Một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng dậy thì sớm vô căn ở trẻ gái

Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng và xét nghiệm cận lâm sàng theo phân loại dậy thì sớm vô căn ở trẻ gái. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Phương pháp mô tả cắt ngang trên 83 trẻ gái được chẩn đoán dậy thì sớm tại Khoa Nhi, Bệnh viện Trường ĐHYD Huế và Trung tâm Nhi, Bệnh viện Trung ương Huế, từ tháng 3 năm 2010 đến tháng 3 năm 2016. Kết quả: Ở thời điểm chẩn đoán tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu là 5,11 ±2,63, Nhóm dậy thì sớm ngoại vi có tuổi trung bình là 3,93±2,22, thấp hơn rõ rệt với nhóm dậy thì sớm trung ương. Tuổi xương lớn hơn tuổi thực cũng là biểu hiện của dậy thì sớm trung ương. Có sự khác biệt rõ rệt các chỉ số siêu âm tử cung-Buồng trứng theo phân loại dậy thì sớm trung ương và ngoại biên. Có sự khác biệt rõ rệt nồng độ hormon trục sinh dục FSH, LH nền theo phân loại dậy thì. Nồng độ LH nền tăng cao có ý nghĩa, p<0,0001 trong="" dậy="" thì="" trung="">

pdf 8 trang phuongnguyen 180
Bạn đang xem tài liệu "Một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng dậy thì sớm vô căn ở trẻ gái", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng dậy thì sớm vô căn ở trẻ gái

Một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng dậy thì sớm vô căn ở trẻ gái
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 38 - Năm 2020. 
81 
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG 
DẬY THÌ SỚM VÔ CĂN Ở TRẺ GÁI 
Nguyễn Thị Diễm Chi1, Hoàng Thị Thủy Yên2 
1. Bệnh viện Trung ương Huế 
2. Trường Đại học Y Dược Huế 
DOI: 10.47122/vjde.2020.38.12 
ABSTRACT 
Clinical and paraclinical characteristics in 
girls with idiopathic precocious puberty 
Objective: Describe some clinical and 
paraclinical characteristics aiming to orient 
early diagnosis of puberty forms in our 
current medical actuality. Methods: Cross-
sectional descriptive retrospective study on 83 
girls diagnosed of precocious puberty at 
thePediatric department of Hue University 
Hospital and at Pediatric Center of Hue 
Central Hospital from March 2010 to March 
2016. Results: There was a clear difference of 
age at the diagnosis moment, mean age of 
peripheral precocious puberty group was 
3,93±2,22 years, younger statistically 
significantly than that of central precocious 
puberty group (CPPG). Bone age advanced 
over chronological age significantly (by more 
than 1 year) was also a manifestation of 
central precocious puberty. There was a clear 
difference of the uterus - ovaries sonographic 
index between two groups. There was a clear 
difference of gonadic axis hormon 
concentration: basic FSH, LH serum levels 
between two groups. Basic serum LH level 
increased significantly, p<0,0001 in CPPG. 
Conclusion: Clinically, age at mammary 
gland appearance characteristics was an 
important data valuable to orient early 
diagnosis of puberty forms; bone age 
advanced over chronological age significantly 
(by more than 1 year) was also a 
manifestation of central precocious puberty. 
Paraclinically, a pelvic ultrasoundwas a 
medical test with highly diagnosis valuebut 
required well - trained and highly skilled 
technician and how to prepare for the exam. 
Quantitative method of basic LH serum level 
by 2nd generation immune assays could be 
used to evaluate maturation level of 
gonadotropic axis. It is possible to use low 
dose aGnRH dynamic test to differentiate 
central precocious puberty and peripheral 
precocious puberty. 
Keywords: idiopathic precocious puberty 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng và xét 
nghiệm cận lâm sàng theo phân loại dậy thì 
sớm vô căn ở trẻ gái. Đối tượng và phương 
pháp nghiên cứu: Phương pháp mô tả cắt 
ngang trên 83 trẻ gái được chẩn đoán dậy thì 
sớm tại Khoa Nhi, Bệnh viện Trường ĐHYD 
Huế và Trung tâm Nhi, Bệnh viện Trung ương 
Huế, từ tháng 3 năm 2010 đến tháng 3 năm 
2016. Kết quả: Ở thời điểm chẩn đoán tuổi 
trung bình của nhóm nghiên cứu là 5,11 
±2,63, Nhóm dậy thì sớm ngoại vi có tuổi 
trung bình là 3,93±2,22, thấp hơn rõ rệt với 
nhóm dậy thì sớm trung ương. Tuổi xương 
lớn hơn tuổi thực cũng là biểu hiện của dậy 
thì sớm trung ương. Có sự khác biệt rõ rệt các 
chỉ số siêu âm tử cung-buồng trứng theo phân 
loại dậy thì sớm trung ương và ngoại biên. Có 
sự khác biệt rõ rệt nồng độ hormon trục sinh 
dục FSH, LH nền theo phân loại dậy thì. 
Nồng độ LH nền tăng cao có ý nghĩa, 
p<0,0001 trong dậy thì trung ương. Kết luận: 
Về lâm sàng, đặc điểm tuổi xuất hiện tuyến 
vú là dữ kiện quan trọng có giá trị định hướng 
chẩn đoán sớm các thể dậy thì; tuổi xương lớn 
hơn tuổi thực một cách có ý nghĩa (>1 năm) 
cũng là biểu hiện của dậy thì sớm trung ương. 
Về cận lâm sàng, siêu âm tử cung buồng 
trứng là một xét nghiệm kỹ thuật có giá trị 
chẩn đoán cao nhưng đòi hỏi có kỹ thuật viên 
được huấn luyện tốt, và phải hẹn chuẩn bị tốt 
cho bệnh nhân. Phương pháp định lượng nồng 
độ hormon LH nền bằng các phương pháp 
miễn dịch thế hệ 2 có thể đánh giá mức độ 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 38 - Năm 2020 
82 
trưởng thành của trục hướng sinh dục. 
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Thị Diễm 
Chi 
Ngày nhận bài: 07/01/2020 
Ngày phản biện khoa học:14/01/2020 
Ngày duyệt bài: 26/02/2020 
Email: [email protected] 
ĐT: 0912398499 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Dậy thì sớm (sexual precocity) được định 
nghĩa khi các dấu hiệu dậy thì đầu tiên xuất 
hiện trước 8 tuổi ở trẻ gái và trước 9 tuổi ở trẻ 
trai. Định nghĩa trên chưa phân biệt dậy thì 
sớm trung ương hay dậy thì sớm ngoại vi, dậy 
thì sớm không hoàn toàn. 
Trong khi đó, các dấu hiệu lâm sàng 
không đặc hiệu để phân biệt các thể dậy thì 
sớm của trẻ gái. Hơn nữa, nếu không được 
chẩn đoán và điều trị sớm trẻ sẽ có các rối 
loạn tâm sinh lý do sự hoạt động sớm trước 
tuổi trục hạ đồi - tuyến yên - tuyến sinh dục 
và hạn chế phát triển chiều cao cuối. Chính vì 
vậy đề tài này nghiên cứu một số đặc điểm 
lâm sàng và xét nghiệm nhằm có định hướng 
chẩn đoán sớm các thể dậy thì trong điều kiện 
y tế nước ta. 
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
Các bệnh nhi nữ được chẩn đoán dậy thì 
sớm tại khoa Nhi, Bệnh viện Đại học Y Dược 
Huế và Trung tâm Nhi, Bệnh viện Trung ương 
Huế, từ tháng 3 năm 2010 đến tháng 3 năm 
2016. 
2.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Bệnh nhi nữ có tuyến vú phát triển trước 8 
tuổi ± có chu kỳ kinh nguyệt đầu tiên trước 
10 tuổi theo tiêu chuẩn chẩn đoán dậy thì sớm 
[10],[12]. Nghiên cứu có 83 bệnh nhi đủ tiêu 
chuẩn chọn bệnh và được thăm khám, xét 
nghiệm cận lâm sàng. 
2.2. Tiêu chuẩn loại trừ 
Bệnh nhi nữ dậy thì sớm có nguyên nhân : 
Các bệnh lý ở hệ thần kinh trung ương như u 
não, các dị tật hoặc chấn thương, các bệnh lý 
nội tiết như tăng sản thượng thận bẩm sinh, 
suy giáp bẩm sinh. Bệnh lý tại tuyến thượng 
thận: u vỏ thượng thận 
Bệnh nhi không đồng ý tham gia nghiên 
cứu. 
Các biến số nghiên cứu: 
Tiền sử gia đình 
Có chị và/hoặc mẹ có kinh nguyệt sớm: 
Chu kỳ kinh đầu tiên trước 11 tuổi gọi là kinh 
nguyệt sớm. 
Khám lâm sàng: 
Chiều cao đứng đo bằng cm; Cân nặng 
tính bằng kg; Chỉ số BMI được đánh giá theo 
tiêu chuẩn của WHO 2007. 
Đánh giá phát triển dậy thì tuyến vú (B) và 
lông mu (P) theo phân loại Tanner. 
Siêu âm tử cung buồng trứng: 
Đo chiều cao tử cung tính bằng mm. Đánh 
giá chiều cao tử cung theo tuổi: tăng/ bình 
thường [8]. 
Xác định có hay không các nang noãn > 
5mm chứng tỏ buồng trứng đã trưởng thành 
[8], [20]. 
Định lượng các nồng độ hormon sinh 
dục nữFSH-LH-Estradiol 
Nồng độ các hormon nền lấy máu khi đói 
sau khi đã làm các bước trên. 
Nồng độ các hormon sau làm test động 
aGnRH liều thấp (Dipherelin® 0,1 mg): 
Xét nghiệm các hormon bằng kỹ thuật 
điện hóa phát quang trên máy ELECYS 1010. 
Phân loại dậy thì sớm 
+ Dậy thì sớm trung ương: 
Lâm sàng bệnh nhi có dấu hiệu dậy thì 
sớm và nồng độ hormone LH ≥ 5 mUI/ml 
sau test Dipherelin® 0,1 mg tiêm dưới da 60 
phút [16]. Có 15 trường hợp bệnh nhi được 
chẩn đoán dật thì sớm trung ương không cần 
làm test động mà dựa vào các dấu hiệu lâm 
sàng rõ rệt là: có dấu hiệu dậy thì sớm với 
phát triển tuyển vú và lông mu ± có kinh 
nguyệt. [1]. 
+ Dậy thì sớm ngoại vi: lâm sàng bệnh nhi 
có triệu chứng dậy thì sớm và nồng độ 
hormone LH < 5 mUI/ml sau test Dipherelin® 
0,1 mg tiêm dưới da 60 phút [17]. 
2.3. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt 
ngang. 
2.4. Xử lý số liệu: Phần mềm Medcalc 
12.7 và Microsoft Excel 2010. 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 38 - Năm 2020. 
83 
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
3.1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu 
Bảng 1. Địa dư 
Địa dư (n = 83) DTS trung ương DTS ngoại vi p 
Thành phố 20 21 
3,906 
>0,05 
Nông thôn 11 32 
Tổng 31 52 
Bảng 2. Tuổi tại thời điểm chẩn đoán dậy thì sớm 
Thời điểm 
chẩn đoán 
DTS trung ương 
N = 31 
DTS ngoại vi 
N = 52 
p 
Tuổi (năm) 
5,11 ±2,63 
7,09 ± 1,98 3,93 ± 2,22 
<0,0001 
Bảng 3. Tiền sử gia đình với phân loại dậy thì sớm 
Mẹ và/hoặc chị có kinh 
nguyệt sớm (n = 83) 
DTS trung ương DTS ngoại vi 2 p 
Có 18 11 
10,07 < 0,05 Không 13 41 
Tổng 31 52 
3.2. Đặc điểm lâm sàng 
Bảng 4. Đặc điểm phát triển chiều cao theo tuổi với phân loại dậy thì sớm 
Chiều cao 
theo tuổi 
DTS trung ương 
N = 31 
DTS ngoại vi 
N = 52 
2 p 
Tăng -CC > +2SD 22 16 
9,12 < 0,05 Bình thường 11 36 
Thấp-CC <-2SD 0 0 
Bảng 5. Đặc điểm BMI theo tuổi với phân loại dậy thì sớm 
BMI theo tuổi 
DTS trung ương 
N = 31 
DTS ngoại vi 
N = 52 
2 p 
Tăng cân, béo phì 9 35 
9,94 
< 0,01 Bình thường 22 17 
Gầy (n = 0) 0 0 
Bảng 6. Các giai đoạn dậy thì theo phân loại dậy thì sớm 
 DTS trung ương 
N= 31 
DTS ngoại vi 
N = 52 
p 
B2 8 39 
< 0,001 
B3 12 13 
B4 10 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 38 - Năm 2020 
84 
B5 1 
P1 22 52 
P2 6 0 
P3 3 0 
Có kinh nguyệt 9 29,03 
3.3. Đặc điểm tuổi xương 
Bảng 7. Đặc điểm tuổi xương 
DTS trung ương 
N =31 
DTS ngoại vi 
N= 51 
2 p 
Tuổi xương lớn hơn tuổi thực 16 3 20,15 
< 0,0001 Tuổi xương tương đương tuổi thực 15 48 
3.4. Đặc điểm siêu âm tử cung - buồng trứng 
Bảng 8. Chiều cao tử cungtheo phân loại dậy thì sớm 
Chiều cao tử cung (mm) DTS trung ương DTS ngoại vi 2 p 
�̅� ± SD 44,47 ±9,79 30,21 ±8,20 < 0,05 
Chiều cao tử 
cung theo tuổi 
Tăng 24 8 
 < 0,0001 Bình 
thường 
7 44 
Bảng 9. Nang noãn với phân loại dậy thì sớm 
Nang noãn > 5mm DTS trung ương DTS ngoại biên 2 p 
Có 13 7 
7,12 <0,005 Không 18 45 
Tổng 31 52 
3.5. Nồng độ các hormon nền trục sinh dục FSH-LH-E2 theo phân loại dậy thì sớm 
Bảng 10. Nồng độ các hormon nền trục sinh dục FSH – LHvà Estradiol trong test aGnRH 
Nồng độ hormon 
Trung vị (95% CI) 
DTS trung ương 
N= 16 
TDS ngoại vi 
N= 52 
p 
LHnền (mUI/ml) 0,64 (0,19-3,10) 0,10 ( 0,10-0,10) < 0,0001 
LH đỉnh 9,34 ( 5,49-23,30) 2,36 (1,41-3,08) < 0,0001 
FSH nền (mIU/ml) 3,40 ( 2,56-5,47) 2,00 (1,65-2,89) < 0,01 
FSH đỉnh 12,27 ( 8,63 -15,20) 9,38 (7,77 -14,83) >0,05 
LH/FSH 1,28 0,29 
Estradiolnền (pg/ml) 23,0 (7,7 – 34,8) 10,00(5,0-10,00) > 0,05 
4. BÀN LUẬN 
4.1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên 
cứu 
Đặc điểm địa dư 
Theo bảng 3.1 cho thấy trẻ gái dậy thì sớm 
sống ở thành phố chiếm lớn hơn với số trẻở 
nông thôn (p<0,05). Tương tự nghiên cứu của 
Nguyễn Thị Hồng Đào về đặc điểm lâm sàng 
và các yếu tố liên quan đến trẻ gái dậy thì 
sớm hoàn toàn tại bệnh viện đa khoa tỉnh 
Bình Định năm 2013 thì tỷ lệ này là 78,6% và 
21,4% [1]. Nguyễn Thị Kiều Oanh và Võ 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 38 - Năm 2020. 
85 
Minh Tuấn (2008) cho thấy nhóm trẻ sống ở 
trung tâm dậy thì sớm hoàn toàn hơn 1,33 lần 
so với trẻ sống vùng ven [4]. 
Có sự khác biệt tỷ lệ trẻ gái dậy thì sớm 
giữa thành phố và nông thôn có lẽ do kinh tế - 
văn hoá, dinh dưỡng ảnh hưởng đến dậy thì 
của trẻ. 
Tuổi đến khám 
Theo bảng 3.2 tuổi đến khám lần đầu của 
trẻ gái dậy thì sớm trung bình 5,11 ±2,63. 
Tương tự các nghiên cứu trong nước và ngoài 
nước: Nghiêncứu tại bệnh viện Nhi Đồng 1 từ 
2008 đến 2013 của Nguyễn Phương Khanh, 
Huỳnh Thoại Loan (2013) thì tuổi dậy thì 
sớm trung bình là 5,5 ± 2,5 tuổi [2]. Tại Trung 
Quốc, Wen-Jing Li và cộng sự (2015) nghiên 
cứu ở 236 bé gái được chẩn đoán dậy thì sớm 
vô căn từ 4/2012 - 2/2014 có tuổi trung bình 
là 6,4 ±1,0 tuổi [19]. Ở Hàn Quốc, nghiên cứu 
của Kim DooSoo và cộng sự (2012) cho thấy 
tuổi trung bình của trẻ dậy thì sớm trung ương 
7,3 ± 0,6, dậy thì sớm ngoại vi 6,5 ± 0,3 tuổi 
[15]. Điều này chứng tỏ dậy thì sớm ở trẻ gái 
tại các vùng ở nước ta khá tương đồng với các 
nước châu Á. 
Bảng 3.2 cũng cho thấy có sự khác biệt rõ 
rệt tuổi ở thời điểm chẩn đoán, nhóm dậy thì 
sớm ngoại biên là tuyến vú phát triển sớm có 
tuổi trung bình là 3,93 ± 2,22 nhỏ hơn một 
cách có ý nghĩa tuổi của nhóm dậy thì sớm 
trung ương. Kết quả này phù hợp với các 
nghiên cứu khác. Khi tuyến vú xuất hiện 
trước 3 tuổi chủ yếu là tình trạng tuyến vú 
phát triển sớm đơn độc. 
Ở lứa tuổi 5- 8 tuổi tuyến vú phát triển 
thường là dấu hiệu đầu tiên của dậy thì sớm 
thật. 
Do đó, đặc điểm tuổi xuất hiện tuyến vú là 
dữ kiện quan trọng có giá trị định hướng chẩn 
đoán [10],[ 12]. 
Tiền sử mẹ và/hoặc chị gái có kinh 
nguyệt sớm 
Theo nghiên cứu của chúng tôi nhóm dậy 
thì sớm trung ương có mẹ và/hoặc chị có kinh 
nguyệt sớm cao hơn nhóm dậy thì ngoại biên, 
p < 0,05 (bảng 3 ). 
Nghiên cứu này cũng có kết quả tương tự 
nghiên cứu trong nước[1], [4]. Kılıç và cộng 
sự (2012) nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và 
cận lâm sàng ở trẻ em dậy thì sớm có 13,8% 
trong 128 trẻ gái dậy thì sớm có mẹ có kinh 
nguyệt sớm [16]. Vai trò di truyền trong dậy 
thì sớm đã được xác nhận trong các nghiên 
cứu gần đây. Kisspeptin-GPR54 có vai trò 
quan trọng, trực tiếp kích hoạt tế bào thần 
kinh tiết GnRH, kích thích trục dưới đồi - 
tuyến yên - tuyến sinh dục kích hoạt dậy thì. 
Kisspeptin là một protein được mã hóa bởi 
gen KiSS-1. Gen này nằm trên cánh tay dài 
của nhiễm sắc thể số 1 (1q32). 
4.2.Đặc điểm lâm sàng 
Tăng phát triển chiều cao: Bảng 4 nhận 
xét về phát triển chiều cao cũng khác biệt rõ 
giữa 2 nhóm, do nhóm DTS ngoại biên độ 
tuổi chẩn đoán nhỏ hơn nhiều. Hơn nữa, dậy 
thì sớm trung ương có thể được biểu hiện bởi 
tăng phát triển chiều cao nhiều tháng trước 
khi phát triển tuyến vú. Kết quả này phù hợp 
với các nghiên cứu khác và y văn là chiều cao 
của trẻ giai đoạn dậy thì tăng rất nhanh, trẻ 
gái có thể tăng trung bình 7,5cm/năm. Tuy 
nhiên ở trẻ dậy thì sớm thì đỉnh tăng trưởng 
xuất hiện sớm nhưng cũng kết thúc sớm làm 
chiều cao chính thức của trẻ giảm[3]. Theo 
Carel (2008) thì trẻ gái dậy thì sớm có chiều 
cao cuối thấp hơn khoảng 12 cm so với trẻ 
khỏe mạnh cùng tuổi [10]. 
Thừa cân - béo phì - BMI tăng: Bảng 5 
cho thấy BMI là yếu tố liên quan đến phân 
loại dậy thì sớm với p < 0,01. Theo nhận định 
của một số tác giả thì cơ thể trẻ gái chỉ bắt 
đầu dậy thì khi có chỉ số khối cơ thể tới hạn. 
Khi cơ thể phát triển về chiều cao và cân nặng 
đến một mức tới hạn sẽ như là một tín hiệu 
khởi động quá trình dậy thì, liên quan đến 
leptin là một hormone polypeptid được tổng 
hợp trong các tế bào mỡ, điều hòa sự ăn uống 
và tiêu thụ năng lượng ở trung tâm dưới đồi. 
Leptin có thể là một trong những yếu tố đầu 
tiên của báo hiệu sự trưởng thành của trung 
tâm dưới đồi gây tiết có xung GnRH làm tăng 
tiết horrmone LH, FSH [3]. Một nghiên cứu 
theo dõi dọc của Freedman (2003) tìm thấy 
rằng những bé gái béo phì thì có xu hướng có 
kinh nguyệt sớm hơn những bé gái gầy[12]. 
Theo Võ Minh Tuấn, Nguyễn Thị Trần Minh 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 38 - Năm 2020 
86 
(2009) nghiên cứu có liên quan giữa BMI và 
tuổi kinh đầu, tuổi kinh đầu càng sớm BMI tại 
thời điểm nghiên cứu càng cao [5]. 
Các giai đoạn dậy thì: Đa số nhóm trẻ 
tuyến vú phát triển sớm có giai đoạn phát 
triển tuyến vú ở giai đoạn B2, B3 (Bảng 6), 
trong khi nhóm dậy thì sớm trung ương tuyến 
vú phát triển ở các giai đoạn từ B2 đến B5 và 
có lông mu phát triển P2, P3, có đến 9 cas chỉ 
đến khám khi đã có kinh nguyệt. Kết quả này 
phù hợp với tiến triển trên lâm sàng của 2 thể 
dậy thì sớm của trẻ gái. Trong dậy thì sớm 
ngoại biên chỉ có một đặc tính sinh dục phụ 
xuất hiện,thường gặp nhất bao gồm tuyến vú 
phát triển sớm đơn độc (premature thelarche), 
kéo dài đến tuổi dậy thì bình thường. Nguyên 
nhân hay gặp nhất của thể dậy thì sớm này là 
do các nguyên nhân gây tăng tiết hormon sinh 
dục nữ nhưng chưa có hoạt động của trục sinh 
dục [10], [13]. 
Phát triển tuyến vú sớm trước 8 tuổi ở trẻ 
gái có thể liên quan đến 3 tình huống lâm 
sàng sau: Có thể là dấu hiệu đầu tiên của dậy 
thì sớmtrung ương,có thể là trường hợp tuyến 
vú phát triển sớm đơn độc, hay hiếm hơn nữa, 
là dấu hiệu thứ phát do tiết u tiết estrogen của 
buồng trứng hay tuyến thượng thận [10],[13]. 
Trong dậy thì sớm trung ương, dậy thì là kết 
quả của một sự hoạt động hay lại hoạt động 
của trục hạ đồi - tuyến yên - tuyến sinh dục 
do đó trẻ có các giai đoạn phát triển tính dục 
khác nhau. 
Tuổi xương: Bảng 7 cho thấy tuổi xương 
liên quan đến phân loại dậy thì sớm có ý 
nghĩa thống kê (p < 0,0001). Khi trẻ dậy thì 
sớm, nồng độ hormon sinh dục tăng gây ảnh 
hưởng đến sự cốt hóa xương làm cho tuổi 
xương lớn hơn tuổi thực. Kết quả này phù 
hợp với kết quả chiều cao cũng liên quan đến 
phân loại dậy thì sớm trung ương. Giai đoạn 4 
của dậy thì (trước chu kỳ kinh đầu tiên), mức 
tăng của estrogen đã làm cốt hóa hầu hết các 
đầu xương, các bé gái đã gần đạt được chiều 
cao cuối[1],[3]. Nghiên cứu của Kılıç Ayşe và 
cộng sự (2012) cho thấy tuổi xương ở nhóm 
dậy thì sớm thật lớn hơn nhóm tuyến vú và 
lông mu phát triển sớm, và sự khác biệt này 
có ý nghĩa thống kê [16]. 
4.3. Các xét nghiệm cận lâm sàng 
Siêu âm tử cung - buồng trứng 
Bảng 8 và 9 cho thấy có sự khác biệt rõ rệt 
các chỉ số siêu âm tử cung-buồng trứng theo 
phân loại dậy thì sớm trung ương và ngoại 
biên. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu 
khác. Một số tác giả nghiên cứu về siêu âm tử 
cung - buồng trứng ở trẻ dậy thì sớm cho rằng 
có thể sử dụng chỉ số chiều cao tử cung để phân 
biệt giữa tuyến vú phát triển sớm và dậy thì sớm 
trung ương [8],[20],[22]. Coll và cộng sự từ 
năm 1984 đã xác định chiều cao tử cung là 
yếu tố có giá trị để đánh giá mức độ ngấm 
estrogen [20]. 
Toublanc xác định ngưỡng bắt đầu dậy thì 
của chiều cao tử cung là 35 mm [22]. Theo 
các tác giả hình ảnh buồng trứng có nhiều 
nang noãn > 5 mm xuất hiện ở các trẻ gái 
chưa dậy thì ở khoảng 7 tuổi, được coi là chỉ 
điểm cho sự tiết theo nhịp của hormon hướng 
sinh dục được điều hòa bởi cơ chế feedback 
dương tính của thời điểm bắt đầu dậy thì [8], 
[20],[22]. 
 Tuy nhiên, siêu âm tử cung buồng trứng là 
một xét nghiệm kỹ thuật có giá trị chẩn đoán 
cao nhưng đòi hỏi có kỹ thuật viên được huấn 
luyện tốt, và phải hẹn chuẩn bị tốt cho bệnh 
nhân, nhất là các trẻ gái nhỏ khó thực hiện kỹ 
thuật này. Chính trong nghiên cứu này chúng 
tôi không thể đo kích thước buồng trứng ở 
một số trẻ nhỏ. 
Định lượng nồng độ hormon trục sinh 
dục nền 
Bảng 10. cho thấy có khác biệt rõ rệt nồng 
độ hormon trục sinh dục FSH, LH nền theo 
phân loại dậy thì. Kết quả này phù hợp với 
kết quả của một số nghiên cứu cũng định 
lượng FSH bằng phương pháp định lượng 
siêu nhạy dùng 2 kháng thể đơn dòng [7], 
[9],[14],[18]. 
Ilicki và cs [13] lại tìm thấy nồng độ FSH 
cao ở nhóm vú phát triển sớm hơn là ở nhóm 
trẻ chưa dậy thì cũng độ tuổi. Các kết quả 
nghiên cứu do vậy còn chưa thống nhất, và do 
đó sẽ rất khó khăn để chẩn đoán phân biệt 
giữa DTS và DTS không hoàn toàn bằng cách 
dựa vào nồng độ FSH. 
Nồng độ LH nền tăng cao có ý nghĩa, 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 38 - Năm 2020. 
87 
p<0,0001 trong dậy thì trung ương. Apter với 
phương pháp IFMA cho thấy nồng độ LH 
tăng cao một cách rõ rệt từ khi bắt đầu dậy 
thì, nồng độ LH tăng trung bình giữa trẻ gái 7 
tuổi và người nữ trưởng thành là 116 lần. FSH 
tăng cao chỉ là 6,7 lần, estradiol là 12 lần [7], 
cácnghiên cứu mới đây cũng nhận xét tương 
tự. Hormone LH, FSH nền dùng để chẩn đoán 
dậy thì sớm trung ương có độ nhạy thấp và 
nhịp tiết horrmone LH có xung nên nhiều tác 
giả vẫn đề nghị test LH – RH là tiêu chuẩn 
vàng để chẩn đoán dậy thì sớm trung 
ương[14]. Nồng độ estradiol không liên quan 
đến phân loại dậy thì sớm, p > 0,05. Estradiol 
chủ yếu do các tế bào hạt của lớp áo trong của 
nang trứng bài tiết trong nửa đầu chu kỳ kinh 
nguyệt và nửa sau do hoàng thể bài tiết chủ 
yếu ở buồng trứng. Theo Carel JC (2008) thì 
ở trẻ gái, nồng độ estradiol rất thay đổi và có 
độ nhạy thấp để chẩn đoán dậy thì sớm trung 
ương [11]. 
Nồng độ LH-FSH đỉnh: 
Xét nghiệm cơ bản nhất có giá trị chẩn 
đoán dậy thì sớm trung ương được xem là tiêu 
chuẩn vàng là nghiệm pháp LH-RH. Tuy 
nhiên do nghiệm pháp LH-RHcó giá thành 
cao, không thể thực hiện một cách rộng rãi, 
nên nhiều nghiên cứu đã thay bằng aGnRH 
(Triptorelin - Dipherelin ® 0,1 mg) có giá 
thành thấp hơn và dễ thực hiện. Nhiều nghiên 
cứu đã xác định Dipherelin ® 0,1 mg có thể 
chẩn đoán dậy thì sớm trung ương với độ 
chính xác cao và được sử dụng thay chotest 
LH - RH cổ điển[6], [17]. 
Nồng độ hormon LH đỉnh và tỷ sốLH/FSH 
sau test động Dipherelin ® 0,1 mg, có khác 
biệt rõ rệt giữa 2 nhóm dậy thì sớm trung 
ương với dậy thì sớm ngoại vi. Trong khi 
nồng độ hormon FSH không có sự khác biệt 
có ý nghĩa. Kết quả này phù hợp với các 
nghiên cứu khác không tìm thấy các giá trị 
chẩn đoán của nồng độ FSH trong dậy thì ở 
giới nữ [13],[14],[15],[16]. 
5. KẾT LUẬN 
Về lâm sàng, đặc điểm tuổi xuất hiện tuyến 
vú là dữ kiện quan trọng có giá trị định hướng 
chẩn đoán sớm các thể dậy thì; tuổi xương lớn 
hơn tuổi thực một cách có ý nghĩa (> 1 năm) 
cũng là biểu hiện của dậy thì sớm trung ương. 
Về cận lâm sàng, siêu âm tử cung buồng 
trứng là một xét nghiệm kỹ thuật có giá trị 
chẩn đoán cao nhưng đòi hỏi có kỹ thuật viên 
được huấn luyện tốt, và phải hẹn chuẩn bị tốt 
cho bệnh nhân. Phương pháp định lượng nồng 
độ hormon LH nền bằng các phương pháp 
miễn dịch thế hệ 2 có thể đánh giá mức độ 
trưởng thành của trục hướng sinh dục. Có thể 
sử dụng test động aGnRH liều thấp để phân 
biệt dậy thì sớm trung ương và dậy thì sớm 
ngoại vi. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Thị Hồng Đào (2013), Nghiên 
cứu đặc điểm lâm sàng và các yếu tố liên 
quan đến trẻ gái dậy thì sớm hoàn toàn 
tại bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định, 
Luận án chuyên khoa cấp II, Đại học Y 
Dược Huế. 
2. Nguyễn Phương Khanh, Huỳnh Thoại 
Loan (2014) “Đặc điểm các trường hợp 
dậy thì sớm trung ương tại bệnh viện Nhi 
Đồng 1 từ 2008 đến nay”, Hội nghị nhi 
khoa 2014. 
3. Kerdanete De M, Hoàng Thị Thủy Yên 
(3/2005) “Giá trị của niệu bào đồ trong 
chẩn đoán dậy thì sớm thật vô căn của trẻ 
gái”, Tạp chí nghiên cứu y học, 35 (2), tr. 
30-35. 
4. Nguyễn Thị Kiều Oanh*, Võ Minh Tuấn 
(2008), “Tuổi dậy thì và các yếu tố liên 
quan ỏ học sinh nữ 8 – 11 tuổi tại TP 
HCM", Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh 
2009, 13 (1), tr. 92 - 98. 
5. Võ Minh Tuấn, Nguyễn Thị Trần Minh 
(2009), “Tuổi có kinh lần đầu và các yếu 
tố liên quan ở học sinh nữ phổ thông cơ 
sở tỉnh Bình Phước”, Tạp chí Y học TP. 
Hồ Chí Minh,14(1), tr. 283 - 288. 
6. Analía Verónica Freire, María Eugenia 
Escobar, Mirta Graciela Gryngarten, 
Andrea Josefina Arcari, María Gabriela 
Ballerini, Ignacio Bergadá, María 
Gabriela Ropelato (2013),“High 
Diagnostic Accuracy of Subcutaneous 
Triptorelin Test Compared With GnRH 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 38 - Năm 2020 
88 
Test for Diagnosing Central Precocious 
Puberty in Girls”, Clin 
Endocrinol. 2013;78(3):398-404. 
7. Apter D., Cacciatore B., Alfthan H., 
Steman U.H. (1989), “Serum Luteinizing 
Hormone concentrations increase 100 
fold in females from 7 years of age to 
adulthood, as measured by time - resolved 
Immunofluorometric Assay”,J Clin 
Endocrinol Metab,68, pp.53 -57. 
8. Battaglia C., Mancini F., Regnani G., 
Persico N., Iughetti L., De Aloysio D. 
(2003), “Pelvic ultrasound and color 
Doppler findings in different isosexual 
precocities”, Ultrasound Obstet Gynecol, 
22 (3) pp.277-83. 
9. Brito N V, Batista C M, Borges F M et al 
(1999), “Diagnostic value of 
fluorometric assays in the evaluation of 
precocious puberty”, The journal of 
Clinical endocrinology & metabolism, 
84(10), pp. 3539 - 3544. 
10. Carel, J.C. & Léger, J. (2008) Precocious 
puberty. The New EnglandJournal of 
Medicine, 358, 2366 - 2377. 
11. Carel, J.C., Eugster, E.A., Rogol, A. et 
al. (2009) Consensus statement on the 
use of gonadotropin-releasing hormone 
analogs in children. Pediatrics, 123, 
e752 - e762. 
12. Freedman D S, et al (2003), “The 
relation of menarche age to obesity in 
childhood and adulthood: The Bogalusa 
heart study”, BMC pediatric, 3, pp. 1 - 9. 
13. IlickiA, Prager Lewin R, Kauli R et coll. 
(1984),"Premature thelarche- Natural 
history and sex hormone secretion in 68 
girls". Acta Paediatre Scand,73:756-762. 
14. Lee D S, Ryoo N Y, Lee S H, et al 
(2013), “Basal luteinizing hormone and 
follicular stimulating hormone: is it 
suficent for the diagnosis of prcocious?”, 
Ann Pediatr Endocrinol Metab,18, pp. 
196-201. 
15. Kim D, Cho S Y, Maeng S, et al (2012), 
“Diagnosis and constitutional and 
laboratory features of Korean girls 
referred for precocious puberty”, Korean 
J Pediatric,55(12), pp. 481- 486. 
16. Kılıç A, Durmuş S M, Ünüvar E, et al 
(2012), “Clinical and Laboratory 
Characteristics of Children Referred for 
Early Puberty: Preponderance in 7-8 
Years of Age”, Pediatr En docrinol, 4(4), 
pp. 208-212. 
17. Poomthavorn P, Khlairit P, 
Mahachoklertwattana P (2009), 
“Subcutaneous Gonadotropin – 
Releasing hormone agonist (Triptorelin) 
test for diagnosing precocious puberty”, 
Hormoneresearch, 72, pp. 114 – 119. 
18. Resende, E.A.M.R., Lara, B.H.J., Reis, 
J.D. et al. (2007) Assessment of basal 
and gonadotropin-releasing hormone-
stimulated gonadotropins by 
immunochemiluminometric and 
immunofluorometric assays in normal 
children. The Journal of Clinical 
Endocrinology and Metabolism, 92, 
1424–1429. 
19. Li W J,Gong C X, Guo M J, et al (2015), 
“Efficacy and safety of domestic 
Leuprorelin in girls with idiopathic 
central precocious puberty”, Chinese 
MedicalJournal, 128, pp. 1314 – 1320. 
20. Colle M., Calabet A., Cadier L., Battin J. 
(1984), Données de l’échographie 
pelvienne au cours du développement 
normal et pathologique chez la fille”. 
Arch Fr Pediatr, 41, pp.405-408. 
21. Toublanc J.E. (1996), “Gynécologie 
pédiatrique de la petite fille”, Journees 
parisiennes de Pediatrie, 
Medecine,Science. Ed Flamarion. 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_dac_diem_lam_sang_can_lam_sang_day_thi_som_vo_can_o_t.pdf