Một số giải pháp nhằm nâng cao sức khỏe người lao động trí óc

Bài viết tập trung phân tích thực trạng một số vấn đề sức khỏe của người

lao động trí óc. Các phân tích cho thấy người lao động trí óc Việt nam đang gặp nhiều vấn

để về sức khỏe, đặc biệt là các rối loạn bệnh lí của hệ thần kinh song hiện nay chưa có một

hệ thống dữ liệu quốc gia về tình hình sức khỏe của đội ngũ lao động này cũng như chưa

có một hệ thống chăm sóc sức khỏe riêng biệt. Trên cơ sở đó, đã đề xuất một số giải pháp

nhằm nâng cao sức khỏe như: bảo vệ và nâng cao sức khỏe nơi làm việc; đẩy mạnh việc xã

hội hóa công tác chăm sóc sức khỏe người lao động tăng cường các chương trình giám sát,

tự giám sát, cung cấp các thông tin và các biện pháp hiệu quả; tăng cường chất lượng hệ

thống chăm sóc sức khỏe, dịch vụ y tế lao động cơ bản,

pdf 11 trang phuongnguyen 200
Bạn đang xem tài liệu "Một số giải pháp nhằm nâng cao sức khỏe người lao động trí óc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số giải pháp nhằm nâng cao sức khỏe người lao động trí óc

Một số giải pháp nhằm nâng cao sức khỏe người lao động trí óc
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 37/Quý IV - 2013
62
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO SỨC KHỎE
NGƯỜI LAO ĐỘNG TRÍ ÓC
Ngô Vân Hoài
Viện Khoa học Lao động và Xã hội
Tóm tắt: Bài viết tập trung phân tích thực trạng một số vấn đề sức khỏe của người
lao động trí óc. Các phân tích cho thấy người lao động trí óc Việt nam đang gặp nhiều vấn
để về sức khỏe, đặc biệt là các rối loạn bệnh lí của hệ thần kinh song hiện nay chưa có một
hệ thống dữ liệu quốc gia về tình hình sức khỏe của đội ngũ lao động này cũng như chưa
có một hệ thống chăm sóc sức khỏe riêng biệt. Trên cơ sở đó, đã đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao sức khỏe như: bảo vệ và nâng cao sức khỏe nơi làm việc; đẩy mạnh việc xã
hội hóa công tác chăm sóc sức khỏe người lao động tăng cường các chương trình giám sát,
tự giám sát, cung cấp các thông tin và các biện pháp hiệu quả; tăng cường chất lượng hệ
thống chăm sóc sức khỏe, dịch vụ y tế lao động cơ bản, 
Từ khóa: sức khỏe tâm thần, hệ thống y tế, lao động chuyên môn kỹ thuật cao
Summary: This writing focuses on fact situation of intellective workers’ health and
health care system. It shows that intellective workers are facing with many problems of
health, especially mental disorder but it hasn’t had a national database system of health
status of this worker group as well as a specific health care system so far. On the basis of
the above issue, it would give some measures for enhancing health such as: protect and
improve health status of this worker group at workplace; strengthen socialization of health
care activity, increase programs of monitoring, self- monitor, providing information and
effective measures; deepen quality of health care system, basic occupational health services
, etc
Key words: Mental health, health care system, highly skilled workers
Sức khỏe không chỉ được hiểu là
tình trạng không có bệnh tật mà là sự
hoàn thiện về mặt thể chất lẫn tinh thần.
Đội ngũ lao động, dù là lao động cơ bắp
hay lao động trí óc đều cần sức vóc, thể
chất tinh thần tốt để duy trì và phát triển
trí tuệ, để chuyển tải trí thức vào hoạt
động thực tiển nhằm đạt hiệu quả năng
suất cao và bền vững.
Người lao động nước ta đang phải
đối mặt với những yếu tố ảnh hưởng bất
lợi đến sức khỏe: thứ nhất, điều kiện lao
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 37/Quý IV - 2013
63
động đang tồn tại nhiều yếu tố nguy
hiểm có hại làm cho tình hình tai nạn lao
động và bệnh nghề nghiệp ngày càng gia
tăng. Mỗi năm ở Việt Nam để xảy ra
130.000 vụ tai nạn lao động trong đó
13000 tai nạn lao động chết người. Mặc
dù công tác giám định chưa đầy đủ song
tỷ lệ người lao động mắc bệnh nghề
nghiệp và số phát hiện mới hàng năm
đang ở mức báo động. Tính đến tháng
12/2012, cả nước có trên 28.000 người bị
mắc bệnh nghề nghiệp; thứ hai, nhịp
sống của xã hội hiện đại rất dồn dập và
rất nhiều thách thức.Trong quá trình đối
phó với nhịp điệu cuộc sống, stress trong
môi trường làm việc có thể nảy sinh; thứ
ba, còn nhiều rào cản khi tếp cận hệ
thống chăm sóc sức khỏe chất lượng cao.
Vì thế đòi hỏi một giải pháp đồng bộ
để nâng cao chất lượng hệ thống chăm
sóc sức khỏe đảm bảo về mặt thể chất và
tinh thần đáp ứng yêu cầu của quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1. Một số vấn đề sức khỏe và hệ
thống chăm sóc sức khỏe cho người lao
động trí óc
1.1. Một số khái niệm
Sức khỏe tâm thần: là một trạng
thái không có rối loạn hay dị tật tâm thần
mà còn là một trạng thái tâm thần hoàn
toàn thoải mái.Một định nghĩa khác “sức
khỏe tâm thần là khả năng của bộ máy
tâm lý hoạt động một cách hoàn toàn hợp
lý, có hiệu quả và đương đầu một cách
mềm dẻo trước những tình huống khó
khăn mà vẫn có thể tìm lại được sự cân
bằng của mình”.
Stress là những phản ứng có hại về
mặt cảm xúc và cơ thể xuất hiện khi yêu
cầu của công việc vượt quá khả năng đối
phó hay kiếm soát của bản thân, hay có
sự mất cân bằng giữa yêu cầu của công
việc và cuộc sống cá nhân. Stress xảy ra
thường xuyên có tác hại khá nghiêm
trọng đến sức khỏe và làm giảm chất
lượng cuộc sống.
1.2. Hệ thống chăm sóc sức khỏe
cho người lao động
Ở Việt Nam, hệ thống chăm sóc
sức khỏe là hệ thống quốc gia đảm nhận
nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe lâu dài cho
mọi người.Chăm sóc sức khỏe toàn diện
gồm ba mặt thể chất, tâm thần và xã hội
của một cá nhân. Hệ thống chăm sóc sức
khỏe bao gồm 2 hệ thống chính: Hệ
thống y tế ( mạng lưới cung cấp dịch vụ
y tế dự phòng, y tế cơ sở, khám bệnh,
chữa bệnh và phục hổi chức năng, mạng
lưới sản xuất,lưu thông, phân phối và
ung ứng thuốctừ các trạm y tế xã,
phường, thị trấn đến các cơ sở khám
chữa bệnh tuyến huyện, tuyến tỉnh, tuyến
trung ương bao gồm 2 cấu thành chính là
dịch vụ y tế và bảo hiểm y tế) và Hệ
thống phi y tế (Hệ thống nhằm tăng
cường chăm sóc sức khỏe toàn dân như
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 37/Quý IV - 2013
64
các chính sách xã hội, chính sách tiền
lương, chính sách xây dựng cơ sở hạ
tầng...)
Mục tiêu của hệ thống chăm sóc sức
khỏe là (1) Đảm bảo mọi đối tượng đều
được chăm sóc sức khỏe; (2) tránh chi
tiêu lãng phí; (3) cho phép sự chăm sóc
phản ánh những sở thích khác nhau của
bệnh nhân.
Vấn đề sức khỏe của người lao động
phụ thuộc vào nhiều yếu tố: sức khỏe
nền, hay chất lượng dân số như chiều
cao, cân nặng, chế độ dinh dưỡng và đặc
biệt là điều kiện lao động. Hệ thống
chăm sóc sức khỏe của người lao động
mang những yếu tố đặc trưng riêng, bên
cạnh công tác điều trị chữa bệnh còn có
nội dung cơ bản là phòng ngừa dựa trên
cơ sở các ảnh hưởng xấu của điều k iện
lao động đến sức khỏe người lao động
Dich vụ y tế lao động cơ bản
(DVYTLĐ) là dịch vụ thiết yếu để bảo
vệ sức khoẻ con người khi làm việc,
nâng cao sức khoẻ, tinh thần và khả năng
làm việc cũng như phòng tránh bệnh tật
và tai nạn thương tích.
Hệ thống chăm sóc sức khỏe cho
người lao động chủ yếu được chăm sóc
sức khỏe bởi hệ thống chăm sóc sức
khỏe toàn dân và hệ thống CSSK người
lao động mang tính đặc thù riêng như
khám sức khoẻ; khám, điều trị BNN và
chỉnh hình, phục hồi chức năng cho
người bị tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp.
Nếu hệ thống dịch vụ này hoạt động
hiệu quả có nghĩa là người lao động được
bảo vệ phòng tránh các nguy cơ rủi ro
nghề nghiệp xảy ra có thể gây thương
tích, bệnh tật thậm chí có thể tử vong
trong quá trình lao động. Ngược lại nếu
hệ thống hoạt động không hiệu quả sẽ
ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ của
người lao động hay chất lượng lao động.
Đặc biệt là vấn đề sức khỏe tâm thần,
đây là gánh nặng bệnh tật của thế kỷ 21.
Như vậy hệ thống chăm sóc sức
khỏe (Hệ thống dịch vụ y tế) gồm 2 cấu
phần chính:
- Bảo hiểm y tế : là định chế hết sức
cốt lõi của hệ thống chăm sóc sức khỏe,
thực hiện chức năng cấp tài chính, người
(đại diện cho bệnh nhân) mua dịch vụ từ
những người cung cấp dịch vụ y tế (các
bệnh viện, phòng khám bệnh).
- Dịch vụ y tế: là loại dịch vụ đặc
biệt với những đặc tính riêng. Chất lượng
dịch vụ y tế bao hàm hai cấu phần riêng
biệt: chất lượng vận hành, tức là cách
thức người bệnh được nhận dịch vụ KCB
(chất lượng thức ăn, tiếp cận dịch vụ);
chất lượng chuyên môn, tức là chất
lượng của việc cung ứng dịch vụ KCB
(năng lực và kết quả điều trị).
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 37/Quý IV - 2013
65
Mục tiêu của hệ thống chăm sóc
sức khỏe phải là chính sức khỏe của
cộng đồng, và có thể được đo bằng các
con số về tuổi thọ trung bình, tỷ lệ tử
vong trẻ em, tỷ lệ người mắc các chứng
bệnh, tỷ lệ tử vong do các loại bệnh gây
ra (các tỷ lệ này càng thấp càng tốt);
còn số tiền chi tiêu cho chăm sóc sức
khỏe, số bác sỹ và số giường bệnh trên
100.000 dân, v.v. chỉ đo mức độ của
những công cụ mà thôi
Để đáp ứng yêu cầu chăm sóc sức
khoẻ người lao động, số lượng các cán
bộ làm công tác y tế lao động được bổ
sung tăng lên đặc biệt là tuyến địa
phương.
Bảng 1: Tổ chức hệ thống y tế lao
động tuyến tỉnh và các Bộ, ngành 2011
Nguồn: Báo cáo Y tế - Cục Quản lý
môi trường y tế- Bộ Y tế -2012
1.3. Tình hình sức khỏe của đội
ngũ người lao động trí óc Việt Nam
Điều kiện lao động của người lao
động trí óc có những đặc trưng riêng
như: Lao động trí óc sáng tạo gần như
không có sự chấm dứt theo thời gian,
không thể ngừng hẳn sự suy nghĩ sau giờ
làm việc. Một nhà phát minh, một nhà
nghiên cứu hay một doanh nghiệp ngay
cả nhà quản lý đã rời phòng làm việc,
nhưng những ý nghĩ thì cứ tiếp diễn khi
họ đi trên đường về nhà, đang trò chuyện
với gia đình nhưng những suy nghĩ cứ
đeo đuổi và có thể tái hiện ngay cả trong
giấc ngủ. Lao động trí óc thường liên
quan đến những công việc kéo dài nhiều
giờ trong buồng kín và tư thế ngồi. Sự
làm việc căng thẳng của hệ thần kinh làm
tăng trương lực của mạch máu não. Vì
vậy, nếu không có những biện pháp lao
động hợp lí, thì lâu dài sẽ dẫn tới những
rối loạn bệnh lí của hệ thần kinh.Theo
nhiều tài liệu nghiên cứu, bệnh cao
huyết áp và các bệnh tim mạch thường
hay xảy ra đối với những người lao động
trí óc và rất ít thấy ở những người lao
động chủ yếu bằng chân tay. Nhiều nhà
khoa học đã xác định rằng, các bệnh như
xơ cứng động mạch, cao huyết áp, nhồi
máu cơ tim có liên quan mật thiết đến
những rối loạn trong việc điều chỉnh
thần kinh về hoạt động của trái tim và
các mạch máu. Cũng vì vậy, bệnh cao
Nội dung Địa
phương
Các
ngành
2011
Tổng số cán bộ
chuyên trách 519/305 104 623
Trong đó: Bác sỹ 151 48 199
Dược sỹ 5 2 7
Trình độ ĐH 191 28 219
Trình độ TC 212 33 245
Giám định viên
BNN
29 14 43
Khoa Y tế lao động 49 4 53
Phòng khám BNN 33 4 37
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 37/Quý IV - 2013
66
huyết áp phát triển nhiều ở những người
lao động trí óc, làm việc căng thẳng thần
kinh và ít chịu vận động các cơ bắp.
Theo Tổ chức Y tế thế giới có 0,3%
dân số thế giới bị bệnh tâm thần phân
liệt.Riêng Việt Nam tỷ lệ này hiện là 0,3 -
0,5%, với tình trạng hiện tại, đến năm
2020,dự báo về tỷ lệ 20% dân số Việt
Nam mắc các loại bệnh lý về tâm thần là
khả thi. Những loại bệnh trầm cảm, lo
âu phần lớn rơi vào những người hoạt
động trí não nhiều.Các chuyên gia ngành
thần kinh cho rằng, xã hội càng phát
triển, loại bệnh này càng gia tăng. Một số
nguyên nhân cụ thể thường gặp liên quan
đến nhịp độ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, thay đổi lớn về tính chất công việc
trong thời đại hiện nay như thời gian làm
việc, độ ổn định của công việc, vấn đề
tăng năng suất và giảm chi phí → thiếu
nhân lực và phương tiện, làm nhiều việc
hay nhiều giờ; phong cách quản lý độc
đoán, không kích thích tinh thần làm
việc; quan hệ cá nhân không tốt; không
nhìn thấy tương lai trong công việc; môi
trường làm việc không thuận lợi
Trên thực tế cũng không có hệ thống
báo cáo thực trạng sức khỏe của lao động
trí óc song một số nghiên cứu của Viện
sức khỏe tâm thần, Viện Sức khỏe y tế
công cộng đã đưa ra một số nghiên cứu
mang tính cảnh báo đối với đội ngũ lao
động này
- Vài năm trở lại đây, tỷ lệ mắc bệnh
tâm thần do những yếu tố ngoại sinh (yếu
tố bên ngoài) ngày càng gia tăng.Trong
số đó, phần nhiều là giới trí thức và
thanh niên. Chỉ tính riêng ở viện Sức
khỏe Tâm thần Quốc Gia, bênh viện
Bạch Mai có tới 47% là người trẻ (dưới
30 tuổi) trong tổng số người tâm thần
điều trị ở đây. Đã đến lúc gióng lên hồi
chuông cảnh báo về căn bệnh trầm kha
của giới trí thức hiện đại.
- Trong nhóm những người dùng
máy tính thường xuyên, thì nguy cơ gặp
rắc rối về mắt và cơ xương là cao hơn cả
(83% và 63,9%). Ngoài ra các phản ứng
xấu khác còn có thể bao gồm rối loạn hệ
thống thần kinh, chứng trầm cảm, xơ
cứng động mạch, bệnh tâm thần Điều
tra xã hội học cho thấy 74% nhân viên
văn phòng bị đau, khô họng, 73% nhức
đầu, 80,9% đau lưng, 90,5% đau cổ, gáy,
46% đau mắt, 35% chảy nước mắt...
Những triệu chứng này là do ô nhiễm từ
trang thiết bị văn phòng lắp điều hòa
nhiệt độ.
- Bệnh của doanh nhân: stress, lười
vận động, thói quen xấu trong ăn uống,
thói quen xấu trong sinh hoạt... Suy giảm
sưc khỏe sinh lý, tâm lý thể lực nghiên
cứu của một số bệnh viện cho thấy có
mối liên hệ mật thiết giữa điều kiện lao
động của lao động trí óc và tình hình sức
khỏe của họ.
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 37/Quý IV - 2013
67
- Đặc biệt của lao động trí óc là khi
hết giờ làm việc con người vẫn không
hoàn toàn trút bỏ được những suy nghĩ
liên quan đến công việc. Điều này
thường gây nên sự căng thẳng thần kinh.
Nếu chỉ tính những người trên 40 tuổi thì
bệnh tăng huyết áp và xơ cứng động
mạch ở những người có lối sống ít vận
động xảy ra gấp hai lần những người
bình thường. Rõ ràng, việc rèn luyện
thân thể và những vận động thể lực đã có
tác dụng ngăn ngừa bệnh tật, rất cần thiết
cho người lao động trí óc, bổ sung cho
lối sống, công tác căng thẳng trí não và ít
vận động của mình. Sự kết hợp khoa học
giữa làm việc và nghỉ ngơi, hoạt động trí
não và những vận động thể lực là phương
pháp tổ chức lao động trí óc hợp lí nhất,
nhằm duy trì sức sáng tạo và thể lực con
người, ngay cả lúc về già, để mang lại
hạnh phúc cho bản thân và cống hiến
được nhiều cho xã hội.
- Đối với các lao động mang tính kỹ
thuật cũng có những ảnh hường nhất
định, bên cạnh các yếu tố đặc trưng của
lao động trí óc còn chịu tác động của các
yếu tố môi trường lao động như tiếng ồn,
hóa chất, điện từ trường, phóng xạ, vi khí
hậu bất lợi, bụi Những yếu tố đó đã
dẫn đến tình trạng suy giảm sức khỏe, và
bệnh nghề nghiệp của Việt Nam gia tăng.
Theo nghiên cứu của nhóm bác sĩ
Trần Viết Nghị, Nguyễn Viết Thiêm, Lã
Thị Bưởi, Đinh Đăng Hòe và cộng sự ở
Viện Sức khỏe tâm thần có những cảnh
báo tác động của điều kiện lao động, tính
“lặp đi lặp lại” - mức độ đơn điệu của
công việc.
Bên cạnh đó các bệnh đặc trưng cho
đội ngũ LĐCMKTTĐC do hoạt động
mang tính chất tĩnh tại, ít vận động nên
thường mắc các bệnh “Hội chứng văn
phòng”, người lao động trí óc lâu năm
cũng dẫn đến lao tâm, lao thần, hoặc suy
nghĩ nhiều dễ sinh ra tâm thần bất túc.
Một nghiên cứu dành riêng cho
ngành y tế Việt Nam cũng có những
cảnh báo nhiều nguy cơ rủi ro nghề
nghiệp đang đe dọa đến chính tính mạng
và sức khỏe của đội ngũ lao động này.
Theo nghiên cứu của GS-TS. Trần Quán
Anh (Bệnh viện Việt Đức), trong số 100
bệnh nhân có biểu hiện rối loạn cương
dương đến khám tại bệnh viện, có tới
78% là doanh nhân, lao động trí óc; 5%
là công nhân; còn lại là các thành phần
khác. Có vẻ giới kinh doanh là những
người nhạy cảm nhất với các chứng bệnh
khó nói của đàn ông?
Chính vì thế, suy nhược chức năng sinh
dục là một thực tế khó tránh trong cuộc
sống căng thẳng vì áp lực công việc của
giới doanh nhân.
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 37/Quý IV - 2013
68
Các nghiên cứu của nước ngoài cũng
có những cảnh báo về bệnh tật nguy
hiểm với đội ngũ lao động này
1. Ung thư ruột: sử dụng máy tính
thường xuyên trong vòng 10 năm sẽ có
nguy cơ mắc bệnh ung thư đường ruột
Thống kê của Bộ Y tế cho thấy, 80%
CBYT các Khoa Truyền nhiễm và 20%
CBYT nói chung bị nhiễm virus viêm
gan B từ người bệnh. Nhiều CBYT mắc
các bệnh nghề nghiệp như lao, phong,
viêm gan B, nhiễm xạ, bụi phổi
silic...Trong khi đó chế độ bảo hiểm rủi
ro cho những CBYT này hiện chưa thỏa
đáng, điều kiện làm việc không đảm bảo
an toàn.Nhiều BV khi chiếu chụp
X.quang, cửa không đóng được, chế độ
bồi dưỡng độc hại đối với nhân viên làm
việc trong khu vực x.quang, phóng xạ
chưa được chi trả hoặc chi trả “tháng có,
tháng không”. Các thiết bị có yêu cầu
cao về nguy cơ mất an toàn như nồi hấp,
lò hơi không được đăng kiểm... Nghiên
cứu tại 3 BV ở Hà Nội do Viện Y học
lao động và Vệ sinh Môi trường - Bộ Y
tế thực hiện mới đây cũng khẳng định,
hơn 70% CBYT cho biết họ từng bị tai
nạn rủi ro do vật sắc nhọn trong khi làm
việc. Vị trí bị tổn thương vật sắc nhọn
chủ yếu ở bàn tay (96,3% và hầu hết tổn
thương là xuyên thấu da.Những trường
hợp rủi ro xảy ra khi tiêm là nhiều nhất,
tiếp đến phẫu thuật, truyền dịch và làm
các thủ thuật khác.
Nhóm đã khảo sát người làm việc trong
mười nhóm ngành nghề cơ khí luyện kim,
cán bộ bệnh viện tâm thần, bệnh viện lao
và bệnh phổi, công nhân may mặc, da
giày, thủy sản, công trình ngầm, lái tàu
hỏa, kiểm soát không lưu và lái xe buýt
với các đặc điểm như công việc đơn điệu,
cần lựa chọn chính xác, lo lắng bị tai nạn
hoặc gây tai nạn,công việc nặng nhọc,
lương không thỏa đáng, môi trường làm
việc nóng bức, bẩn thỉu, nhiều hóa chất
độc hại, hay phải làm việc quá giờ và căng
thẳng tâm lý.Kết quả cho thấy: tỉ lệ rối
loạn giấc ngủ, lo âu, suy nhược, trầm cảm
lên tới 10%; ở một số ngành nghề như cơ
khí luyện kim có tới 20,6% công nhân rối
loạn giấc ngủ, lo âu, suy nhược cơ thể.
Theo ông Nghị các công việc trên là lặp đi
lặp lại, thụ động trong công việc, ca lao
động kéo dài, căng thẳng thần kinh vì liên
quan tới tính mạng của chính mình và
nhiều người khác, hoặc dễ bị xúc phạm,
thậm chí bị tấn công như nhân viên bệnh
viện tâm thần đã dẫn đến một tỉ lệ lớn
người lao động bị rối loạn sức khỏe tâm
thần, bị stress nghề nghiệp. Ông nói: “Nếu
để lâu không được tư vấn sức khỏe, không
được can thiệp, họ sẽ phải vào viện”.
những stress, rối loạn kể trên liên quan đến
môi trường làm việc, nên cải thiện công
nghệ, môi trường xung quanh là một phần
của liệu trình điều trị. “T huốc chỉ là một
phần, phải tư vấn cho người ta về tính tự
thích nghi để giảm stress, tăng cường tiếp
xúc và luyện tập thể thao”
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 37/Quý IV - 2013
69
cao gấp đôi so với người không sử dụng.
Kết quả nghiên cứu của Trường Đại học
Western (Australia) cũng cho thấy một
trong những nguyên nhân gây bệnh chủ
yếu là do thiếu vận động trong thời gian
quá lâu.Tiến sĩ Claire Knight thuộc Viện
nghiên cứu Ung thư Anh quốc, cho biết:
“Chúng ta vận động càng nhiều, nguy cơ
mắc bệnh ung thư đường ruột càng
giảm”.
2. Đau tim: Những người ngồi hàng
giờ trước máy tính có nguy cơ bị ảnh
hưởng trực tiếp đến sức khỏe của tim.
Theo các bác sĩ chuyên khoa tim của
Trường Đại học London, 67% người làm
việc 11 giờ/ngày sẽ có nguy cơ mắc bệnh
tim.
3. Tụ máu: Những người làm việc
trước máy tính trong khoảng thời gian
dài có nhiều khả năng xuất hiện những
cục máu đông (huyết khối tĩnh mạch).
Điều này làm tăng nguy cơ nghẽn mạch
phổi lớn hơn gấp 2 lần.
4. Bệnh béo phì: Các chuyên gia về
sức khỏe ở Australia đã phát hiện rằng,
những người ngồi quá lâu, vòng eo sẽ
lớn và có lượng cholesterol LDL
(cholesterol xấu) cao hơn. Bác sĩ
Genevieve Healy thuộc Trường Đại học
Queensland, Australia cho rằng hành
động đơn giản như đứng lên khoảng một
phút trong thời gian làm việc cũng giúp
giảm được nguy cơ béo phì.
5. Đau lưng: Số liệu từ Hiệp hội
Chỉnh hình khớp xương của Anh cho
thấy, nếu bạn ngồi hơn 10 giờ một ngày
trước máy tính và không đứng lên đi lại
sẽ có nguy cơ mắc bệnh đau lưng.
6. Chứng tâm thần phân liệt: làm
việc từ sáng sớm cho tới đêm khuya, có
thể dẫn đến chứng tâm thần phân liệt
hoặc suy nhược thần kinh. người ở độ
tuổi trung niên làm việc hơn 55 giờ/tuần
có kỹ năng và thần kinh yếu hơn những
người chỉ làm việc 41 giờ.Tiến sĩ John
Challenor cho biết: “Sử dụng nhiều thời
gian làm những việc giống nhau có thể
làm cho não mệt mỏi”.
Như vậy lao động trí óc Việt Nam
đang gặp nhiều vấn để về sức khỏe song
hiện nay chưa có một hệ thống dữ liệu
quốc gia về tình hình sức khỏe của đội
ngũ lao động này cũng như chưa có một
hệ thống chăm sóc sức khỏe riêng biệt.
2. Đề xuất một số giải pháp nâng
cao sức khỏe cho lao động trí óc
Thứ nhất là bảo vệ và nâng cao sức
khỏe nơi làm việc.
- Cần cải thiện việc đánh giá và quản
lý các yếu tố nguy cơ sức khỏe tại nơi
làm việc bằng cách: xác định các biện
pháp can thiệp cần thiết cho công tác
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 37/Quý IV - 2013
70
phòng chống và kiểm soát các nguy cơ cơ
học, vật lý, hóa học, sinh học và tâm lý
xã hội trong môi trường làm việc.
- Cần ban hành những quy định về
bảo vệ sức khỏe tại nơi làm việc và áp
dụng một bộ tiêu chuẩn vệ sinh lao động
cơ bản để đảm bảo tất cả nơi làm việc phù
hợp với yêu cầu tối thiểu của sức khỏe và
bảo vệ an toàn, đảm bảo mức độ phù hợp
cho thực thi, tăng cường kiểm tra sức khỏe
tại nơi làm việc và xây dựng sự hợp tác
giữa các cơ quan quản lý có thẩm quyền
theo hoàn cảnh cụ thể của quốc gia.
- Cần xây dựng năng lực cho phòng
chống các nguy cơ nghề nghiệp, bệnh tật
và thương tích, bao gồm tăng cường
nguồn nhân lực, phương pháp và công
nghệ, đào tạo huấn luyện cho người sử
dụng lao động, người lao động những
phương thức làm việc lành mạnh, xây
dựng văn hóa an toàn tại nơi làm việc.
- Tiếp tục khuyến khích nâng cao sức
khỏe và phòng chống các bệnh không lây
nhiễm tại nơi làm việc, bằng cách khuyến
khích chế độ ăn uống lành mạnh và hoạt
động thể chất trong công nhân, nâng cao
sức khỏe gia đình và tâm thần tại nơi làm
việc. Mối đe dọa sức khỏe toàn cầu như
bệnh lao, HIV/AIDS, sốt rét và cúm gia
cầm, cũng có thể được ngăn chặn và kiểm
soát tại nơi làm việc.
- Tư vấn xây dựng, phổ biến chuyển
giao các biện pháp phòng bệnh tích cực tại
nơi làm việc cho lao động trí óc cao với
với những biện pháp cụ thể nhằm phục
hồi sinh lực và bảo vệ trí não và đảm bảo
nhịp sinh học
Thứ hai là đẩy mạnh việc xã hội hóa
công tác chăm sóc sức khỏe người lao
động nhất là vai trò của người sử dụng lao
động và chính người lao động. Xây dựng
và thực hiện các công cụ chính sách về
sức khỏe người lao động.
- Xây dựng khung chính sách quốc
gia về sức khỏe người lao động có xem
xét tới các công ước lao động quốc tế và
bao gồm: ban hành pháp luật; thiết lập cơ
chế phối hợp liên ngành trong các hoạt
động; huy động nguồn lực để bảo vệ và
nâng cao sức khỏe người lao động; tăng
cường vai trò và năng lực của Bộ Y tế;
Bộ Lao động, lồng ghép các mục tiêu và
hành động đối với sức khỏe người lao
động vào các chiến lược y tế quốc gia.
- Các tiếp cận quốc gia nhằm phòng
chống thương tích và bệnh nghề nghiệp
cần được phát triển theo các ưu tiên của
các quốc gia và trong sự phối hợp với các
chiến dịch toàn cầu của WHO.
- Các cơ quan Nhà nước, các đoàn
thể nhân dân, phối hợp với ngành y tế
triển khai các chương trình sức khỏe tại
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 37/Quý IV - 2013
71
địa phương, tuyên truyền vận động làm
cho mỗi người dân/ người lao động hiểu
và tự giác tham gia các hoạt động chăm
sóc sức khỏe tại gia đình và cộng đồng.
Thứ ba là tăng cường các chương
trình giám sát, tự giám sát, cung cấp các
thông tin và các biện pháp hiệu quả.
- Hệ thống giám sát sức khỏe người
lao động cần được thiết kế với mục đích
xác định chính xác và kiểm soát nguy cơ
nghề nghiệp bao gồm thiết lập hệ thống
thông tin quốc gia, xây dựng năng lực để
ước tính gánh nặng nghề nghiệp của
bệnh tật và thương tích, ghi chép sự phơi
nhiễm với các yếu tố nguy cơ, bệnh nghề
nghiệp và tai nạn lao động, cải thiện báo
cáo và phát hiện sớm các tai nạn và
BNN nhất là đối với các đặc trưng của
lao động trí óc
- Cần phải tăng cường hơn nữa các
nghiên cứu về sức khỏe người lao động.
Đặc biêt là các nghiên cứu chuyên sâu
về sức khỏe lao động trí óc. Các chiến
lược và công cụ cần phải được xây dựng
với sự tham gia của tất cả các bên liên
quan để cải thiện thông tin tuyên truyền
và nâng cao nhận thức về sức khỏe
người lao động.
Thứ tư là tăng cường chất lượng hệ
thống chăm sóc sức khỏe, dịch vụ y tế
lao động cơ bản.
- Cải thiện độ bao phủ và chất lượng
của các dịch vụ y tế lao động. Xây dựng
năng lực thể chế nòng cốt ở cấp quốc gia
và địa phương để cung cấp hỗ trợ kỹ
thuật cho các dịch vụ y tế lao động cơ
bản về giám sát, lập kế hoạch và chất
lượng dịch vụ, thiết kế các biện pháp can
thiệp mới, phổ biến thông tin và cung cấp
chuyên môn chuyên ngành
- Cần tăng cường hơn nữa việc phát
triển nguồn nhân lực cho sức khỏe người
lao động bằng cách: đào tạo thêm sau đại
học trong các ngành có liên quan; nâng cao
năng lực cho các dịch vụ cơ bản về y tế lao
động; Kết hợp vấn đề sức khỏe người lao
động trong đào tạo cho cán bộ chăm sóc
sức khỏe ban đầu và chuyên gia khác cần
thiết cho các dịch vụ y tế lao động.
- Tăng cường chất lượng ban chăm
sóc sức khỏe cán bộ trên phạm vi 63 tỉnh
thành
- Tăng cường hệ thống chăm sóc sức
khỏe tâm thần nghề nghiệp
Thứ năm là kết hợp vấn đề sức khỏe
của người lao động vào các chính sách
khác.
- Năng lực của ngành y tế để thúc đẩy
sự kết hợp của sức khỏe người lao động
trong các chính sách khác cần được tăng
cường. Các biện pháp bảo vệ sức khỏe của
người lao động phải được kết hợp trong
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 37/Quý IV - 2013
72
chính sách phát triển kinh tế và chiến lược
xóa đói giảm nghèo.
- Sức khỏe của người lao động cần
được xem xét hơn nữa trong nội dung của
các chính sách thương mại. Chính sách việc
làm cũng ảnh hưởng đến sức khỏe, do đó
cần khuyến khích việc đánh giá tác động
sức khỏe của các chiến lược việc làm.
- Sức khỏe người lao động cần được
đề cập trong các chính sách của các ngành
kinh tế khác nhau, đặc biệt là những người
có nguy cơ ảnh hưởng sức khỏe cao nhất.
Các khía cạnh của sức khỏe của người lao
động cần được đưa vào nội dung trong
giáo dục cấp tiểu học, trung học, đại học
và dạy nghề.
Thứ bảy là đảm bảo chất lượng
nguồn nhân lực lâu dài cần chuyển
hướng nhận thức đầu tư hiệu quả vào
cộng đồng để giải quyết cho 90% nhu cầu
xã hội trong chăm sóc sức khỏe ban đầu.
Đó là việc đầu tư vào các chương trình
truyền thông, giáo dục sức khỏe, sức khỏe
học đường, chăm sóc sức khỏe cộng đồng
khi không có thầy thuốc Đó là việc đào
tạo rất ngắn hạn nhân viên chăm sóc sức
khỏe ban đầu, bao gồm nhiều đối tượng,
kể cả thầy tu, sư sãi, ni cô, các sơ các
tình nguyện viên chăm sóc theo nhu cầu,
nhân viên công tác xã hội (không nhất
thiết họ phải có nhiều kiến thức chuyên
môn y tế). Tăng cường chăm sóc bệnh tại
nhà hơn là xây thêm bệnh viện, tăng số
giường Đó là việc kêu gọi gia đình, nhà
trường, ngành giáo dục, phối hợp y tế, xã
hội tham gia dạy dỗ, hỗ trợ con cái, tăng
cường đào tạo kỹ năng sống của học sinh,
sinh viên để giảm bớt bạo lực học đường,
biết nói không với rượu bia, thuốc lá, lái
xe lạng láchvà có thể chính các em vận
động gia đình mình tham gia giữ gìn sức
khỏe, phòng ngừa bệnh tật
Thứ tám, xây dựng và thực hiện
chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe,
tầm vóc con người Việt Nam.Đẩy mạnh
phát triển thể dục thể thao quần chúng và
thể thao thành tích cao.
Tài liệu tham khảo
1. Cải cách hệ thống CSSK- Nguyễn
Quang A. Vietsciense
2. Báo cáo tổng quan ngành Y tế 2011 -
Bộ Y tế
3. Báo công tác y học lao động (2011, 6/
2012) - Cục Quản lý môi trường - Bộ Y tế
4. Trang thông tin điện tử - Bộ Y tế.
www.moh.gov.vn
5. Hồ sơ quốc gia về ATVSLĐ
6. Hệ thống văn bản pháp luật về chăm
sóc sức khỏe nhân dân
7. Hệ thống văn bản pháp luật về an
toàn sức khỏe nghề nghiệp
8. Các công ước quốc tế về an toàn sức
khỏe nghề nghiệp
9. Sổ tay hướng dẫn công tác an toàn
sức khỏe nghề nghiệp trong các doanh
nghệp vừa và nhỏ. NXB LĐXH. 2010

File đính kèm:

  • pdfmot_so_giai_phap_nham_nang_cao_suc_khoe_nguoi_lao_dong_tri_o.pdf