Một số chính sách nhằm thúc đẩy đầu tư và hỗ trợ phát triển doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh

TÓM TẮT

Với mục tiêu phát triển 500.000 doanh

nghiệp đến năm 2020 không phải là con số đơn

thuần mà là 500.000 doanh nghiệp mạnh, chất

lượng để phát triển kinh tế thành phố, chính

quyền thành phố Hồ Chí Minh đang tập trung

hỗ trợ hộ kinh doanh, cải thiện môi trường

trường đầu tư và môi kinh doanh hỗ trợ doanh

nghiệp khởi nghiệp, hỗ trợ đầu tư trang thiết bị,

công nghệ mới, mở rộng sản xuất kinh doanh.

Bài viết này mạnh dạn đề xuất một số chính

sách và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy đầu

tư và hỗ trợ phát triển doanh nghiệp để có thể

đạt được 500.000 doanh nghiệp trên địa bàn

thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2020

pdf 9 trang phuongnguyen 5520
Bạn đang xem tài liệu "Một số chính sách nhằm thúc đẩy đầu tư và hỗ trợ phát triển doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số chính sách nhằm thúc đẩy đầu tư và hỗ trợ phát triển doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh

Một số chính sách nhằm thúc đẩy đầu tư và hỗ trợ phát triển doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
72
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
MỘT SỐ CHÍNH SÁCH NHẰM THÚC ĐẨY ĐẦU TƯ 
VÀ HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN 
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
 Lê Trương Hải Hiếu*
* ThS. NCS. Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh
TÓM TẮT
Với mục tiêu phát triển 500.000 doanh 
nghiệp đến nĕm 2020 không phải là con số đơn 
thuần mà là 500.000 doanh nghiệp mạnh, chất 
lượng để phát triển kinh tế thành phố, chính 
quyền thành phố Hồ Chí Minh đang tập trung 
hỗ trợ hộ kinh doanh, cải thiện môi trường 
trường đầu tư và môi kinh doanh hỗ trợ doanh 
nghiệp khởi nghiệp, hỗ trợ đầu tư trang thiết bị, 
công nghệ mới, mở rộng sản xuất kinh doanh. 
Bài viết này mạnh dạn đề xuất một số chính 
sách và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy đầu 
tư và hỗ trợ phát triển doanh nghiệp để có thể 
đạt được 500.000 doanh nghiệp trên địa bàn 
thành phố Hồ Chí Minh vào nĕm 2020.
Từ Khoá: chính sách, đầu tư, phát triển, 
doanh nghiệp, thành phố Hồ Chí Minh
ABSTRACT
With the goal of developing 500,000 
enterprises by 2020, it is not the only number 
but 500,000 strong and quality enterprises to 
develop the city’s economy. The Ho Chi Minh 
City government is focusing on supporting 
business households, improve the environment of 
investment and business environment to support 
start-up enterprises, support investment in new 
equipment and technology, expand production 
and business. This article boldly proposes a 
number of policies and measures to promote 
investment and business development support to 
reach 500,000 enterprises in Ho Chi Minh City 
by 2020.
 Keywords: policy, investment, 
development, enterprises, Ho Chi Minh City
SOME POLICIES TO PROMOTE INVESTMENT AND SUPPORT BUSINESS 
DEVELOPMENT ON HO CHI MINH CITY
1. CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY ĐẦU TƯ
Chính sách đầu tư của thành phố, về tổng 
thể, tập trung vào hai mục tiêu chính: chuyển 
dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao chất lượng 
tĕng trưởng. Để thực hiện các mục tiêu này, 
các công cụ chính sách được sử dụng chủ yếu 
là các công cụ kinh tế dựa trên các tín hiệu thị 
trường gồm:
Xác định các ngành, sản phẩm, lĩnh vực 
trọng điểm đầu tư giai đoạn 2001-2005, thành 
phố xác định ưu tiên cho các ngành công nghệ 
cao như công nghiệp điện tử-viễn thông, ứng 
dụng công nghệ sinh học; dịch vụ cấp cao như 
tài chính, ngân hàng, tin học, phần mềm, du 
lịch chất lượng cao; phát triển mạnh dịch vụ 
vận tải, kho bãi, dịch vụ cảng, kho vận và vận 
tải công cộng đô thị; đầu tư phát triển xây dựng 
nông thôn mới; củng cố các sản phẩm chủ lực 
vẫn còn lợi thế cạnh tranh (chế biến lương 
thực-thực phẩm, hóa chất-cao su-plastic, dệt 
da và may, sản phẩm cơ khí và kim loại). Giai 
đoạn 2006-2010, thành phố xác định 09 nhóm 
ngành dịch vụ tài chính - tín dụng - ngân hàng 
73
Một số chính sách nhằm thúc đẩy...
- bảo hiểm; thương mại (tập trung các loại dịch 
vụ phục vụ xuất khẩu); vận tải, kho bãi, dịch 
vụ cảng (chú ý các dịch vụ hàng hải quốc tế); 
bưu chính - viễn thông và công nghệ thông tin 
- truyền thông; kinh doanh tài sản - bất động 
sản (phát triển đô thị mới; nhà ở; vĕn phòng 
cho thuê); dịch vụ tư vấn, khoa học - công 
nghệ (thị trường công nghệ); du lịch (tập trung 
du lịch quốc tế); y tế và giáo dục - đào tạo 
chất lượng cao; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ 
sinh học; vừa củng cố các ngành công nghiệp 
truyền thống theo hướng tĕng tỉ trọng giá trị gia 
tĕng, vừa tập trung hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu 
công nghiệp sang các sản phẩm và ngành công 
nghiệp có hàm lượng khoa học - công nghệ cao, 
có giá trị gia tĕng lớn, bao gồm : (1) cơ khí chế 
tạo; (2) điện tử - viễn thông - tin học; (3) công 
nghiệp hóa chất và dược phẩm; (4) chế biến 
lương thực thực phẩm giá trị tĕng cao. Giai 
đoạn 2011-2015 tiếp tục thúc đẩy phát triển 09 
nhóm ngành dịch vụ, 04 ngành công nghiệp 
có hàm lượng khoa học - công nghệ và giá trị 
gia tĕng cao và các ngành công nghệ sinh học, 
công nghiệp sạch, tiết kiệm nĕng lượng, công 
nghiệp phụ trợ, đầu tư hiện đại hóa ngành xây 
dựng sử dụng vật liệu mới.
- Thiết kế các quy định về khuyến khích 
đầu tư, xây dựng một số định chế hỗ trợ và 
phục vụ đầu tư.
- Giảm bớt chi phí giao dịch với các động 
thái cải thiện môi trường đầu tư. Thành phố tập 
trung vào hàng loạt các nỗ lực giảm thiểu các 
rào cản cho môi trường đầu tư thông qua rà soát 
để cải tiến các thủ tục hành chính; công khai, 
minh bạch thông tin; chuẩn hóa các quy trình; 
tĕng cường công tác xúc tiến đầu tư; thiết lập 
các kết nối giữa chính quyền và các nhà đầu tư.
- Chú trọng đầu tư vào các yếu tố phục vụ 
cho việc nâng cao chất lượng tĕng trưởng: cơ 
sở hạ tầng, môi trường đô thị, nguồn nhân lực, 
phát triển khoa học-công nghệ. 
Hàng loạt các chương trình, kế hoạch, đề 
án đã được xây dựng, ban hành và đi vào triển 
khai thực hiện trong giai đoạn 2006-2012, 
nhằm cụ thể hóa các nội dung của chính sách 
đầu tư. Tích hợp trong các nội dung chính sách 
về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trong giai đoạn 
2005-2012, Ủy ban nhân dân thành phố đã ban 
hành Chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh 
tế nông nghiệp giai đoạn 2006-2010 và Quy 
định về khuyến khích chuyển dịch cơ cấu kinh 
tế nông nghiệp. Nĕm 2007 thành phố đã phê 
duyệt Đề án chuyển dịch cơ cấu kinh tế công 
nghiệp – phát triển công nghiệp hiệu quả cao 
với chiến lược công nghiệp thành phố sẽ phải 
chuyển dịch mạnh theo hướng tĕng nhanh các 
ngành công nghiệp công nghệ kỹ thuật cao, 
giá trị sản phẩm lớn, có hàm lượng tri thức, 
tỷ lệ giá trị tĕng thêm cao. Quy hoạch một số 
ngành công nghiệp trọng điểm được phê duyệt. 
Một số chương trình và đề án khác được ban 
hành hay phê duyệt như Chương trình chuyển 
dịch cơ cấu hàng xuất khẩu, Chương trình hỗ 
trợ chuyển dịch cơ cấu ngành du lịch, Chương 
trình phát triển thương mại điện tử, Chương 
trình phát triển công nghệ thông tin-truyền 
thông, Chương trình phát triển du lịch, chương 
trình hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu ngành du lịch, 
đề án phát triển kênh phân phối bán buôn và 
bán lẻ Nội dung các chương trình, đề án, 
quy hoạch, kế hoạch thể hiện các định hướng 
về đầu tư hoặc chung chung, hoặc cụ thể, hoặc 
trực tiếp, hoặc gián tiếp. Tùy vào thiết kế cụ 
thể của từng chương trình, quy hoạch, đề án, 
kế hoạch từ các ngành mà tiếp tục lại tích hợp 
trong chúng những đề xuất về dự án, chương 
trình, đề án, kế hoạch khác.
Thời gian qua, Thành phố cũng đã có 
những thiết kế quy định cụ thể về khuyến khích 
đầu tư cho một số lĩnh vực và khu vực đặc biệt. 
Quyết định 45/2004/QĐ-UBND ngày 24 tháng 
02 nĕm 2004 quy định một số chính sách ưu 
đãi về quỹ đất, mặt bằng và thủ tục trong đầu 
tư đối với các dự án có vốn đầu tư nước ngoài 
trên địa bàn thành phố với đối tượng áp dụng 
là các dự án công nghệ cao, xuất khẩu, đào tạo, 
y tế Giai đoạn 2006-2010, thành phố đã ban 
hành quy định về khuyến khích chuyển dịch 
cơ cấu kinh tế nông nghiệp giai đoạn 2006-
2010 (Quyết định 105/2006/QĐ-UBND ngày 
17 tháng 07 nĕm 2006 và Quyết định 15/2009/
QĐ-UBND ngày 10 tháng 02 nĕm 2009). 
Quyết định 36/2011/QĐ-UBND Quy định về 
Chính sách khuyến khích chuyển dịch cơ cấu 
nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị 
74
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
trên địa bàn thành phố giai đoạn 2011 – 2015 
tiếp nối sử dụng một công cụ tạo động cơ đầu 
tư trong sản xuất nông nghiệp theo đúng định 
hướng. Bên cạnh đó, thành phố đã ban hành 
một số quy định khuyến khích đầu tư riêng biệt 
theo nhu cầu thực tế từ một số khu vực, lĩnh 
vực như Khu Y tế kỹ thuật cao, Khu Công viên 
phần mềm Quang Trung, đầu tư, khai thác bến 
bãi vận tải đường bộ, doanh nghiệp sử dụng lao 
động là người sau cai nghiện
Bắt đầu từ nĕm 1999, thành phố thực hiện 
Chương trình kích cầu thông qua đầu tư, với 
nội dung chủ yếu là thiết kế các ưu đãi về tín 
dụng để thu hút đầu tư cho các dự án được cho 
là bức xúc đối với phát triển kinh tế-xã hội 
của thành phố. Chính sách này đã được thực 
hiện trong nhiều nĕm và để phù hợp với tình 
hình thực tiễn đã có những thay đổi cĕn bản về 
danh mục dự án là đối tượng của Chương trình 
cũng như công cụ sử dụng. Chính sách hiện 
hành sử dụng công cụ hỗ trợ lãi vay để khuyến 
khích các doanh nghiệp đầu tư vay vốn đầu tư 
trang thiết bị, mở rộng sản xuất theo chiều sâu; 
đầu tư theo các lĩnh vực được xác định là mũi 
nhọn, sử dụng công nghệ hiện đại, hàm lượng 
khoa học công nghệ, giá trị gia tĕng cao; các 
dự án trong lĩnh vực giáo dục, y tế, môi trường. 
Chương trình kích cầu thông qua đầu tư đã có 
sự điều chỉnh các quy định về thực hiện các dự 
án đầu tư cho phù hợp với bối cảnh nền kinh tế 
đang có nhiều diễn biến phức tạp (Quyết định 
số 20/2009/QĐ-UBND ngày 27 tháng 02 nĕm 
2009 và Quyết định số 33/2011/QĐ-UBND 
ngày 28 tháng 05 nĕm 2011)
Với các định hướng đã được xác lập từ Đại 
hội Đảng bộ lần VIII, IX thành phố tập trung 
các nguồn lực vào việc xây dựng các khu đô thị 
mới, các công trình hạ tầng kỹ thuật, quy hoạch 
sử dụng đất, quy hoạch xây dựng, hoàn thiện 
các dịch vụ đô thị. Các chính sách được thể hiện 
thông qua các dự án cụ thể; những tiêu chuẩn, 
quy định, khuôn mẫu ấn định mang tính kỹ thuật 
quản lý hạ tầng đô thị và dịch vụ đô thị; những 
cơ chế thu hút đầu tư xã hội nhằm huy động 
nguồn lực nâng cao chất lượng sống đô thị. 
Rất nhiều các loại quy hoạch được ban hành 
trong giai đoạn đến nĕm 2015 từ bố trí mạng lưới 
đến quy hoạch trong các ngành, lĩnh vực. Nhiều 
loại quy chế, quy định được ban hành nhằm tạo 
những khuôn mẫu chuẩn trong trật tự quản lý 
đầu tư. Tương tác giữa chính quyền với cộng 
đồng doanh nghiệp được cải thiện bằng các nỗ 
lực thực hiện giải pháp cải thiện môi trường đầu 
tư, cải cách các thủ tục hành chính, thông tin 
ngày càng được quản lý tốt và minh bạch. Đồng 
thời, thành phố cũng đẩy mạnh việc đầu tư nâng 
cao chất lượng nguồn nhân lực, khoa học công 
nghệ, bảo vệ môi trường thông qua ưu tiên bố 
trí vốn đầu tư cho giáo dục, đầu tư xây dựng và 
phát triển hạ tầng khoa học và công nghệ, chú 
trọng công tác quản lý, bảo vệ và xử lý ô nhiễm 
môi trường, thể hiện qua việc huy động nguồn 
lực phối hợp xây dựng cơ chế, chính sách, thiết 
kế các chương trình, đề án, dự án, ưu tiên bố trí 
vốn ngân sách
Về cơ bản, chính sách đầu tư của thành phố 
đã đem lại nhiều kết quả tích cực, thể hiện chủ 
yếu qua một số chỉ tiêu tĕng trưởng cơ bản. 
Tĕng trưởng kinh tế bình quân của thành phố 
giai đoạn 2004-2015 đạt trên 11.4%. Quy mô 
kinh tế thành phố nĕm 2010 bằng 1.7 lần nĕm 
2005. GDP bình quân đầu người nĕm 2010 đạt 
2855 USD, bằng 1.7 lần so với nĕm 2005 và 
bằng 2.4 lần so với cả nước. Cơ cấu dịch vụ - 
công nghiệp – nông nghiệp diễn ra theo đúng 
định hướng tĕng tỉ trọng dịch vụ, đạt được chỉ 
tiêu đề ra (đến cuối 2010, dịch vụ chiếm tỉ trọng 
53.6%, công nghiệp chiếm 45.3% và nông 
nghiệp chiếm 1.1%). Đầu tư toàn xã hội trong 
giai đoạn 2006-2010 tĕng bình quân 24.8%/
nĕm, bằng 03 lần giai đoạn 2001-2005. Thành 
phố cũng là một trong những địa phương đứng 
đầu cả nước về thu hút FDI về số lượng dự án 
và quy mô vốn, giai đoạn 2006-2010 tĕng bình 
quân 3.6%/nĕm về số lượng dự án, 24.1% về 
tổng vốn đầu tư đĕng ký, gấp 6.5 lần so với 
giai đoạn 2001-2005. Những kết quả này lại 
đạt được trong một giai đoạn cực kỳ khó khĕn 
với ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính thế 
giới và các bất ổn kinh tế vĩ mô ngày càng làm 
bộc lộ rõ nét những trục trặc của đời sống kinh 
tế Việt Nam trên nhiều phương diện.
Tuy đạt được một số thành tựu nhất định 
nhưng chính sách đầu tư của thành phố vẫn 
75
Một số chính sách nhằm thúc đẩy...
chưa tạo được những bước đột phá như kỳ 
vọng. Từ hai mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh 
tế và nâng cao chất lượng tĕng trưởng mà xét, 
chính sách đầu tư vẫn chưa hình thành được 
các thay đổi về chất. Tỉ trọng các ngành có giá 
trị gia tĕng cao còn thấp, nền sản xuất vẫn chủ 
yếu là gia công, sơ chế, thâm dụng lao động là 
chính. Kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu 
tĕng trưởng kinh tế, lộ rõ một số vấn đề nghiêm 
trọng như quá tải, ùn tắc giao thông, ô nhiễm 
môi trường, ngập nước Chất lượng nguồn 
nhân lực chưa tương xứng với yêu cầu phát 
triển và hội nhập. Khoa học và công nghệ hoàn 
toàn chưa đóng vai trò tạo điểm nhấn cho phát 
triển. Tóm lại, vấn đề của chính sách đầu tư là 
dù có định hướng chính sách thể hiện tầm nhìn 
và sự nhanh nhạy của lãnh đạo thành phố, dù 
Ủy ban nhân dân thành phố tích cực đề ra nhiều 
giải pháp, xây dựng các chương trình, kế hoạch 
cụ thể tập trung chỉ đạo với hàng loạt các công 
việc cụ thể nhưng chính sách vẫn không tạo 
được sự biến chuyển mong muốn. Vấn đề này 
luôn được nhìn nhận song hành cùng với việc 
các chỉ tiêu đánh giá trong các báo cáo tổng 
kết luôn thể hiện mức độ hoàn thành kế hoạch, 
nĕm sau cao hơn nĕm trước.
Nhiều nguyên nhân được đưa ra để phân 
tích những trục trặc trong chính sách đầu tư 
của thành phố. Chúng thường được tập trung 
làm 02 loại: khách quan và chủ quan. Về khách 
quan, đó là những vướng mắc trong cơ chế, 
chính sách chung, là ảnh hưởng mạnh mẽ từ 
khủng hoảng kinh tế thế giới, là khuôn khổ 
thể chế cho phát triển kinh tế-xã hội thành phố 
đã và đang quá chật hẹp.... Về chủ quan, đó 
là công tác quản lý điều hành còn chưa đúng 
tầm, thiếu tính chiến lược, công tác quy hoạch, 
dự báo, thống kê, tổng kết thực tiễn còn chưa 
tốt, thông tin còn thiếu minh bạch nên chưa 
thật sự khuyến khích đầu tư, cơ chế phối hợp 
giữa các ngành, địa phương chưa tốt Tóm 
lại, các nguyên nhân được cảm nhận tương đối 
toàn diện và đầy đủ. Tuy nhiên, điều cần bàn là 
chúng chỉ giới hạn trong các cảm nhận, đánh 
giá chung chung, dựa trên kinh nghiệm và sự 
vụ hơn là có cĕn cứ và phân tích.
Nhiều quan điểm cho rằng, đầu tư không 
nhất thiết là yếu tố quyết định tĕng trưởng, 
cũng như không hiển nhiên là yếu tố quyết định 
chất lượng tĕng trưởng. Đầu tư cho cơ sở hạ 
tầng, cho y tế và giáo dục không phải là công 
thức thần kỳ cho tĕng trưởng có chất lượng. 
Điều cốt lõi là phải đầu tư đúng cho những 
động cơ tạo ra tĕng trưởng (Easterly, 2001). 
Ở phạm vi một địa phương, có thể hiểu quan 
điểm này trên bình diện chính sách đầu tư phải 
được xây dựng dựa trên những phân tích cẩn 
trọng và chân thực về các thế mạnh cũng như 
các giới hạn thể hiện trong thực trạng phát triển 
của thành phố. Xét trên quan điểm này, chính 
sách đầu tư của thành phố vẫn chưa hướng tới 
thực chất của vấn đề chất lượng tĕng trưởng. 
Các động cơ tĕng trưởng không được nhận diện 
rõ trong các thể hiện của chính sách. Đầu tư 
vào các ngành hàm lượng công nghệ cao hay 
tạo ra giá trị gia tĕng cao chỉ trở thành động 
lực khi khu vực tư nhân tích lũy đủ nội lực và 
hội tụ đủ các điều kiện để bắt đầu các chuyển 
biến về chất. Đầu tư cho hạ tầng hay cho giáo 
dục và y tế chỉ tạo ra động cơ tĕng trưởng khi 
chúng được chuyển hóa thành vốn vật chất và 
vốn con người vận động trong nền kinh tế với 
thể hiện đơn giản là môi trường kinh doanh tốt 
hơn cho doanh nghiệp và thêm nhiều cơ hội 
cho người dân tiếp cận với các dịch vụ giáo 
dục và y tế tốt hơn. Cách tiếp cận này thể hiện  ... lý các 
vấn đề bức xúc của doanh nghiệp
Thành phố thiết lập nhiều kênh tương tác 
với doanh nghiệp thông qua vai trò của các 
Trung tâm chuyên về hỗ trợ doanh nghiệp trực 
thuộc Thành phố hoặc trực thuộc các Sở; các 
Hội, Hiệp Hội doanh nghiệp; các cuộc gặp 
gỡ định kỳ giữa lãnh đạo Thành phố với các 
doanh nghiệp Các vấn đề bức xúc của các 
doanh nghiệp, những vướng mắc về cơ chế, 
chính sách đều được có những cổng ghi nhận 
và chuyển tải đến lãnh đạo thành phố. Trong 
nhiều trường hợp, Thành phố đã có những đề 
xuất, kiến nghị tổng hợp từ các vướng mắc của 
doanh nghiệp lên Trung ương nhằm có sự điều 
chỉnh phù hợp về chính sách.
Hệ thống “Đối thoại Doanh nghiệp-Chính 
quyền Thành phố” được hình thành từ nĕm 
2002, đến nay có 42 cơ quan, đơn vị tham gia, 
với vai trò chủ đạo của Trung tâm Xúc tiến 
Thương mại và Đầu tư. Hệ thống được xây 
dựng nhằm mục đích tạo kênh thông tin đối 
thoại giữa doanh nghiệp với các cơ quan quản 
lý nhà nước, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của 
Ủy ban nhân dân TP.HCM. Quy chế tổ chức 
hoạt động và phối hợp trong việc tham gia hệ 
thống đã được ban hành theo Quyết định số 
53/2010/QĐ-UBND ngày 28/07/2010 (trước 
đó một Quy chế tương tự đã được ban hành 
tạm thời vào nĕm 2002). Chế độ báo cáo, theo 
chỉ đạo của UBND TP.HCM, được thực hiện 
định kỳ hàng tháng, quý, nĕm, theo từng loại 
đối tượng. Hệ thống bước đầu đã đạt được một 
số kết quả nhất định và đang trong quá trình 
tiếp tục cải thiện nâng cao chất lượng.•	 Các giải pháp tín dụng
Nĕm 2007, Thành phố đã thành lập Quỹ 
Bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và 
nhỏ, thực hiện cấp bảo lãnh tín dụng cĕn cứ 
theo chính sách và quy định của Chính phủ. 
Chức nĕng của Quỹ hướng đến hỗ trợ doanh 
nghiệp tiếp cận vốn tín dụng thông qua nghiệp 
vụ bảo lãnh. Quỹ đã có những hoạt động mở 
rộng quan hệ với các ngân hàng thương mại để 
phối hợp thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh và cho 
vay. Tuy nhiên, vai trò của Quỹ còn khá mờ 
nhạt, hoạt động vẫn còn nhiều khó khĕn nhất là 
trong tình hình khó khĕn chung về kinh tế trong 
những nĕm vừa qua.
Thành phố cũng thực hiện chính sách hỗ 
trợ lãi vay cho doanh nghiệp bằng Chương 
trình kích cầu thông qua đầu tư. Chính sách 
này được lồng ghép trong định hướng ưu tiên 
đầu tư của Thành phố. Ngân sách Thành phố 
78
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
tiến hành hỗ trợ lãi vay cho các doanh nghiệp 
đầu tư vào các lĩnh vực giáo dục, y tế, các 
ngành công nghệ cao, công nghiệp trọng yếu. 
Các mức hỗ trợ 100% và 50% được đặt ra cho 
các loại dự án đầu tư, với giới hạn về mức vốn 
vay (không quá 100 tỷ cho mỗi dự án và tổng 
số vốn vay là 8.000 tỷ đồng) và thời hạn (hỗ 
trợ không quá 07 nĕm). Một Quy chế phối hợp 
thực hiện đã được ban hành theo Quyết định 
số 5390/QĐ-UBND ngày 20/10/2012 quy định 
nhiệm vụ của các Sở ngành trong thẩm định dự 
án để đảm bảo hỗ trợ đúng đối tượng. 
Thực hiện chính sách lãi suất cho vay ưu 
tiên đối với một số ngành, lĩnh vực được quy 
định tại Thông tư số 14/2012/TT-NHNN ngày 
04/05/2012 và Thông tư số 20/2012/TT-NHNN 
ngày 08/06/2012, với sự chủ động của Thành 
phố, đến cuối 2012, khoảng 5% doanh nghiệp 
đã tiếp cận được với tín dụng lãi suất thấp với 
tổng dư nợ cho vay trên 25 ngàn tỷ đồng. Chính 
sách giãn thuế của Chính phủ (Quyết định số 
04/2012/QĐ-TTg ngày 19/01/2012) cũng được 
Thành phố chủ động triển khai áp dụng nhằm 
giảm bớt khó khĕn cho doanh nghiệp.•	 Xúc tiến thương mại và đầu tư
Công tác xúc tiến thương mại rất được 
Thành phố chú trọng. Thông qua vai trò của 
Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư, 
các công tác, chương trình xúc tiến thương mại 
và đầu tư được thiết kế, triển khai thực hiện 
với nhiều hình thức, biện pháp phong phú như 
nghiên cứu, thu thập thông tin thị trường trong 
nước và quốc tế; cung ứng các dịch vụ tư vấn, 
hỗ trợ cho doanh nghiệp; tổ chức hội nghị, hội 
thảo, diễn đàn mở ra các cơ hội kinh doanh; 
thực hiện việc quảng bá thu hút đầu tư; chương 
trình Hàng Việt Nam chất lượng cao, vinh danh 
doanh nhân Sài Gòn tiêu biểu Bên cạnh đó, 
kinh phí xúc tiến còn được cấp hàng nĕm cho 
Sở Công thương, Sở Du lịch, Ban Quản lý Khu 
Nông nghiệp công nghệ cao, Ban Quản lý Khu 
Công nghệ cao, Ban Quản lý Đầu – tư Xây 
dựng Khu đô thị mới Thủ Thiêm, Ban Quản lý 
Đầu tư – Xây dựng Khu đô thị mới Tây Bắc, 
Ban Quản lý Đầu tư – Xây dựng Khu đô thị 
mới Nam thành phố. Các đơn vị này chủ động 
thực hiện công tác xúc tiến liên quan đến phạm 
vi chức nĕng của mình.
•	 Các chương trình định hướng và hỗ 
trợ cho doanh nghiệp.
Chính sách về doanh nghiệp thường đứng 
trước những lựa chọn mang tính đánh đổi giữa 
lợi ích kinh tế và lợi ích của cộng đồng. Tĕng 
trưởng tạo ra những cái giá phải trả về mặt môi 
trường và xã hội vì các doanh nghiệp luôn hành 
xử theo động cơ lợi nhuận. Nhận thức được 
vấn đề môi trường, nĕm 2002, Thành phố đã 
phê duyệt Đề án thực hiện Chương trình di dời 
các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm vào các khu 
công nghiệp và vùng phụ cận (Quyết định số 
80/2002/QĐ-UBND ngày 08/07/2002). Mục 
tiêu của Chương trình hướng đến sử dụng quy 
hoạch khu công nghiệp, quy hoạch ngành và 
quy hoạch đô thị để tập trung các cơ sở sản 
xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp vào các 
khu công nghiệp và vùng phụ cận nhằm giảm 
thiểu các tác động xấu về môi trường. Trước 
đó, Chương trình “Hỗ trợ doanh nghiệp hiện 
đại hóa với chi phí thấp, tạo ưu thế cạnh tranh 
tổng hợp và đẩy mạnh xuất khẩu” nĕm 2000 
– 2003 (Chỉ thị số 04/2000/CT-UB-KT ngày 
23/02/2000) đưa ra mục tiêu hỗ trợ các doanh 
nghiệp tham gia vay vốn để đổi mới công nghệ, 
thiết bị, di dời nhà xưởng ra khu công nghiệp 
với vai trò của các Quỹ tài chính được Thành 
phố thành lập dưới sự trợ giúp của các Tổ chức 
quốc tế nhằm mục đích giảm thiểu ô nhiễm. 
Đồng thời, một số chính sách tài chính cho 
việc di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm vào 
các khu công nghiệp tập trung và cụm công 
nghiệp được ban hành kèm theo Quyết định 
số 99/2005/QĐ-UBND ngày 13/06/2005. Các 
chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp di dời thể 
hiện rất toàn diện trên quy định từ hỗ trợ về 
vốn và lãi vay cho các doanh nghiệp đến hỗ 
trợ cho lao động, xây dựng nhà ở và các động 
cơ khuyến khích tiến độ di dời. Các chính sách 
này đến nay đã hết hiệu lực và chủ yếu hiện 
nay, công cụ quy hoạch đang được Thành phố 
sử dụng để tiếp tục hoàn thiện chủ trương di 
dời. Tóm lại, chính sách doanh nghiệp của 
Thành phố không đi theo hướng đánh đổi tĕng 
trưởng và chất lượng môi trường mà có những 
động thái từ rất sớm hạn chế các tác động về 
mặt môi trường, ít nhất cũng đã thể hiện trong 
một số vĕn bản chính thức.
79
Một số chính sách nhằm thúc đẩy...
Bên cạnh đó, Thành phố đã thực hiện 
một số các chương trình hỗ trợ nâng cao nĕng 
lực về công nghệ cho các doanh nghiệp, tĕng 
cường liên kết vùng, ngành. Tiêu biểu như 
Chương trình hỗ trợ xây dựng thương hiệu và 
Chương trình hợp chuẩn do Sở Khoa học và 
Công nghệ và Trung tâm Xúc tiến Thương mại 
và Đầu tư phối hợp thực hiện; các lớp đào tạo, 
tập huấn cho doanh nghiệp, hiệp hội và các cơ 
quan quản lý do Sở Khoa học và Công nghệ, 
Viện Nghiên cứu phát triển, Sở Tư pháp tổ 
chức. Các hoạt động hỗ trợ về thông tin chế độ, 
chính sách cho doanh nghiệp cũng rất được chú 
trọng. Chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh 
nghiệp trên địa bàn TPHCM giai đoạn 2012-
2015 được Thành phố ban hành tại Quyết định 
số 1111/QĐ-UBND ngày 05/03/2012.
Chính sách phát triển doanh nghiệp của 
Thành phố định hình và vận hành trong các 
khuôn khổ chính sách và quy định của Chính 
phủ, với đối tượng trung tâm là doanh nghiệp 
nhỏ và vừa. Thực hiện kế hoạch phát triển 
doanh nghiệp nhỏ và vừa 5 nĕm (2006 – 2010) 
đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt 
(Quyết định số 236/2006/QĐ-TTg), UBND 
TP.HCM đã thành lập Ban Điều phối thực hiện 
kế hoạch phát triển doanh nghiệp nhỏ và cừa 
5 nĕm của TP.HCM (Quyết định số 5306/QĐ-
UBND ngày 27/11/2007), ban hành Quy chế 
hoạt động của Ban Điều phối (Quyết định số 
82/QĐ-UBND ngày 08/01/2008), xây dựng 
và ban hành kế hoạch phát triển doanh nghiệp 
nhỏ và vừa (Quyết định số 40/QĐ-UBND ngày 
13/5/2008). Nghị định 56/2009/NĐ-CP ngày 
30/06/2009 về trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và 
vừa quy định một loạt các chính sách trợ giúp. 
Tuy gia tĕng về số lượng nhưng các khó khĕn 
mà doanh nghiệp nhỏ và vừa phải đương đầu 
là rất lớn như thiếu vốn, khó tiếp cận với các 
khoản tín dụng, đặc biệt là tín dụng ưu đãi; 
trình độ quản lý, nĕng lực điều hành còn hạn 
chế, nĕng lực xây dựng dự án sản xuất kinh 
doanh còn hạn chế nên không kết nối được với 
các tổ chức tín dụng; thiếu thông tin về công 
nghệ, máy móc thiết bị, nguồn cung cấp, ít hiểu 
biết về quản lý sản xuất, quản lý chất lượng dẫn 
đến nĕng suất và chất lượng sản phẩm thấp; 
thiếu mặt bằng sản xuất kinh doanh do không 
đủ vốn để thuê đất trong khu công nghiệp hoặc 
đầu tư mua đất và xây dựng nhà xưởng ở nơi 
phù hợp với quy hoạch; chưa có chiến lược về 
nhân sự, chưa quan tâm đến đào tạo, bồi dưỡng 
lực lượng lao độngTrong khi đó, việc triển 
khai các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp như 
hỗ trợ vốn đầu tư, hỗ trợ về đào tạo, xúc tiến 
đầu tư, hỗ trợ về khoa học và công nghệ vẫn 
chưa đạt được hiệu quả cao.
Tóm lại: chính sách phát triển doanh 
nghiệp của Thành phố, về mặt vĕn bản, thể 
hiện rất toàn diện. Phát triển các doanh nghiệp 
thuộc mọi thành phần kinh tế song hành với 
các nỗ lực cải cách doanh nghiệp nhà nước. 
Hoàn thiện về thể chế, phát triển nguồn nhân 
lực và công nghệ, đối phó với các thách thức về 
môi trường đều nổi lên như những nội dung 
trọng tâm trong các chính sách liên quan đến 
doanh nghiệp. Những nội dung này hướng tới 
chất lượng tĕng trưởng, thể hiện chủ trương rất 
đúng đắn của Thành phố “cần thiết phải chấp 
nhận tĕng trưởng kinh tế sẽ chậm lại trong một 
giai đoạn nhất định để sau đó sản xuất đạt hiệu 
quả cao hơn, tĕng trưởng kinh tế cao hơn”1. 
Đi sâu vào các số liệu thống kê, đánh giá 
chung về phát triển kinh tế cho thấy chất lượng 
tĕng trưởng của Thành phố còn thấp, chủ yếu 
dựa trên tĕng trưởng về vốn và lao động. Hàng 
loạt các vấn đề được nhận diện như nĕng suất 
lao động còn thấp, hàm lượng giá trị gia tĕng 
còn thấp và có xu hướng giảm, sử dụng các 
nguồn lực chưa hiệu quả, chuyển dịch cơ cấu 
kinh tế chậm và chưa rõ nét. Chính sách phát 
triển doanh nghiệp, về cơ bản, chưa tạo được 
những chuyển biến về chất.
Tuy nhiên, vấn đề của chính sách phát triển 
doanh nghiệp là tồn tại một khoảng cách khá 
lớn giữa các chủ trương, định hướng, quan điểm 
đúng đắn với việc cụ thể hóa trên thực tế. Chính 
sách hỗ trợ cho doanh nghiệp, thể hiện trong rất 
nhiều dạng chương trình, kế hoạch, đề án, quy 
định. Đa phần trong số đó còn mang tính phong 
trào, bị động chạy theo các khuôn mẫu được cố 
định sẵn của Chính phủ như Chương trình hỗ 
1 Đề án thực hiện di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm 
vào các Khu công nghiệp và vùng phụ cận (Quyết 
định số 80/2002/QĐ-UBND ngày 08/07/2002.
80
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
trợ pháp lý cho doanh nghiệp, Kế hoạch phát 
triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, Chương trình 
cải cách hành chính, chính sách về lãi suất cho 
vay và giãn thuế trong nĕm 2012 Các chính 
sách cho doanh nghiệp thiếu đi chiều sâu cần 
thiết để hướng đến đúng đối tượng, tạo đúng 
động cơ thực thi và chuẩn bị sẵn nguồn lực để 
triển khai hiệu quả. Cũng như chính sách đầu 
tư, khung theo dõi và đánh giá chính sách rất 
ít khi được xây dựng một cách thực chất mà 
chủ yếu được triển khai theo hệ thống báo cáo 
hành chính với các dữ liệu và trách nhiệm phân 
tán trong nhiều ngành. Dù thể hiện những định 
hướng đúng đắn nhưng kinh nghiệm, khuôn 
mẫu hành chính và xử lý sự vụ mới là cơ chế 
vận hành thật sự của các chính sách về doanh 
nghiệp. Vì vậy, rất khó để đánh giá tương quan 
giữa chính sách doanh nghiệp với chất lượng 
tĕng trưởng ngoại trừ các nhận định mang tính 
cảm nhận, định tính là chủ yếu.
3. KẾT LUẬN
Dù có nhiều chương trình hỗ trợ doanh 
nghiệp nhưng chính sách đối với các doanh 
nghiệp của thành phố vẫn thiếu một chiến lược 
phát triển tổng thể và xuyên suốt. Các chính 
sách trợ giúp doanh nghiệp về tài chính, mặt 
bằng sản xuất, nâng cao nĕng lực công nghệ, 
xúc tiến mở rộng thị trường, thông tin và tư vấn 
đều được đề ra nhưng điều xuyên suốt, kết nối 
chúng trong bức tranh tĕng trưởng chung của 
thành phố vẫn chưa được định hình rõ nét. Các 
công cụ chính sách được sử dụng theo khuôn 
mẫu và kinh nghiệm, do đó khó có động cơ 
tính toán đến những lợi ích dài hạn. Điều này 
thể hiện rõ nét trong thiết kế chính sách hướng 
tới tạo nguồn thu từ việc đầu tư cơ sở hạ tầng 
của nhà nước. Cơ sở lựa chọn giữa hai khuynh 
hướng thu trực tiếp từ các doanh nghiệp để bù 
đắp cho ngân sách Thành phố và hướng nguồn 
thu gia tĕng trong dài hạn từ tác động tích cực 
mà cơ sở hạ tầng hoàn thiện sẽ tạo ra đối với 
các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh 
nghiệp là những ràng buộc về thẩm quyền và 
nguồn lực hơn là cân nhắc về chất lượng tĕng 
trưởng./. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Báo cáo kết quả thực hiện chương trình 
hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn 
thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2006 – 2010 
(Báo cáo số 115/BC-UBND của Ủy ban nhân 
dân thành phố ngày 18 tháng 09 nĕm 2010).
[2]. Báo cáo tổng kết tổ chức và hoạt động của 
Ủy ban nhân dân thành phố nhiệm kỳ 2004-2011 
(Báo cáo số 50/BC-UBND của Ủy ban nhân dân 
thành phố ngày 09 tháng 05 nĕm 2011).
[3]. Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh - 
Niên giám thống kê thành phố Hồ Chí Minh 
các nĕm 2000 - 2011. 
[4]. Nghị quyết số 16-NQ/TW ngày 10 tháng 
08 nĕm 2012 của Bộ Chính trị về phương 
hướng, nhiệm vụ phát triển thành phố Hồ Chí 
Minh đến nĕm 2020.
[5]. Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh - 
Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn 
thành phố Hồ Chí Minh các nĕm 2004-2011. 
[6]. Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh 
- Báo cáo “Kết quả thực hiện Chương trình 
hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn 
thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2006-2010” 
- Thành phố Hồ Chí Minh - tháng 09 nĕm 2010.
[7]. Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh 
- Chương trình hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh 
tế, chuyển đổi mô hình tĕng trưởng kinh tế 
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 
2011-2015 - Thành phố Hồ Chí Minh - tháng 
12 nĕm 2010. 
[8]. Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh - 
Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn 
thành phố Hồ Chí Minh nĕm 2012. Kế hoạch 
phát triển kinh tế - xã hội nĕm 2013 - Thành 
phố Hồ Chí Minh - tháng 12 nĕm 2012.
[9]. William, Truy tìm cĕn nguyên tĕng trưởng, 
Nhà Xuất bản Lao động – Xã hội, 2014.
[10]. Thomas, Vinod et al., The quality of 
growth, Oxford University Press, 2000
[11]. Joseph E. Stiglitz, Suy ngẫm lại sự thần 
kỳ Đông Á, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 
2002.
[12]. Stiglitz, J. E, Economics of the Public 
Sector, W.W Norton & Company, New 
[13]. Keynes, J.M, The general theory of 
employment interest and money, NewYork: 
Harcourt, Brace & World, Inc, 1936.

File đính kèm:

  • pdfmot_so_chinh_sach_nham_thuc_day_dau_tu_va_ho_tro_phat_trien.pdf