Một số giải pháp phát triển năng lực tự học cho sinh viên ngành giáo dục mầm non, Trường Cao đẳng Sơn La
ABSTRACT
Self-study competency is a factor that directly affects students’ learning
results, as well as the teaching of lecturers. Students’ self- study is essential
because it will help students to be self-aware of the learning tasks and be ready
to study, contributing to improve the learning quality of students, such as
improve the effectiveness of preschool teacher training, meeting the training
curriculum innovation towards approaching learners' competencies and the
needs of society today
Bạn đang xem tài liệu "Một số giải pháp phát triển năng lực tự học cho sinh viên ngành giáo dục mầm non, Trường Cao đẳng Sơn La", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số giải pháp phát triển năng lực tự học cho sinh viên ngành giáo dục mầm non, Trường Cao đẳng Sơn La
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 475 (Kì 1 - 4/2020), tr 59-64 59 MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO SINH VIÊN NGÀNH GIÁO DỤC MẦM NON, TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƠN LA Nguyễn Thị Hồng Vân+, Hoàng Thị Vân Trường Cao đẳng Sơn La + tác giả liên hệ ● Email: hongvancdsl@gmail.com Article History ABSTRACT Received: 05/02/2020 Accepted: 25/02/2020 Published: 05/4/2020 Self-study competency is a factor that directly affects students’ learning results, as well as the teaching of lecturers. Students’ self- study is essential because it will help students to be self-aware of the learning tasks and be ready to study, contributing to improve the learning quality of students, such as improve the effectiveness of preschool teacher training, meeting the training curriculum innovation towards approaching learners' competencies and the needs of society today. Keywords Competency, self-learning, solution, Son La College, preschool teacher training. 1. Mở đầu Phương thức đào tạo theo tín chỉ ở các trường đại học, cao đẳng hiện nay chú trọng “lấy người học làm trung tâm” trong quá trình dạy và học, phát huy được tính chủ động, sáng tạo của người học. Trong phương thức đào tạo theo tín chỉ thì việc tự học (TH), tự nghiên cứu của sinh viên (SV) được coi trọng, được tính vào nội dung và thời lượng của chương trình. SV muốn nắm chắc khối lượng kiến thức cần thiết, SV phải tăng cường thời gian TH của mình và chủ động tự chiếm lĩnh tri thức dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giảng viên (GV). Bên cạnh đó, để SV hứng thú TH ở nhà và phát huy tính tích cực học tập của SV ở trên lớp thì GV phải tổ chức được các hình thức và các phương pháp dạy học tích cực, khơi dậy ở SV lòng ham hiểu biết, tìm tòi học hỏi, tạo cho SV có động cơ học tập, có hứng thú học tập để tiếp thu những kiến thức mới. Khi có hứng thú học tập thì SV sẽ tham gia hoạt động học tập sôi nổi, hào hứng và tích cực. Hứng thú với học tập là một yếu tố rất quan trọng và cần thiết giúp cho việc TH của SV mang lại hiệu quả cao, tránh được sự căng thẳng và nhàm chán, từ đó góp phần nâng cao chất lượng, đáp ứng những yêu cầu của đổi mới chương trình đào tạo theo hướng tiếp cận năng lực (NL) người học. Từ thực tiễn giảng dạy và tổ chức các hoạt động học tập cho SV ngành Giáo dục Mầm non ở Trường Cao đẳng Sơn La, chúng tôi nhận thấy SV quen thụ động nghe, chép, ghi nhớ và tái hiện một cách máy móc, rập khuôn những gì GV đã giảng mà chưa có tư duy sáng tạo, chưa biết cách TH. SV còn tỏ ra chán học, thiếu cảm hứng, thiếu niềm đam mê học tập; lười tư duy, lười đọc là xu hướng khá phổ biến... Tình trạng này một phần là do phương pháp dạy học của GV chưa kích thích được tính tích cực, sáng tạo của SV do chưa hướng dẫn và tổ chức cho SV phương pháp TH đúng đắn. Do đó, để SV có động cơ tích cực TH cần giáo dục để SV nhận thức rằng TH suốt đời là NL cốt lõi của con người trong thế kỉ XXI và với giáo viên thì không chỉ cần cho bản thân mà còn phải giáo dục cho học sinh của mình như là một tiêu chuẩn nghề nghiệp. Từ việc phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc học của SV nói chung, SV nhà trường nói riêng, tác giả đưa ra một số giải pháp phát huy NL TH cho SV ngành Giáo dục mầm non, Trường Cao đẳng Sơn La. 2. Kết quả nghiên cứu 2.1. Khách thể và phương pháp nghiên cứu Để tìm hiểu thực trạng học tập của SV ngành Giáo dục mầm non, Trường Cao đẳng Sơn La, chúng tôi tiến hành khảo sát 197 SV, trong đó có 70 SV năm thứ nhất, 67 SV năm thứ hai và 60 SV năm thứ ba từ tháng 8/2019 đến tháng 12/2019 bằng nhiều phương pháp nghiên cứu như: điều tra bằng bảng hỏi, quan sát, xử lí số liệu bằng toán thống kê 2.2. Kết quả nghiên cứu 2.2.1. Thực trạng tự học của sinh viên ngành Giáo dục mầm non, Trường Cao đẳng Sơn La Học tập là việc SV tiếp thu kiến thức dưới sự hướng dẫn của GV và SV phải ý thức được rằng bản thân cần học tập, tìm tòi, suy nghĩ thêm để hiểu rõ và mở rộng các kiến thức đã thu thập được. Bên cạnh mục đích học tập, SV còn phải có tinh thần thái độ học tập đúng đắn, học đi đôi với hành, học ở nhà trường, học ngoài xã hội. Chính vì thế, việc định hướng cho SV cách học tập và rèn luyện để trở thành những giáo viên mầm non có NL sau này là điều hết sức quan trọng và thiết thực. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 475 (Kì 1 - 4/2020), tr 59-64 60 Qua khảo sát cho thấy, đa số SV cho rằng học tập là việc rất cần thiết và quan trọng không thể thiếu được trong nhà trường, đặc biệt là ngành Giáo dục mầm non: có 168 SV được hỏi cho rằng việc học tập là rất cần thiết (chiếm tỉ lệ 85,3%); 29 SV khẳng định là cần thiết (chiếm tỉ lệ 14,7%); đặc biệt không có SV nào cho rằng việc học tập là ít cần thiết và không cần thiết. Điều đó chứng tỏ rằng, SV đều nhận thức được kết quả học tập là những kiến thức gắn liền với nghề nghiệp của mình sau này. Đây cũng chính là động lực thúc đẩy GV nghiên cứu, tìm tòi, vận dụng sáng tạo các phương pháp dạy học tích cực theo hướng tiếp cận NL cho SV ngành Giáo dục mầm non để nâng cao chất lượng giáo dục. Bên cạnh một số SV có tinh thần, thái độ, kĩ năng học tập tốt, vẫn còn khá nhiều SV ý thức học tập chưa cao, chán học, lười học, chưa có khả năng TH; chưa chủ động tìm tòi sách, tài liệu phục vụ cho chuyên môn của mình; không có thói quen đọc giáo trình và các tài liệu liên quan đến môn học đó khi ở nhà, dẫn đến thực trạng thụ động trong học tập. Kết quả khảo sát cũng cho thấy: có 59,9% SV có sự hứng thú trong học tập, 49,3% SV có ý thức TH, 33% SV đã có sự chủ động tìm tòi sách, tài liệu phục vụ cho chuyên môn của mình; 26,9% SV nghiên cứu trước nội dung bài học. Tuy nhiên, tỉ lệ SV tích cực, chủ động cao nhất ở nhóm SV năm thứ ba, tiếp đến là nhóm SV năm thứ hai và thấp nhất là ở nhóm SV năm thứ nhất. Có thể lí giải cho điều này là do SV năm thứ ba và năm thứ hai đã bắt đầu học các môn chuyên ngành nên các em ý thức rất rõ về những kiến thức kĩ năng cần đạt được để có thể đảm nhiệm tốt nhiệm vụ của mình sau khi tốt nghiệp đi làm, đồng thời các em đã đi thực tập và tích lũy cho mình những kinh nghiệm học tập phù hợp. Hơn nữa, các môn chuyên ngành thường gần gũi với sở thích, hứng thú và mong muốn của học sinh, SV nên việc học tập cũng dễ dàng tiếp thu và tạo động lực cho các em. Còn các em SV năm nhất, do thay đổi môi trường sống và cách học tập nên nhiều SV chưa bắt nhịp ngay được với cách học tập ở trường chuyên nghiệp khi phải tự chọn môn học, tự sắp xếp thời gian và tự nghiên cứu tài liệu. Vì thế, nhiều SV sắp xếp thời gian không hợp lí trong học tập và đặc biệt là việc TH còn hạn chế dẫn đến kết quả học tập chưa cao. Các môn học là các môn chung cũng dễ khiến SV thiếu sự tích cực, chủ động do ít gần gũi với chuyên môn nghề nghiệp sau này. Đặc biệt, có nhiều SV cho biết do hoàn cảnh kinh tế gia đình còn gặp nhiều khó khăn, các em phải vừa học vừa kiếm việc làm thêm để đảm bảo cuộc sống nên cũng không còn nhiều thời gian dành cho việc TH của mình. Khi được hỏi: “SV mong muốn điều gì ở GV để tăng cường tính tích cực trong học tập và phát huy được NL TH của SV?” thì đa số SV được khảo sát mong muốn GV áp dụng các phương pháp dạy học tích cực để tích cực hoá người học trong các giờ học: có 82,72% SV mong muốn các bài giảng của GV gồm cả những tri thức mới không có trong giáo trình; 76,6% SV thích GV hỏi, khuyến khích SV đặt câu hỏi, hướng dẫn SV đào sâu suy nghĩ hơn là thuyết trình cả tiết học; 87,32% SV muốn khi bắt đầu mỗi môn học, GV thường xuyên kiểm tra, đánh giá kết quả TH của SV mà giờ học trước GV đã yêu cầu, hướng dẫn phương pháp TH, cách nghiên cứu tài liệu tham khảo và cách khai thác thông tin từ các tài liệu; 73,1% SV mong muốn các môn học có nhiều giờ TH có hướng dẫn của GV và giải đáp thắc mắc cho SV. Như vậy, qua việc khảo sát có thể thấy: SV ngành Giáo dục mầm non chưa nhận thức được vai trò quan trọng của việc TH, chưa thực sự tích cực chủ động trong TH và trong quá trình học tập SV có nhu cầu được hướng dẫn được tổ chức và tham gia tích cực các hoạt động TH trên lớp cũng như được hướng dẫn TH tại nhà. 2.2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến khả năng học tập của sinh viên 2.2.2.1. Các yếu tố khách quan - Thứ nhất, chương trình đào tạo theo học chế tín chỉ vẫn giữ nguyên lượng kiến thức chuyên ngành mà SV phải tích lũy, song thời lượng tiết học lại giảm xuống. Chương trình đề cao vai trò chủ động học tập của SV, giảm thời gian trên lớp, tăng thời gian TH, tự nghiên cứu của SV và SV phải chủ động tiếp thu kiến thức, còn GV đóng vai trò là người định hướng và trao đổi với SV những nội dung cơ bản của môn học. Tuy nhiên, nhiều SV vẫn chưa có thói quen làm việc độc lập, không sử dụng tốt thời gian TH, tự nghiên cứu ngoài giờ lên lớp dẫn đến chất lượng học tập chưa cao, hơn nữa việc bố trí thời gian để GV giải đáp thắc mắc cho SV chưa thành nền nếp, kịp thời. - Thứ hai, nhiều GV chưa phát huy tối đa hiệu quả tích cực của từng phương pháp dạy học mà chủ yếu vẫn giảng dạy theo phương pháp truyền thống “đọc - chép”, cách truyền thụ kiến thức một chiều dẫn đến phương pháp học tập của SV rất thụ động, không tập cho SV cách TH và thói quen TH, tự nghiên cứu và tư duy sáng tạo. Điều này không chỉ đơn giản là sử dụng các công cụ trợ giúp giảng dạy như máy tính, máy chiếu, như một số GV vẫn quan niệm như vậy đã đủ để SV hứng thú, tích cực học . - Thứ ba, phong trào học tập trong tập thể SV có tác động trực tiếp kích thích tính tích cực của mỗi SV. Tuy nhiên, mỗi người sẽ có sở thích và cách học tập riêng của mình. Mỗi người đều có thể lựa chọn cách TH một mình VJE Tạp chí Giáo dục, Số 475 (Kì 1 - 4/2020), tr 59-64 61 hoặc học theo nhóm. Cách học nào cũng có những ưu, khuyết điểm của nó nên cần lựa chọn một cách thông minh và cân bằng giữa cả hai kiểu học này để phát huy và khắc phục ưu nhược điểm của chúng, đồng thời phải luôn nỗ lực cố gắng học tập cho bằng bạn bè để đem lại kết quả học tập tốt hơn. - Thứ tư, vấn đề đánh giá kết quả học tập của SV cũng hết sức quan trọng, bởi nó là khâu cuối cùng không những đánh giá độ tin cậy kết quả học tập của quá trình dạy và học mà còn có tác dụng điều tiết trở lại quá trình đào tạo. Việc đánh giá kết quả học tập của SV chính xác, khách quan, chân thực với nội dung và hình thức, phù hợp với mục tiêu, yêu cầu đào tạo sẽ có tác dụng trực tiếp tới SV, là động lực khích lệ, thúc đẩy không khí thi đua sôi nổi, ý thức trách nhiệm và tinh thần tự giác, chủ động TH, tự rèn và sự tìm tòi sáng tạo không ngừng của SV, từ đó giúp SV tìm ra nguyên nhân và giải pháp để việc học tập có hiệu quả. - Thứ năm, sự quan tâm của gia đình có vai trò rất lớn trong việc định hướng phát triển của mỗi cá nhân. Thực tế, nếu có sự quan tâm, chia sẻ về mặt tinh thần và cả vật chất từ phía gia đình sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho SV trong học tập. Một gia đình vui vẻ, đầm ấm, hạnh phúc, cha mẹ quan tâm tới việc học của con là động lực tinh thần giúp SV dù phải sống xa gia đình nhưng vẫn tập trung vào việc học để đạt hiệu quả cao. Bên cạnh đó, gia đình có kinh tế đảm bảo sẽ giúp cho SV những cơ sở vật chất đầy đủ, thuận lợi cho việc học, SV sẽ không bị chi phối khi phải san sẻ thời gian học tập của mình để đi làm kinh tế đảm bảo cho cuộc sống của mình. Do đó, khi gia đình là điểm tựa vững chắc cho con cái sẽ tạo tâm lí thoải mái, giúp SV có động lực học tập tốt hơn. 2.2.2.2. Các yếu tố chủ quan - Thứ nhất, SV phải xác định được mục đích học tập của bản thân. Khi đăng kí vào học chuyên ngành đào tạo giáo viên mầm non của Trường Cao đẳng Sơn La, SV phải xác định được rằng bản thân cần học tập, rèn luyện để trở thành những giáo viên mầm non trong tương lai. Bởi vậy, SV cần phải hiểu về nghề giáo dục mầm non và hiểu rõ nội dung, chương trình mà bản thân SV phải học tập và rèn luyện để trở thành những giáo viên mầm non có NL sau này là điều hết sức quan trọng và thiết thực. - Thứ hai, SV cần lựa chọn các phương pháp học tập phù hợp với bản thân để rèn được thói quen TH ở nhà và phát huy tính tích cực học tập trên lớp thì sẽ khơi dậy tiềm năng vốn có của mình, đưa đến kết quả học tập tốt hơn. - Thứ ba, để đạt kết quả cao trong học tập, SV phải có những kĩ năng học tập như: kĩ năng ghi chép, kĩ năng đọc sách, kĩ năng tự nghiên cứu, kĩ năng ôn tập, kĩ năng TH trên thư viện, kĩ năng lựa chọn các thông tin trên Internet và đặc biệt SV phải biết vận dụng, phối hợp các kĩ năng phù hợp với từng môn học. - Thứ tư, vấn đề học tập là công việc đòi hỏi SV phải có một cơ thể khỏe mạnh với tinh thần sảng khoái và trí tuệ minh mẫn. Nếu sức khoẻ không tốt ảnh hưởng rất lớn đến quá trình tiếp thu kiến thức. Có thể nhận thấy rõ ràng, khi có vấn đề về sức khỏe, SV có thể phải nghỉ học, làm gián đoạn quá trình học tập, bỏ lỡ một số kiến thức GV cung cấp trong giờ lên lớp. Hoặc nếu đến lớp hay TH ở nhà thì khi sức khoẻ không tốt cũng làm giảm khả năng tập trung, khả năng ghi nhớ kiến thức dẫn đến kết quả học tập không hiệu quả. - Thứ năm, phương pháp dạy học của GV phải tác động và khơi dậy sự tích cực TH trong mỗi SV, việc dạy học phải tạo ra sự mới lạ và kích thích được tư duy sáng tạo cho SV. 2.3. Đề xuất một số giải pháp phát huy năng lực tự học cho sinh viên ngành Giáo dục mầm non, Trường Cao đẳng Sơn La 2.3.1. Định hướng cho sinh viên phương pháp tự học Muốn khả năng TH của SV được bồi dưỡng và phát triển, ngoài nhân tố nội lực của chính SV, còn có một nhân tố quan trọng là sự định hướng của GV với SV. Do đó, ngay từ khi bắt đầu vào học tại Trường Cao đẳng Sơn La, GV cần giúp đỡ SV học chuyên ngành đào tạo giáo viên mầm non xác định rõ động cơ và mục đích học tập của mình thông qua tuần giáo dục công dân, thông qua các buổi sinh hoạt lớp đầu tiên, thông qua học phần môn học, thông qua cố vấn học tập và GV chủ nhiệm, thông qua việc giao nội dung tự tìm hiểu về ngành học để SV xác định rõ học để trở thành giáo viên mầm non thì phải có các phẩm chất yêu nghề, yêu trẻ, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ và NL giáo dục đảm bảo được những yêu cầu đổi mới về mục tiêu, nội dung, phương pháp, kiểm tra, đánh giá các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ ở trường mầm non theo đúng chương trình giáo dục mầm non. Từ đó, nâng cao nhận thức, sự hiểu biết tiến tới làm cho SV xác định ý thức trách nhiệm của bản thân trong tổ chức thực hiện việc học tập và TH một cách tự giác, chủ động, vui vẻ và trách nhiệm cao, trong 3 năm học tập tại trường không ngừng hoàn thiện trình độ đào tạo ban đầu, vươn lên đáp ứng những nhu cầu mới. - SV phải thông hiểu bản thân mình sau những tuần học đầu tiên: xem xét mình có những phẩm chất gì cần bồi dưỡng khi làm giáo viên mầm non, khả năng TH theo tín chỉ như thế nào? Phương pháp học tập tại thư viện, VJE Tạp chí Giáo dục, Số 475 (Kì 1 - 4/2020), tr 59-64 62 sự mạnh dạn chủ động trong học tập ra sao Tự khám phá ra điểm mạnh và sở thích của bản thân, tìm thấy điều bản thân say mê trong môn học và biến việc học thành điều mình thích, chứ không chỉ là nghĩa vụ. - SV phải tự xây dựng cho mình một kế hoạch rõ ràng và chi tiết để phân bổ thời gian sao cho hợp lí giữa các môn học, địa điểm, thời gian, hình thức TH, đặc biệt là vào các thời điểm như kiểm tra hay thi cử. SV có thể sắp xếp thời gian học phù hợp với mình nhất, học bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu mà bản thân thấy tiện lợi và hứng thú. Bên cạnh đó, việc đặt mục tiêu phấn đấu hoàn thành tốt kế hoạch mà bản thân đã đề ra trước đó sẽ giúp SV biết mình cần phải học vì cái gì, những kiến thức đó sẽ được áp dụng ra sao và đem lại kết quả gì. Khi đó, SV sẽ hào hứng và chủ động trong việc học tập để có đủ kiến thức đạt mục tiêu đã đề ra. - Lập kế hoạch TH một cách khoa học và hợp lí: tra cứu tài liệu, đọc hiểu tài liệu, tổng hợp nội dung tra cứu được, liên kết các kiến thức bằng sơ đồ tư duy hoặc viết tóm tắt nội dung kiến thức. Việc sử dụng sơ đồ tư duy, viết tóm tắt và ghi nhớ các ý chính của bài học sẽ giúp SV có thể tận dụng tối đa khả năng ghi nhận kiến thức bằng hình ảnh của bộ não, đây được xem là một trong những phương pháp TH hiệu quả nhất. - SV cần chủ động tìm kiếm thông tin từ nhiều nguồn khác nhau: Trên các trang mạng xã hội chính thống, trên Internet, sự chia sẻ kiến thức khi tham gia học tập theo nhóm, xin ý kiến chuyên gia Việc làm này sẽ giúp kho tri thức của SV đa dạng hơn, đồng thời có thể tiếp cận một vấn đề ở nhiều góc độ khác nhau, từ đó đưa ra được những phân tích, lập luận và chính kiến của riêng mình. Khi bản thân đã có được một phương pháp hay cộng thêm sự kiên trì và cố gắng thì sẽ đạt được kết quả tốt trong học tập. - Tìm phương pháp TH phù hợp với bản thân: Có thể bắt đầu học bất cứ lúc nào bản thân mình muốn và tự nhủ phải cố gắng phấn đấu, phải “tập trung học” và làm ngay theo để rèn thói quen TH cho bản thân kết hợp với các kĩ năng khi học ở trên lớp: cách lắng nghe GV, cách ghi chép, tập trung và phối hợp chặt chẽ các giác quan vào quá trình thu nhận thông tin từ GV; đặt ra những câu hỏi nảy sinh trong quá trình nghe GV giảng để hoàn thành bài học. - SV phải phát huy tối đa nội lực và tận dụng triệt để các yếu tố khách quan, nhất là sự hướng dẫn của GV. Cụ thể, cần xác định được mục đích, động cơ, nhu cầu học tập; xây dựng thời gian biểu hợp lý giữa các môn học, địa điểm, thời gian, hình thức TH... Có thể tự sắp xếp thời khoá biểu cho riêng mình, có sự ưu tiên các môn học trong quá trình TH và phải có ý chí hoàn thành thời gian biểu đã đặt ra. - Có phương pháp học tập khoa học trên lớp: cách lắng nghe GV, cách ghi chép, tập trung và phối hợp chặt chẽ các giác quan vào quá trình thu nhận thông tin từ GV, bạn học; đặt ra những câu hỏi nảy sinh trong quá trình nghe GV giảng. - Có phương pháp TH một cách khoa học và hợp lí: Biết cách đọc tài liệu để phát hiện bản chất của vấn đề, biết cách tóm tắt và ghi chép. Ví dụ: ghi lại kiến thức bằng sơ đồ logic để thấy được mối liên hệ giữa các kiến thức; giữa kiến thức mới tìm được và kiến thức đã biết; biết cách tổng kết như cho ví dụ minh họa và phản ví dụ để giúp ghi nhớ và tái hiện; tự thắc mắc và đặt câu hỏi thắc mắc với bạn bè, thầy cô và những người am hiểu; vận dụng kiến thức TH vào trả lời câu hỏi, giải bài tập, vào chuyên môn và thực tiễn cuộc sống. - Nên tạo nhóm TH: là điều kiện cho các thành viên trong nhóm thảo luận, trao đổi, chia sẻ kiến thức kinh nghiệm TH cùng nhau; hoặc học với bất kì ai mà bản thân mình thích, kết hợp với các hoạt động khác để cùng giúp nhau bù đắp những phần còn yếu của từng người. TH thì phải tự giác, phải tự chủ, tự quản, khó khăn đến mấy thì cũng phải động viên nhau vượt qua để hoàn thành nhiệm vụ học tập của mình. - Mạnh dạn tham gia vào các cuộc thi như: Nghiệp vụ sư phạm giỏi, SV tài năng, Thi làm đồ dùng dạy học, Thi làm đồ chơi cho trẻ mầm non Đó cũng là những cơ hội để SV tự kiểm tra và rèn luyện NL nghề cho bản thân. - Biết kết hợp học tập với hoạt động giải trí, thể thao, văn nghệ để giảm bớt áp lực trong quá trình TH. - Chủ động tiếp cận với trẻ mầm non, với chương trình sách giáo khoa để có hứng thú học tập và mong muốn trở thành giáo viên mầm non có tay nghề giỏi. - Cần tự thể hiện và đánh giá được kết quả TH của mình. 2.3.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn, hỗ trợ sinh viên trong quá trình rèn luyện kĩ năng tự học - Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sử dụng thời gian học tập: Học tập là quá trình sử dụng thời gian kết hợp với công sức. Học cách sử dụng thời gian hợp lí trong học tập có ý nghĩa quyết định hiệu quả học tập đối với SV. SV cần được giúp đỡ để biết quý thời gian và biết cách sử dụng thời gian học tập một cách có hiệu quả nhất. - Tôn trọng phương pháp học đa dạng của SV: Có nhiều cách thức học tập khác nhau, mỗi SV có những NL và kiểu học tập khác nhau. Do vậy, SV cần có cơ hội để thể hiện tài năng riêng của họ và được học theo cách hữu hiệu nhất với mỗi người rồi sau đó mới học theo cách học mới. Chẳng hạn, mỗi SV đều có phương pháp ghi chép VJE Tạp chí Giáo dục, Số 475 (Kì 1 - 4/2020), tr 59-64 63 riêng, nhưng GV cũng cần hướng dẫn SV về các vấn đề như: viết thông tin có trong tài liệu bắt buộc và tài liệu tham khảo như thế nào cho ngắn gọn, dễ hiểu để trên lớp bản thân SV tự tin phát biểu những thông tin đã tìm hiểu được khi cùng trao đổi với GV. - Khuyến khích SV TH kết hợp với học theo nhóm: Học theo nhóm sẽ giúp bản thân SV phát huy được mặt mạnh và cải thiện mặt còn chưa mạnh, đồng thời rèn luyện tư duy phản biện và góp phần lấp đầy lỗ hổng kiến thức cho các thành viên trong nhóm. Nhưng học theo nhóm lại có hạn chế là giảm sự linh động về mặt thời gian, do phải phụ thuộc vào các thành viên khác, dễ bị phân tâm, chi phối bởi môi trường xung quanh. Bên cạnh đó, một số thành viên trong nhóm thường ỉ lại vào những người nhiệt tình, học tốt nên vào nhóm học cho có lệ và tránh bị cô lập nên kết quả học nhóm đôi khi không hiệu quả. Nhìn chung, TH một mình hay học theo nhóm đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Điều quan trọng là SV phải xác định những yêu cầu phù hợp với bản thân như: thời gian, khả năng và mục tiêu của chính mình. Bản thân mỗi SV cần lựa chọn một cách thông minh và cân bằng giữa TH và học theo nhóm để phát huy và khắc phục ưu, nhược điểm của các cách học đó nhằm đem lại kết quả học tập tốt hơn. - Hỗ trợ SV trong hoạt động thực hành để SV rèn luyện các kĩ năng trong đó có kĩ năng TH: + Khuyến khích SV tự rèn kĩ năng nghề vào thời gian ngoài giờ học chính khóa, nếu gặp khó khăn trong quá trình TH thì trao đổi ngay với GV để GV hỗ trợ kịp thời. + Khuyến khích SV chủ động đi thực tế ở trường mầm non. + Khuyến khích SV báo cáo nội dung TH của mình qua video thực hành bài học (tập giảng, tập vệ sinh cá nhân trẻ, xây dựng thực đơn...) và gửi cho GV để xin ý kiến nhận xét. Từ đó tự rút ra những bài học kinh nghiệm, khắc phục những mặt còn hạn chế. + Khuyến khích SV tự làm đồ dùng dạy học. + Giao các bài tập lớn, bài tập tại lớp, bài tập ở nhà để SV thực hiện. + Khuyến khích SV tự duy sáng tạo thông qua các ý tưởng về bài học, thông qua các giải quyết các vấn đề trong học tập. + Tư vấn và khuyến khích SV tham gia các chuyên đề ngoại khóa, thi nghiệp vụ sư phạm giỏi có sự lựa chọn nội dung mang tính chuyên môn cao giúp SV hiểu biết về ngành, nghề sư phạm, về vai trò, yêu cầu của giáo dục mầm non, về những phẩm chất và NL người giáo viên mầm non cần có để tạo điều kiện cho SV vận dụng kiến thức tiếp thu được trên lớp và những kiến thức TH vào giải quyết những vấn đề có liên quan nội dung mà SV tham gia. - Hỗ trợ cho SV có hoàn cảnh khó khăn yên tâm học tập bằng nhiều hình thức: + Tập thể lớp trích quỹ lớp hàng tháng khen thưởng cho những SV trong lớp có hoàn cảnh khó khăn những vẫn hăng hái tham gia các hoạt động phong trào gắn liền với học tập như thi nghiệp vụ sư phạm giỏi, thi đua học tốt cùng giúp nhau tiến bộ. + Phối hợp với Đoàn Thanh niên, Hội SV của lớp, của khoa và nhà trường hỗ trợ kinh tế cho những SV khó khăn mà có kết quả học tập tốt. + Giới thiệu việc làm bán thời gian để SV tăng thêm thu nhập mà ít ảnh hưởng đến hoạt động TH của SV, đồng thời động viên SV tăng cường TH vào những khoảng thời gian trống còn lại mỗi ngày. 2.3.3. Thực hiện công bằng trong kiểm tra, đánh giá kết quả - Cần thực hiện đa dạng hóa trong kiểm tra, đánh giá kết quả TH của SV. Kết hợp phương pháp đánh giá truyền thống với phương pháp đánh giá theo hướng tiếp cận NL. Trong đó chú trọng các phương pháp đánh giá đòi hỏi sự chủ động, sáng tạo và tiếp cận thực tế của SV như: kết quả trao đổi, thảo luận giữa thầy và trò trong giờ học, bài kiểm tra, tiểu luận, qua chất lượng thực hành, tập giảng... Việc đánh giá kết quả TH phải tiến hành toàn diện trên các mặt và bảo đảm tính công bằng, công khai, minh bạch. Đặc biệt cần có sự ghi nhận thiết thực vào kết quả rèn luyện và thành tích học tập của SV. - Tích cực biểu dương những mô hình, phương pháp TH hiệu quả. Tuy việc TH mang sắc thái cá nhân nhưng nó không tách rời khỏi tập thể lớp học và môi trường học tập. Do đó, thông qua việc biểu dương để nhân rộng mô hình tự học hiệu quả hoặc gợi mở cho các SV khác những phương pháp tự học phù hợp với mình. Để tạo môi trường sư phạm tích cực còn phải xây dựng mối đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình TH để cùng tiến bộ. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 475 (Kì 1 - 4/2020), tr 59-64 64 2.3.4. Giảng viên tăng cường đổi mới phương pháp dạy học - Thiết kế bài giảng hướng sự TH của SV thông qua nội dung bài với những thông tin nhất định giúp SV tiếp thu thông tin được chủ động hơn, SV sẽ hứng thú hơn và học được nhiều hơn. Muốn vậy, GV phải có kiến thức sâu rộng và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn minh họa cho nội dung bài giảng. GV cần đặt ra những câu hỏi, những tình huống cần phải giải quyết nhằm giúp SV áp dụng lí thuyết và kiến thức học được để ra giải quyết vấn đề. GV phân tích tình huống đặt ra để SV biết cách áp dụng những gì đã học vào thực tế công tác sau này. Bài giảng khi thiết kế cũng cần hướng tới các NL SV cần được hình thành, phải chú ý tới khả năng nhận thức của từng đối tượng SV. - Kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học: Các phương pháp dạy học truyền thống như thuyết trình, đàm thoại, luyện tập luôn là những phương pháp quan trọng trong dạy học. Tuy nhiên, các phương pháp này cũng có những hạn chế tất yếu, vì thế bên cạnh các phương pháp dạy học truyền thống, GV cần phối hợp đa dạng các phương pháp dạy học mới, đặc biệt là những phương pháp và kĩ thuật dạy học nhằm phát huy tính tích cực và sáng tạo của người học. - Vận dụng dạy học giải quyết vấn đề: Dạy học giải quyết vấn đề là con đường cơ bản để phát huy tính tích cực nhận thức của người học, có thể áp dụng trong nhiều hình thức dạy học với những mức độ tự lực khác nhau của SV. Muốn giải quyết được vấn đề nhận thức trong khoa học chuyên môn ở trên lớp học thì bắt buộc SV phải tăng cường hoạt động TH qua nghiên cứu các tài liệu bắt buộc và các nguồn tài liệu tham khảo để hoàn thành nhiệm vụ học tập. - Tăng cường sử dụng phương tiện dạy học và công nghệ thông tin hợp lí hỗ trợ dạy học: GV có thể dùng máy tính để chuẩn bị bài giảng, nội dung giảng dạy và chỉnh sửa, bổ sung, cập nhật thông tin cho bài giảng luôn mới, luôn phong phú và sinh động; kết hợp sử dụng máy tính và máy chiếu trên tiết học sẽ hỗ trợ hiệu quả cho GV trong quá trình tổ chức các hoạt động nhận thức cho SV, giúp cho quá trình dạy học được sinh động, thuận tiện, chính xác; rút ngắn thời gian giảng dạy mà vẫn bảo đảm cho SV lĩnh hội đủ nội dung học tập một cách vững chắc; giảm nhẹ cường độ lao động của GV, nâng cao hiệu quả dạy học. Bên cạnh đó, GV có thể khuyến khích SV hoàn thành bài TH qua việc sử dụng máy tính để soạn thảo bài thực hành và xin ý kiến của GV trước khi thực hành tập giảng; hoặc SV có thể thiết kế các trò chơi ôn luyện kiến thức trên máy tính hay thiết kế các slide trình chiếu bài tập thảo luận... 3. Kết luận Hoạt động TH của SV giữ vai trò quan trọng trong việc nâng cao tính tích cực hoạt động trí tuệ của SV khi thông hiểu và tiếp thu kiến thức mới. Để có động cơ tích cực TH, SV phải tự ý thức hoặc cần được giúp đỡ để nhận thức được rằng học trước hết là cho bản thân mình và chính mình; biết cách biến kiến thức chung đó thành “tài sản riêng” của mình. Bên cạnh đó, việc dạy của GV cần hướng vào phát triển cá nhân sao cho SV thấy hứng thú học tập và áp dụng những kiến thức thu được ở trường học vào công việc ngoài đời và trong suốt cả cuộc đời. Việc TH sẽ giúp SV vượt qua những khó khăn, phức tạp ban đầu trong học tập, góp phần hình thành các kĩ năng, kĩ xảo tự nhận thức, tự chiếm lĩnh tri thức; đồng thời phát triển các NL về nghề, giúp các em có thể tự tin, mạnh dạn, chủ động, sáng tạo trong quá trình học tập; biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo, đáp ứng với đòi hỏi ngày càng cao của mục tiêu phát triển con người hiện nay. Tài liệu tham khảo Bộ GD-ĐT (2003). Điều lệ trường đại học (ban hành theo Quyết định số 153/2003/QĐ-TTg, ngày 30/7/2003 của Thủ tướng Chính phủ). Bộ GD-ĐT (2007). Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT ngày 15/08/2007 ban hành Quy chế đào tạo Đại học và Cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ. Bộ GD-ĐT (2008). Quy định về chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non (ban hành kèm theo Quyết định số 02/2008/QĐ-BGDĐT, ngày 22/1/2008). Hoàng Đức Minh - Nguyễn Thị Mỹ Trinh (đồng chủ biên, 2017). Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp cán bộ quản lí và giáo viên mầm non. NXB Giáo dục Việt Nam. Lê Khánh Bằng (1994). Phương pháp tự học. NXB Giáo dục. Nguyễn Kì (1998). Tự đào tạo để dạy học. NXB Giáo dục. Phan Trọng Ngọ (2005). Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà trường. NXB Đại học Sư phạm.
File đính kèm:
- mot_so_giai_phap_phat_trien_nang_luc_tu_hoc_cho_sinh_vien_ng.pdf