá thể hóa điều trị, người 
thầy thuốc cũng lưu ý việc đơn giản hoá phác đồ 
điều trị và nới lỏng mục tiêu điều trị cho những 
bệnh nhân cao tuổi có nhiều bệnh đồng mắc. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2019 11
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Cefalu WT, Berg EG, Saraco M, Petersen MP, Uelmen S, 
Robinson SJDC (2019). Older Adults: Standards of Medical Care 
in Diabetes-2019, 42:S139-S47. 
2. Graf C (2008). The Lawton instrumental activities of daily living 
scale. Am J Nurs, 108(4):52-62. 
3. Kirkman MS, Briscoe VJ, Clark N, et al (2012). Diabetes in older 
adults. Diabetes Care, 35:2650-64. 
4. Leung E, Wongrakpanich S, Munshi MN (2018). Diabetes 
management in the elderly. Diabetes Spectr, 31:245-53. 
5. Nguyễn Đình Toàn (2005). So sánh thang điểm moca và mmse 
trong tầm soát sa sút trí tuệ ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2. Y 
học TP. Hồ Chí Minh, 9:121-6. 
Ngày nhận bài báo: 15/05/2019 
Ngày bài báo được đăng: 02/07/2019 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_luu_y_khi_dieu_tri_dai_thao_duong_tip_2_o_nguoi_cao_t.pdf