Một số kết quả điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng methadone tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới tỉnh Hải Dương năm 2019

Nghiên cứu mô tả với cuộc điều tra cắt ngang, có kết hợp giữa nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng được thực hiện trên 190 người sử dụng ma túy điều trị Methadone tại Bệnh viện Bệnh nhiệt đới tỉnh Hải Dương năm 2019. Kết quả cho thấy: Trong tổng số đối tượng điều trị Methadone, nhóm đối tượng khởi liều với liều lượng 11-20mg/ngày chiếm 64,7%; nhóm đối tượng có liều điều trị hiện tại ≤60 mg/ngày chiếm 61,1%.

- 80% số đối tượng có tăng cân, cân nặng trung bình của đối tượng đang điều trị Methadone cao hơn cân nặng trung bình (kg) trước điều trị (60,5±9,2 so với 55,7±7,4) (p>0,05).

- 13,7% đối tượng không có tác dụng phụ khi điều trị Methadone. Ở những đối tượng bị tác dụng phụ khi điều trị, táo bón chiếm tỷ lệ cao nhất 70,5%, tiếp đến là giảm khả năng quan hệ tình dục (32,6%); ra nhiều mồ hôi (22,6%), thấp nhất là các bệnh về răng miệng (18,9%).

 - 77,4% đối tượng không sử dụng heroin trong tháng qua; 22,6% có sử dụng lại. Lý do đối tượng sử dụng lại chất gây nghiện là bạn bè rủ rê chiếm 69,8%; ham vui, tìm cảm giác (30,2%); thèm muốn ma túy (27,9%) Điều trị Methadone là giải pháp lựa chọn tốt cho người nghiện các chất dang thuốc phiện từ bỏ ma túy, nâng cao chất lượng cuộc sống

pdf 6 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Một số kết quả điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng methadone tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới tỉnh Hải Dương năm 2019", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số kết quả điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng methadone tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới tỉnh Hải Dương năm 2019

Một số kết quả điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng methadone tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới tỉnh Hải Dương năm 2019
SỐ 4 (57) - Tháng 07-08/2020
Website: yhoccongdong.vn 15
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ THAY THẾ NGHIỆN CÁC CHẤT 
DẠNG THUỐC PHIỆN BẰNG METHADONE TẠI BỆNH VIỆN 
BỆNH NHIỆT ĐỚI TỈNH HẢI DƯƠNG NĂM 2019
Hà Mạnh Trung1, Phạm Văn Trọng2, Đặng Bích Thủy2 
TÓM TẮT
Nghiên cứu mô tả với cuộc điều tra cắt ngang, có kết 
hợp giữa nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng 
được thực hiện trên 190 người sử dụng ma túy điều trị 
Methadone tại Bệnh viện Bệnh nhiệt đới tỉnh Hải Dương 
năm 2019. Kết quả cho thấy: Trong tổng số đối tượng điều 
trị Methadone, nhóm đối tượng khởi liều với liều lượng 
11-20mg/ngày chiếm 64,7%; nhóm đối tượng có liều điều 
trị hiện tại ≤60 mg/ngày chiếm 61,1%. 
- 80% số đối tượng có tăng cân, cân nặng trung 
bình của đối tượng đang điều trị Methadone cao hơn 
cân nặng trung bình (kg) trước điều trị (60,5±9,2 so với 
55,7±7,4) (p>0,05). 
- 13,7% đối tượng không có tác dụng phụ khi điều 
trị Methadone. Ở những đối tượng bị tác dụng phụ khi 
điều trị, táo bón chiếm tỷ lệ cao nhất 70,5%, tiếp đến là 
giảm khả năng quan hệ tình dục (32,6%); ra nhiều mồ hôi 
(22,6%), thấp nhất là các bệnh về răng miệng (18,9%).
- 77,4% đối tượng không sử dụng heroin trong tháng 
qua; 22,6% có sử dụng lại. Lý do đối tượng sử dụng lại 
chất gây nghiện là bạn bè rủ rê chiếm 69,8%; ham vui, tìm 
cảm giác (30,2%); thèm muốn ma túy (27,9%)
Điều trị Methadone là giải pháp lựa chọn tốt cho 
người nghiện các chất dang thuốc phiện từ bỏ ma túy, 
nâng cao chất lượng cuộc sống
Từ khóa: Điều trị Methadone; bệnh viện Bệnh nhiệt 
đới tỉnh Hải Dương.
SUMMARY:
SOME RESULTS OF METHADONE 
MAINTENANCE TREATMENT AT HAI DUONG 
HOSPITAL FOR TROPICAL DISEASES, 2019
Descriptive study with a cross-sectional survey, 
combining qualitative research and quantitative research 
conducted on 190 drug users to treat Methadone at the 
Hospital for Tropical Diseases in Hai Duong Province in 
2019, The results showed that: Among the patients taking 
Methadone, the group of patients starting the dose with 
11-20mg/day (64.7%); patients with current therapeutic 
dose ≤60 mg/day (61.1%).
- 80% of subjects gained weight. The average weight 
of the subjects being treated with Methadone was higher 
than the average weight before treatment (60.5 ± 9.2 
compared to 55.7 ± 7.4) (p>0.05).
- 13.7% of patients had no side effects during 
Methadone treatment. Among those who experienced 
side effects after treatment, constipation accounted for the 
highest percentage of 70.5%, followed by reduced ability 
to have sex (32.6%); sweating (22.6%), the lowest is oral 
diseases (18.9%).
- 77.4% of patients did not use heroin in the past 
month; 22.6% have reused. The reason why drug reuse 
users are friends invite their friends to make up 69.8%; 
playful, find feelings (30.2%); drug cravings (27.9%)
Methadone treatment is a good choice for drug users 
who give up drugs and improve the quality of life.
Keywords: Methadone maintenance treatment; Hai 
Duong hospital for tropical diseases.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo ước tính của Tổ chức phòng chống ma tuý và 
tội phạm Liên Hợp quốc (UNODC), trên thế giới cứ 20 
người thì có 1 người từ 15-64 tuổi đã sử dụng ít nhất một 
loại chất gây nghiện [8], trong đó gần 12% tổng số những 
người sử dụng ma túy (SDMT). Tại Việt Nam, có hơn 
225.099 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý, trong thực 
tế, con số này có thể nhiều hơn. SDMT có ảnh hưởng 
nghiêm trọng không chỉ đến tình trạng sức khỏe của người 
Ngày nhận bài: 21/05/2020 Ngày phản biện: 29/05/2020 Ngày duyệt đăng: 10/06/2020
1. Bệnh viện Bệnh nhiệt đới tỉnh Hải Dương
2. Trường Đại học Y Dược Thái Bình
SỐ 4 (57) - Tháng 07-08/2020
Website: yhoccongdong.vn16
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2020
sử dụng mà còn ảnh hưởng đến người thân, gia đình và 
toàn xã hội. 
Để giảm thiểu tác hại do SDMT gây ra, chương trình 
điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện (CDTP) 
bằng Methadone là một giải pháp. Thế giới đã triển khai 
chương trình này từ những năm 1960 và đã có nhiều bằng 
chứng điều trị Methadone là liệu pháp có thể đạt được 
mục tiêu giảm người nghiện, giảm lây nhiễm HIV và tội 
phạm [6],[8]. Ở Việt Nam hiện nay có 63 tỉnh thành trên 
cả nước đã triển khai chương trình cho 52.818 người bệnh 
[1]. Chương trình điều trị Methadone đã có hiệu quả giúp 
làm giảm mạnh việc SDMT bất hợp pháp, giảm tần suất 
tiêm chích, tỉ lệ sử dụng chung bơm kim tiêm và nguy cơ 
lây truyền HIV, giảm các hoạt động phạm pháp, xung đột 
với gia đình, xã hội và tái hòa nhập với cộng đồng, tăng 
cường chất lượng cuộc sống [2],[3],[7].
Ngoài những kết quả đã đạt được, chương trình điều 
trị Methadone hiện nay vẫn còn có một số kết quả cần 
quan tâm đó là tỉ lệ bỏ trị cao, người bệnh không tuân thủ 
điều trị, bỏ liều, sử dụng lại heroin và ma túy tổng hợp 
... Mặt khác, trong bối cảnh kinh phí dành cho công tác 
phòng, chống HIV/AIDS bị giảm mạnh do tài trợ quốc tế 
cắt giảm trong những năm gần đây, nguồn nhân lực, vật 
lực dành cho chương trình điều trị Methadone hạn chế có 
thể gây ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của chương 
trình và trở thành thách thức trong công cuộc phòng chống 
HIV/AIDS.
Với mong muốn tìm hiểu thực trạng, đánh giá kết 
quả của chương trình điều trị Methadone nhằm đưa ra các 
bằng chứng khoa học, giải pháp cải thiện chất lượng điều 
trị cho người bệnh nghiện chất dạng thuốc phiện tại tỉnh 
Hải Dương, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục 
tiêu sau:
Mô tả kết quả điều trị thay thế nghiện các chất dạng 
thuốc phiện bằng Methadone ở người sử dụng ma túy tại 
cơ sở điều trị Methadone thuộc Bệnh viện Bệnh nhiệt đới 
tỉnh Hải Dương năm 2019.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, địa điểm, thời gian nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: Người bệnh đang được điều 
trị tại cơ sở điều trị Methadone Bệnh viện Nhiệt đới tỉnh 
Hải Dương từ 3 tháng trở lên (những người bệnh đang 
điều trị với liều duy trì và ổn định).
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 10/2019 đến tháng 
3/2020
2.2. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả với cuộc điều tra cắt ngang, có kết 
hợp giữa nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng.
2.3. Cỡ mẫu: Toàn bộ người bệnh đang điều trị 
Methadone tại Bệnh viện Bệnh nhiệt đới tỉnh Hải Dương 
đáp ứng theo đúng tiêu chí lựa chọn đối tượng nghiên cứu
2.4. Kỹ thuật áp dụng trong nghiên cứu
Phỏng vấn trực tiếp người bệnh theo mẫu phiếu 
phỏng vấn
2.5. Xử lý số liệu
Phần mềm SPSS 20.0. Tính tỷ lệ %; giá trị trung 
bình, so sánh 2 giá trị trung bình, sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê khi p<0,05.
2.6. Đạo đức trong nghiên cứu 
Các đối tượng tham gia nghiên cứu đều được giải 
thích lý do, đối tượng toàn quyền từ chối khi không muốn 
tham gia. Các thông tin của đối tượng được hoàn toàn giữ 
bí mật và kết quả nghiên cứu chỉ phục vụ cho mục đích 
khoa học.
- Đề cương nghiên cứu đã được Hội đồng khoa học 
của trường Đại học Y Dược Thái Bình thông qua. 
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong tổng số 190 đối tượng nghiên cứu, nam giới 
chiếm tỷ lệ rất cao (98,4%), nữ chiếm 1,6%. Nhóm tuổi 
chiếm tỷ lệ cao nhất là 30- 49 tuổi (77,9%), tiếp đến là 
nhóm ≥ 50 tuổi (17,9%), nhóm dưới 30 tuổi (4,2%). Về 
trình độ học vấn: Phổ thông trung học chiếm nhiều nhất 
(45,8%); trung học cơ sở (29,5%); không đi học, tiểu 
học (13,2%); thấp nhất là cao đẳng, đại học (11,5%). Có 
92,1% đối tượng đã từng tự cai nghiện; 7,9% số đối tượng 
chưa cai nghiện lần nào.
SỐ 4 (57) - Tháng 07-08/2020
Website: yhoccongdong.vn 17
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Kết quả bảng 1 cho thấy, thời gian sử dụng ma túy 
từ 10 năm trở lên chiếm tỷ lệ khá cao (70,5%), hình thức 
sử dụng chủ yếu là tiêm chích (81,1%). Tần xuất sử dụng 
từ 1-2 lần/ngày chiếm 66,3%, từ 3-4 lần/ngày chiếm 
19,5%,từ 5 lần trỏe lên chiếm 14,2%.
Bảng 1. Thời gian, tần xuất sử dụng ma túy trước khi điều trị Methadone của đối tượng nghiên cứu (n=190)
Nội dung Số lượng Tỷ lệ (%)
Thời gian sử dụng ma túy
< 5 năm 22 11,6
5 - 10 năm 34 17,9
> 10 năm 134 70,5
Tần xuất sử dụng 
1-2 lần/ngày 126 66,3
3- 4 lần/ngày 37 19,5
≥ 5 lần/ngày 27 14,2
Hình thức sử dụng 
Hút, hít 36 18,9
Chích 154 81,1
Bảng 2. Liều khởi đầu và liều điều trị hiện tại của đối tượng nghiên cứu (n=190)
Nội dung Số lượng Tỷ lệ (%)
Liều khởi đầu
≤ 10 mg/ngày 22 11,6
11 – 20mg/ngày 123 64,7
> 20 mg/ngày 45 23,7
Liều điều trị
 hiện tại
≤ 60 mg/ngày 116 61,1
61 - 120mg/ngày 54 28,4
> 120 mg/ngày 20 10,5
Liều điều trị trung bình (X ± SD) 68,8 ± 52,7
Bảng 3. Thay đổi cân nặng của đối tượng điều trị Methadone (n=190)
Nội dung Số lượng Tỷ lệ (%)
Tình trạng thay đổi cân nặng so với khi bắt đầu điều trị
Giảm/ không tăng cân 38 20,0
Tăng cân ≤ 5 kg 76 40,0
Tăng cân > 5 kg 76 40,0
Cân nặng trung bình của đối tượng trước khi điều trị (X ± SD) 55,7 ± 7,4
Cân nặng trung bình của đối tượng đang điều trị (X ± SD) 60,5 ± 9,2
So sánh cân nặng trung bình trước và sau điều trị: p>0,05
Kết quả bảng 2 cho thấy, trong 190 đối tượng điều 
trị Methadone nhóm đối tượng khởi liều với liều lượng 
11 - 20mg/ngày chiếm 64,7%. Nhóm đối tượng có liều 
điều trị hiện tại ≤60 mg/ngày chiếm tỷ lệ khá cao (61,1%), 
từ 61-120mg/ngày chiếm 28,4%, trên 120mg/ngày chiếm 
10,5%.
SỐ 4 (57) - Tháng 07-08/2020
Website: yhoccongdong.vn18
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2020
Bảng 4. Tác dụng phụ khi điều trị Methadone của đối tượng nghiên cứu (n=190)
Tác dụng phụ Số lượng Tỷ lệ (%)
Không tác dụng phụ 26 13,7
Táo bón 134 70,5
Ra nhiều mồ hôi 43 22,6
Các bệnh về răng miệng 36 18,9
Giảm khả năng quan hệ tình dục 62 32,6
Bảng 5. Tình trạng đối tượng đang điều trị Methadone có vấn đề về sức khỏe phải nằm viện
 trong 3 tháng vừa qua (n=190)
Có vấn đề về sức khỏe phải nằm viện Số lượng Tỷ lệ (%) 
Có 8 4,2
Không 182 95,8
Bảng 6. Tình trạng đối tượng sử dụng chất gây nghiện trong tháng qua (n=190)
Thông tin Số lượng Tỷ lệ (%)
Sử dụng ma túy
(n=190)
Có 43 22,6
Không 147 77,4
Lý do sử dụng lại chất gây nghiện 
(n=43)
Bạn bè rủ rê 30 69,8
Thèm muốn ma túy 12 27,9
Buồn chán, thất vọng 9 20,9
Ham vui, tìm cảm giác 13 30,2
Đi xa, bỏ liều, mệt 5 11,6
Kết quả bảng 4 cho thấy tỷ lệ đối tượng không có tác 
dụng phụ khi điều trị Methadone chiếm tỷ lệ thấp 13,7%. 
Ở những đối tượng bị tác dụng phụ khi điều trị thì táo bón 
chiếm tỷ lệ cao nhất 70,5%, tiếp đến là giảm khả năng 
quan hệ tình dục (32,6%); ra nhiều mồ hôi (22,6%), thấp 
nhất là các bệnh về răng miệng (18,9%).
Kết quả bảng trên cho thấy cân nặng trung bình của 
đối tượng đang điều trị Methadone là 60,5 ± 9,2 kg cao 
hơn cân nặng trung bình trước điều trị (55,7 ±7,4 kg), tuy 
nhiên sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ đối 
tượng giảm hoặc không tăng cân chiếm tỷ lệ thấp 20%. 
80% số đối tượng có tăng cân. 
Kết quả bảng 5 cho thấy 95,8% đối tượng không bị vấn đề sức khỏe phải nằm viện,chỉ có 4,2% là có bệnh phải 
nhập viện điều trị
SỐ 4 (57) - Tháng 07-08/2020
Website: yhoccongdong.vn 19
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Kết quả bảng 6 cho thấy tỷ lệ đối tượng không sử 
dụng heroin trong tháng qua chiếm 77,4%. Tỷ lệ đối 
tượng sử dụng heroin trong tháng qua chiếm tỷ lệ 22,6%. 
Lý do đối tượng sử dụng lại chất gây nghiện là bạn bè rủ 
rê chiếm tỷ lệ cao 69,8%; Ham vui, tìm cảm giác (30,2%); 
Thèm muốn ma túy (27,9%).
IV. BÀN LUẬN
Điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện 
bằng thuốc Methadone là một điều trị lâu dài, có kiểm 
soát, giá thành rẻ, được sử dụng theo đường uống, dưới 
dạng siro nên giúp dự phòng các bệnh lây truyền qua 
đường máu như HIV, viêm gan B, C, đồng thời giúp 
người bệnh phục hồi chức năng tâm lý, xã hội, lao động 
và tái hoà nhập cộng đồng [1],[2].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, kết quả cho thấy có 
98,4% đối tượng tham gia nghiên cứu là nam giới, nữ giới 
chiếm tỷ lệ rất thấp 1,6%. Tỷ lệ giới tính của nghiên cứu 
này có nhiều tương đồng với các nghiên cứu khác ở trên 
thế giới cũng như ở Việt Nam về điều trị Methadone [2], 
[3],[6].
Đối tượng tham gia nghiên cứu này trong nhóm tuổi 
30-49 tuổi chiếm tỷ lệ cao 77,9%, kết quả nghiên cứu của 
chúng tôi thấp hơn với kết quả nghiên cứu của Phạm Văn 
Hán 83,6% [4]. Kết quả của nghiên cứu này khác với báo 
cáo kết quả công tác phòng chống ma túy của Ủy ban nhân 
dân tỉnh Hải Dương là độ tuổi người nghiện ma túy ngày 
càng trẻ hóa [5]. Tuy nhiên báo cáo của Ủy ban nhân dân 
tỉnh Hải Dương là tất cả những người sử dụng ma túy bao 
gồm cả ma túy tổng hợp, loại ma túy mà nhóm tuổi còn 
trẻ sử dụng nhiều.
Về liều điều trị tại thời điểm nghiên cứu nhóm đối 
tượng uống liều ≤60 mg/ngày chiếm tỷ lệ cao nhất 61,1% 
và liều điều trị trung bình là 68,8 ± 52,7 mg/ngày thấp 
hơn của một số nghiên cứu khác, như tại Hải Phòng 100 
mg/ngày [3]. Liều Methadone hàng ngày của đối tượng 
trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn nhiều nghiên cứu 
khác có thể lý giải do nhiều nguyên nhân. Thời gian điều 
trị của đối tượng nghiên cứu này dài, có nhiều đối tượng 
đang xin giảm liều để ra khỏi chương trình, đối tượng bỏ 
liều >3 ngày liều Methadone cũng giảm. Ngoài ra tâm lý 
đối tượng không muốn uống nhiều Methadone do lo sợ bị 
nhiều tác dụng phụ, liều thấp thì sau này ít bị lệ thuộc vào 
Methadone và đối tượng chủ động gặp bác sỹ xin giảm 
liều thấp. 
Về tác dụng phụ của thuốc, kết quả của chúng tôi cho 
thấy, tỷ lệ đối tượng không có tác dụng phụ khi điều trị 
Methadone chiếm tỷ lệ thấp 13,7%. Ở những đối tượng 
bị tác dụng phụ khi điều trị thì táo bón chiếm tỷ lệ cao 
nhất 70,5%, tiếp đến là giảm khả năng quan hệ tình dục 
(32,6%); ra nhiều mồ hôi (22,6%), thấp nhất là các bệnh 
về răng miệng (18,9%). 
Nhiều nghiên cứu đã cho thấy, tác dụng phụ của 
điều trị Methadone, ví dụ táo bón hoặc khô miệng, được 
lưu ý trong chương trình điều trị. Nhìn chung, khoảng 
75,2% người bệnh đã trải qua ít nhất một tác dụng phụ 
trong vòng 3 tháng đầu, sau đó báo cáo có tác dụng phụ 
đã giảm xuống khoảng 60,6% vào cuối tháng thứ 12 và 
tiếp tục giảm xuống còn 46,3% sau 24 tháng. Táo bón, 
tăng tiết mồ hôi và khô miệng là ba triệu chứng phổ biến 
nhất của tác dụng phụ được báo cáo. Mối quan ngại 
chính của người bệnh là rối loạn tình dục không phổ 
biến trong năm thứ hai điều trị, tỷ lệ người bệnh báo cáo 
có các vấn đề liên quan đến hoạt động tình dục là dưới 
10% [1],[2],[7].
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy sau 
khi điều trị Methadone có 80% đối tượng tăng cân so với 
thời điểm bắt đầu điều trị. Kết quả này tương đồng với 
nghiên cứu của Phạm Thị Bích tại Kinh Môn, Hải Dương 
74% [2]. Cân nặng trung bình của đối tượng trước khi 
điều trị Methadone là 55,7 ±7,4 kg, thời điểm hiện tại cân 
nặng trung bình của đối tượng đang điều trị Methadone 
60,5 ± 9,2 kg. Cân nặng của đối tượng tăng là chỉ số đánh 
giá sức khỏe thể chất đối tượng có những thay đổi tích cực 
khi tham gia điều trị Methadone. Trước khi đối tượng điều 
trị Methadone, tìm kiếm và sử dụng ma túy là mối quan 
tâm chính. Sau khi điều trị Methadone ổn định, đối tượng 
bỏ được heroin, đối tượng có điều kiện kinh tế, thời gian 
nhiều hơn để quan tâm đến bản thân, họ sống lành mạnh 
hơn, dinh dưỡng tốt hơn và sức khỏe thể chất đối tượng 
được cải thiện tốt hơn.
Về tỷ lệ đối tượng không sử dụng heroin trong tháng 
qua chiếm 77,4%, có sử dụng chiếm tỷ lệ 22,6%. Lý do 
đối tượng sử dụng lại chất gây nghiện là bạn bè rủ rê 
chiếm tỷ lệ cao 69,8%; Ham vui, tìm cảm giác (30,2%); 
Thèm muốn ma túy (27,9%).
Mặc dù kết quả đối tượng tái sử dụng lại heroin trong 
quá trình điều trị Methadone trong các nghiên cứu có 
thể khác nhau nhưng không thể phủ nhận rằng, điều trị 
Methadone có ảnh hưởng tích cực đối với hành vi sử dụng 
ma túy của đối tượng. Kết quả cho thấy liệu pháp điều trị 
Methadone là giải pháp, lựa chọn tốt cho người nghiện 
các chất dạng thuốc phiện từ bỏ ma túy, nâng cao chất 
lượng cuộc sống.
SỐ 4 (57) - Tháng 07-08/2020
Website: yhoccongdong.vn20
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2020
KẾT LUẬN
Trong 190 đối tượng điều trị Methadone, nhóm 
đối tượng khởi liều với liều lượng 11-20mg/ngày chiếm 
64,7%; nhóm đối tượng có liều điều trị hiện tại ≤60 mg/
ngày chiếm 61,1%. 
- Có 80% số đối tượng có tăng cân. Cân nặng trung 
bình của đối tượng đang điều trị Methadone cao hơn cân 
nặng trung bình (kg) trước điều trị (60,5 ± 9,2 so với 55,7 
±7,4) (p>0,05). 
- 13,7% đối tượng không có tác dụng phụ khi điều 
trị Methadone. Ở những đối tượng bị tác dụng phụ khi 
điều trị thì táo bón chiếm tỷ lệ cao nhất 70,5%, tiếp đến 
là giảm khả năng quan hệ tình dục (32,6%); ra nhiều mồ 
hôi (22,6%), thấp nhất là các bệnh về răng miệng (18,9%).
- 77,4% đối tượng không sử dụng heroin trong tháng 
qua; 22,6% có sử dụng lại. Lý do đối tượng sử dụng lại 
chất gây nghiện là bạn bè rủ rê chiếm 69,8%; ham vui, tìm 
cảm giác (30,2%); thèm muốn ma túy (27,9%) 
KIẾN NGHỊ
Cơ sở điều trị Methadone tăng cường các hoạt động 
tư vấn cho người bệnh, tập trung tư vấn các vấn đề về tuân 
thủ điều trị Methadone; kỹ năng từ chối, đối phó thèm nhớ 
ma túy; kỹ năng sống lành mạnh.
Tăng cường vai trò của gia đình đối với việc hỗ trợ 
người bệnh trong quá trình điều trị Methadone. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế (2010), Quyết định 3140/QĐ-BYT ban hành hướng dẫn điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc 
phiện bằng thuốc methadone.
2. Phạm Thị Bích (2015), Kết quả điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc methadone và 
một số yếu tố liên quan tại huyện Kinh Môn- Hải Dương năm 2015, Luận văn thạc sỹ, Đại học Y tế công cộng.
3. Vũ Văn Công, Dương Thị Hương (2009), “Hiệu quả triển khai điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng 
thuốc methadone tại Hải Phòng”, Tạp chí Y học dự phòng. Tập XXIII, số 2 (138), tr. 66-71.
4. Phạm Văn Hán, Nguyễn Thị Thắm, Nguyễn Thu Phương (2011), “Thực trạng tuân thủ điều trị của bệnh nhân 
điều trị methadoe tại cơ sở điều trị methadone quận Lê Chân, Hải Phòng”, Tạp chí Y học Việt Nam. số 1/2013, tr. 42-47.
5. Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương (2019), Số 1227/BC-BCĐ Báo cáo kết quả công tác phòng chống ma túy 6 
tháng đầu năm 2019.
6. Jeganathan Premila Devi, Ab Rahman Azriani, Wan Mohd Zahiruddin et al (2012), “The Effectiveness of Meth-
adone Maintenance Therapy Among Opiate”, Malays J Med Sci. 19(4).
7. Teoh JB, Yee A, Danaee M et al (2017), “Erectile Dysfunction Among Patients on Methadone Maintenance 
Therapy and Its Association With Quality of Life”, Addiction Medicine. 11(1), pp. 44-46.
8. UNODC (2016), World drug report 2016.

File đính kèm:

  • pdfmot_so_ket_qua_dieu_tri_thay_the_nghien_cac_chat_dang_thuoc.pdf