Một cách tiếp cận độ tin cậy của kết cấu có đại lượng mờ và đại lượng ngẫu nhiên
Tóm tắt: Đánh giá độ tin cậy của kết cấu trong trường hợp các đại lượng đầu vào bao gồm cả các
đại lượng ngẫu nhiên và đại lượng mờ là bài toán thường gặp trong thực tế, nhưng mang nhiều
thách thức, do không thể chứng minh được tính đơn nhất về mặt toán học. Có nhiều cách tiếp cận
để giải bài toán này. Bài báo đề xuất một cách tiếp cận mới, trên cơ sở cải tiến và kết hợp các
nguyên lý thông tin không đầy đủ và nguyên lý đặc trưng lớn nhất về chuyển đổi giữa đại lượng mờ
và đại lượng ngẫu nhiên, để xác định các đại lượng ngẫu nhiên có phân phối chuẩn, tương đương
với số mờ tam giác cân. Từ các đại lượng ngẫu nhiên này, sẽ chuyển sang các bài toán xác định độ
tin cậy theo định nghĩa gốc, và có thể vận dụng các phương pháp xác định độ tin cậy ngẫu nhiên
quen thuộc để tính toán. Đồng thời, đề xuất cách xác định độ tin cậy trung tâm và cận của độ tin
cậy. Các ví dụ minh họa, so sánh với các kết quả tính toán theo các phương pháp hiện có, bước đầu
cho thấy độ chính xác và hiệu quả của phương pháp đề xuất
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một cách tiếp cận độ tin cậy của kết cấu có đại lượng mờ và đại lượng ngẫu nhiên
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 62 (9/2018) 46
BÀI BÁO KHOA H
C
MỘT CÁCH TIẾP CẬN ĐỘ TIN CẬY CỦA KẾT CẤU CÓ
ĐẠI LƯỢNG MỜ VÀ ĐẠI LƯỢNG NGẪU NHIÊN
Nguyễn Hùng Tuấn1, Lê Xuân Huỳnh2
Tóm tắt: Đánh giá độ tin cậy của kết cấu trong trường hợp các đại lượng đầu vào bao gồm cả các
đại lượng ngẫu nhiên và đại lượng mờ là bài toán thường gặp trong thực tế, nhưng mang nhiều
thách thức, do không thể chứng minh được tính đơn nhất về mặt toán học. Có nhiều cách tiếp cận
để giải bài toán này. Bài báo đề xuất một cách tiếp cận mới, trên cơ sở cải tiến và kết hợp các
nguyên lý thông tin không đầy đủ và nguyên lý đặc trưng lớn nhất về chuyển đổi giữa đại lượng mờ
và đại lượng ngẫu nhiên, để xác định các đại lượng ngẫu nhiên có phân phối chuẩn, tương đương
với số mờ tam giác cân. Từ các đại lượng ngẫu nhiên này, sẽ chuyển sang các bài toán xác định độ
tin cậy theo định nghĩa gốc, và có thể vận dụng các phương pháp xác định độ tin cậy ngẫu nhiên
quen thuộc để tính toán. Đồng thời, đề xuất cách xác định độ tin cậy trung tâm và cận của độ tin
cậy. Các ví dụ minh họa, so sánh với các kết quả tính toán theo các phương pháp hiện có, bước đầu
cho thấy độ chính xác và hiệu quả của phương pháp đề xuất.
Từ khóa: lý thuyết mờ, độ tin cậy mờ, hàm thuộc, nguyên lý thông tin không đầy đủ, nguyên lý đặc
trưng lớn nhất
1. ĐẶT VẦN ĐỀ*
Trong kết cấu xây dựng, phần lớn các đại
lượng đầu vào: tải trọng tác động, tính chất vật
liệu, tính chất của liên kết trong và ngoài... đều
chứa các yếu tố không chắc chắn (uncertainty),
được gọi là các đại lượng bất định. Theo
(Kiureghian, et al 2009), các đại lượng bất định
được chia thành hai loại: bất định ngẫu nhiên
(aleatory uncertainty), bất định nhận thức
(epistemic uncertainty).
Khi các đại lượng đầu vào không chắc chắn
đủ điều kiện mô tả là các đại luợng ngẫu nhiên,
trạng thái M kết cấu là đại lượng ngẫu nhiên,
được xác định theo công thức
M = R - S (1)
trong đó, R - sức kháng kết cấu, S - hiệu ứng
tải trọng.
Độ tin cậy của kết cấu được xác định theo
xác suất, bởi công thức (Nowak, et al 2000)
Ps = Prob(M > 0) (2)
Do được xây dựng trên cơ sở lý thuyết xác
suất - thống kê, là lý thuyết tương đối hoàn chỉnh
1
Bộ môn Sức bền - Kết cấu, Trường Đại học Thủy lợi
2
Bộ môn Cơ học kết cấu, Trường Đại học Xây dựng
về toán học, nên đánh giá kết cấu theo chỉ số độ
tin cậy đã được quy định trong các tiêu chuẩn
xây dựng của các nước tiên tiến trên thế giới.
Khi các đại lượng đầu vào không chắc chắn
thuộc loại hình bất định nhận thức, tùy thuộc
vào việc mô tả các đại lượng bất định này mà
hình thành các cách tiếp cận khác nhau để đánh
giá mức độ an toàn (độ tin cậy mờ), điển hình
sử dụng lý thuyết mờ (Dong, et al 1989),
(Szeliga, et al 2004), (Park, et al 2004), lý
thuyết ngẫu nhiên - mờ (Liu, et al 1997),
(Möller, et al 2004).
Trên thực tế, các đại lượng đầu vào trong bài
toán đánh giá kết cấu thường không chỉ thuộc
một loại hình bất định, mà là sự kết hợp giữa hai
loại hình bất định ngẫu nhiên và bất định nhận
thức. Khi đó, các tính toán được thực hiện trên
hai loại bất định có sự khác biệt về bản chất, dẫn
đến sự khác biệt về độ đo giữa hai loại đại lượng.
Đây thực sự là một vấn đề thách thức, và về mặt
toán học, không thể chứng minh được tính đơn
nhất và nghiệm chính xác trong trường hợp này
(Oberkampf, et al 2004). Sau đây, sẽ phân tích
một số cách tiếp cận để giải bài toán này.
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 62 (9/2018) 47
Trong (Li, et al 2000), các tác giả đã xây
dựng công thức tính độ tin cậy mờ trong trường
hợp ứng suất S là số mờ, cường độ R là hàm
mật độ phân phối xác suất. Các tác giả (Li, et al
2000) quan niệm độ tin cậy mờ trong mô hình
giao thoa mờ - ngẫu nhiên là một số thực, và sử
dụng khái niệm xác suất mờ của Zadeh để tính
độ tin cậy mờ. Nhược điểm của cách tiếp cận
này là hai hàm dưới dấu tích phân của (Li, et al
2000) không cùng độ đo, diện tích đường cong
fR(x) với trục hoành bằng đơn vị còn µS(x) thì
khác. Khác với (Li, et al 2000), với quan niệm
các lát cắt α của số mờ là các hàm mật độ phân
phối xác suất, các tác giả trong (Jiang, et al
2003), (Cui, et al 2011) đã tính độ tin cậy theo
định nghĩa gốc trên từng lát cắt α, và độ tin cậy
thu được là giá trị trung bình trên các lát cắt α.
Xuất phát từ nhận xét các giả thiết khác nhau về
hàm mật độ phân phối xác suất trên các biến
khoảng sẽ đưa đến các kết quả khác nhau về độ
tin cậy, trong (Du, et al 2005) các tác giả đã xác
định độ tin cậy với các đại lượng đầu vào là tổ
hợp các biến ngẫu nhiên và biến khoảng, tại các
tổ hợp bất lợi nhất của các biến khoảng, thông
qua việc giải bài toán tối ưu độ tin cậy. Các tác
giả trong (Balu, et al 2014) đã mở rộng quan
niệm này đối với các đại lượng đầu vào là tổ
hợp các biến ngẫu nhiên và biến mờ, và đánh
giá các giá trị max/min độ từ chối trên lát cắt α
thông qua việc giải các bài toán tối ưu. Khác với
(Balu, et al 2014), trong (Cui, et al 2015) các tác
giả đề xuất 3 chỉ số độ tin cậy, và để xác định
các chỉ số độ tin cậy này, tại mỗi mức thuộc α,
các biến khoảng được xem là phân bố đều và
giải bài toán tối ưu độ tin cậy trên các lát cắt α
(chi tiết xem (Cui, et al 2015)).
Qua việc phân tích nêu trên, có thể nhận thấy
việc sử dụng lý thuyết độ tin cậy ngẫu nhiên làm
nền tảng cho việc đánh giá độ tin cậy mờ, trong
trường hợp các đại lượng bất định đầu vào bao
gồm cả đại lượng mờ và đại lượng ngẫu nhiên,
là cách tiếp cận đúng đắn, do các phương pháp
xác suất vẫn giữ được tính trội của nó trong
trường các đại lượng đo (Dubbois, et al 2004)
và thuận tiện ứng dụng trong bài toán ra quyết
định (Smets, 1990). Tuy nhiên, việc xác định độ
tin cậy tại các lát cắt α thông qua việc giải bài
toán tối ưu, hoặc giả thiết hàm mật độ phân bố
xác suất tương đương của số khoảng sẽ làm tăng
khối lượng tính toán các bài toán độ tin cậy. Để
khắc phục vấn đề này, bài báo đề xuất một cách
tiếp cận để chuyển đổi số mờ tam giác cân
thành ba đại lượng ngẫu nhiên tương đương có
phân phối chuẩn dựa trên việc cải tiến, nhằm
khắc phục tính không bảo toàn của các nguyên
lý chuyển đổi giữa đại lượng mờ và đại lượng
ngẫu nhiên (Dubbois, et al 2006). Các đại lượng
ngẫu nhiên tương đương được thiết lập trên cơ
sở giải các bài toán tối ưu, sao cho tổng các sai
lệch về độ đo khi chuyển đổi từ đại lượng mờ
sang đại lượng ngẫu nhiên và từ đại lượng ngẫu
nhiên về đại lượng mờ là nhỏ nhất. Tiếp đó, sẽ
chuyển bài toán độ tin cậy mờ về các bài toán độ
tin cậy ngẫu nhiên và đưa ra hai định nghĩa để
đánh giá về độ tin cậy: (i) độ tin cậy trung tâm,
tương ứng với giá trị "tin tưởng" của độ tin cậy;
và (ii) cận của độ tin cậy, thể hiện ước lượng
khoảng của độ tin cậy [Psmin, Psmax]. Hiệu quả của
cách tiếp cận này là giảm số lượng tính toán các
bài toán độ tin cậy ngẫu nhiên, đồng thời vẫn đáp
ứng được độ chính xác cần thiết theo yêu cầu
thực tế. Các ví dụ minh họa, so sánh với kết quả
đã có theo các phương pháp khác, cho thấy hiệu
quả của phương pháp đề xuất.
2. CÁC NGUYÊN LÝ CHUYỂN ĐỔI VÀ
NỘI DUNG CẢI TIẾN
2.1. Các nguyên lý chuyển đổi và ý tưởng
cải tiến
Như đã nêu trên, đại lượng ngẫu nhiên (hàm
mật độ phân bố xác suất) và số mờ (hàm phân
bố khả năng) là hai biểu diễn khác nhau về sự
bất định. Việc chuyển đổi từ đại lượng mờ sang
đại lượng ngẫu nhiên và ngược lại có thể hữu
ích khi bất định không đồng nhất và dữ liệu
không chính xác cùng được xét đến (Dubbois, et
al 1993). Các nguyên lý chuyển đổi đã được đề
xuất bởi (Dubbois, et al 2006) và (Klir, 2006).
Trong (Dubbois, et al 2006), đã kiến nghị
chuyển đổi từ đại lượng mờ sang đại lượng ngẫu
nhiên theo nguyên lý thông tin không đầy đủ IR
(insufficient reason), và chuyển đổi từ đại lượng
ngẫu nhiên sang đại lượng mờ theo nguyên lý
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 62 (9/2018) 48
đặc trưng lớn nhất MS (maximum specifity).
Nguyên lý IR tìm đại lượng ngẫu nhiên sao cho
đảm bảo tính bất định trong sự lựa chọn các kết
quả đầu ra. Nguyên lý MS tìm đại lượng mờ có
phân phối khả năng mang nhiều thông tin nhất,
nói cách khác có khoảng hẹp nhất trên các lát
cắt α. Khác với (Dubbois, et al 2006), trong
(Klir, 2006) đã đề xuất nguyên lý bất định bất
biến UI (uncertainty invariance) để chuyển đổi
từ đại lượng mờ sang đại lượng ngẫu nhiên và
ngược lại, từ đại lượng ngẫu nhiên sang đại
lượng mờ. Ưu điểm của phương pháp này là có
được tính bảo toàn về thông tin của đại lượng
mờ và đại lượng ngẫu nhiên tương đương. Tuy
nhiên, như đã trình bày tại (Dubbois, et al
1980), khi sử dụng nguyên lý UI, trong một số
trường hợp, kết quả thu được mâu thuẫn với giả
thiết toán học về sự đồng nhất độ đo khả
năng/xác suất. Ngoài ra, khi chuyển đổi từ đại
lượng mờ sang đại lượng ngẫu nhiên, theo
nguyên lý này cần sử dụng một số giả thiết
trong khi đó chuyển đổi từ đại lượng mờ sang
đại lượng ngẫu nhiên theo (Dubbois, et al 2006),
không cần sử dụng bất kỳ giả thiết nào. Mặc dù
vậy, đối với đại lượng mờ ban đầu, khi thực
hiện chuyển đổi sang đại lượng ngẫu nhiên theo
nguyên lý IR, và từ đại lượng ngẫu nhiên này,
chuyển đổi ngược sang đại lượng mờ theo
nguyên lý MS, kết quả thu được đại lượng mờ
khác đại lượng mờ gốc ban đầu. Do đó, khi thực
hiện chuyển đổi theo hai nguyên lý này, xuất
hiện tính không bảo toàn về thông tin, dẫn đến
kết quả tính độ tin cậy khó định chuẩn để ra
quyết định.
2.2. Nội dung cải tiến
Từ các nhận xét trên, bài báo đề xuất một cải
tiến để xác định đại lượng ngẫu nhiên có phân
phối chuẩn, tương đương với đại lượng mờ, sao
cho tổng các sai lệch (sai lệch về độ đo xác suất
của đại lượng ngẫu nhiên có phân phối chuẩn
với đại lượng ngẫu nhiên được chuyển đổi theo
nguyên lý IR, sai lệch về độ đo mờ với đại
lượng mờ gốc ban đầu, khi thực hiện chuyển đổi
từ đại lượng ngẫu nhiên có phân phối chuẩn
sang đại lượng mờ theo nguyên lý MS), là nhỏ
nhất. Việc cải tiến được thực hiện cho số mờ
tam giác cân, là dạng số mờ thường được sử
dụng để mô tả các đại lượng đầu vào trong bài
toán phân tích độ tin cậy mờ. Việc sử dụng hàm
mật độ phân phối xác suất chuẩn là một sự tự
nhiên, do tính chất thông dụng của nó trong tính
toán độ tin cậy ngẫu nhiên. Sau đây, sẽ thiết lập
công thức xác định các hàm mật độ phân phối
xác suất chuẩn này.
Hình 1. Phép đổi biến đưa về biến mờ chuẩn
a. Biến mờ gốc b. Biến mờ chuẩn
Xét số mờ tam giác cân ( )LRi laX ,~ = (Hình 1),
trong đó a - giá trị tin tưởng (tại mức thuộc α=
1) của số mờ, l - độ rộng số mờ, thực hiện phép
đổi biến (Nguyễn Hùng Tuấn, et al 2015), đưa
về biến mờ chuẩn ( )LRix 1 ,0~ =
l
aX
x ii
−
=
~
~
(3)
Từ số mờ chuẩn ( )LRix 1 ,0~ = , sử dụng nguyên
lý IR, thu được hàm mật độ phân phối xác suất
[ )
( ]
∈−
∈−−
=
1,0; )ln(
2
1
1,0-x; )ln(
2
1
)(
xx
x
xp (4)
Xét hàm mật độ phân phối xác suất chuẩn
p1(x) có kỳ vọng µ= 0 (lấy bằng giá trị tin tưởng
của số mờ chuẩn hóa), phương sai σ2
−
=
22
2
1 2
1)( σ
σpi
x
exp (5)
Xét sự kiện {A} : -1≤ xo ≤ x. Do tính đối
xứng của hai hàm mật độ phân phối xác suất
p(x) và p1(x) nên chỉ cần xét trường hợp x ≤ 0.
Xác suất của sự kiện A đối với hàm mật độ
phân phối xác suất p(x) và p1(x), lần lượt là
[ ]1)(
2
1)ln(
2
1)(
1
+−−=−∫ −=
−
xxlinxdxxAP
x
(6)
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 62 (9/2018) 49
dxeAP
x
x
∫=
−
−
1
22
2
1 2
1)( σ
σpi
(7)
Để hai hàm mật độ phân phối xác suất là
tương đương, cần có
min)()( 1 →− APAP ,
hay ( ) min)()( 21 →− APAP , ∀x∈[-1,0) (8)
Từ (6) ta được
( ) ( ) min)()( 20
1
11 →∫ −=
−
dxAPAPF σ (9)
với P(A), P1(A) xác định theo (4), (5).
Với lưu ý hàm mật độ phân phối xác suất
p(x) xác định trong [-1,1], trong khi hàm mật độ
phân phối xác suất p1(x) xác định trong (-∞,+∞),
nên để xác suất trong (-∞,1) của hàm mật độ
phân phối xác suất p1(x) là không còn đáng
kể, cần có
( )[ ] min
2
11,:*)(
1 22
2
12 →∫=−∞−∈=
−
∞−
−
dxexAPF
x
o
σ
σpi
σ
(10)
Kết hợp (9) và (10) ta được
( ) min
2
1)()()()()(
1 22
2
20
1
121 →∫+∫ −=+=
−
∞−
−
−
dxedxAPAPFFF
x
σ
σpi
σσσ
(11)
Công thức (11) cho ta cách xác định độ lệch
σ của hàm mật độ phân phối chuẩn p1(x), tương
đương với hàm mật độ phân phối xác suất p(x)
được xác định theo nguyên lý IR.
Từ hàm mật độ phân phối xác suất chuẩn
p1(x), chuyển về hàm phân bố khả năng (hàm
thuộc) tương đương, theo nguyên lý MS
dyypdyypxx
x
x
)()()()(
6
1
6
111 ∫+∫=−=
−−
σ
σ
pipi
(12)
Do hàm mật độ phân phối xác suất chuẩn
p1(x) đối xứng nên f(x) = y = -x, và sử dụng quy
tắc 3σ nên thay cận -∞ và +∞ bằng -6σ và 6σ để
đảm bảo độ chính xác .
Hàm thuộc của số mờ chuẩn có dạng
[ ]
[ ]
∈−
−∈+
=
1,0; 1
0,1; 1)(
xx
xx
xpi
(13)
Khác với lý thuyết xác suất - thống kê toán
học, trong lý thuyết mờ các độ đo mờ (độ đo
khả năng, độ đo cần thiết ...) đều được xác định
thông qua hàm thuộc (phân phối khả năng) theo
luật max/min. Do đó, với lý luận tương tự ở trên
ta thu được
( ) min )(1)()( 1 210
1
2
1 →∫+∫ −−=
−
∞−−
dxxdxxxG pipiσ
(14)
Để giải bài toán tối ưu đa mục tiêu (11) và
(14), đưa về bài toán tối ưu một mục tiêu sử
dụng trọng số
H(σ) = γ.F(σ) + (1-γ).G(σ) → min, trong đó
γ ∈[0,1]. (15)
Về ý nghĩa toán học, công thức (15) là sự mở
rộng có điều chỉnh tính chất tương đương,
chuyển đổi hai chiều, theo hai nguyên lý: nguyên
lý IR, khi chuyển từ đại lượng mờ sang đại lượng
ngẫu nhiên, và nguyên lý MS, khi chuyển từ đại
lượng ngẫu nhiên sang đại lượng mờ.
Để giải (15), sử dụng thuật giải di truyền
GAs trong Matlab R2016. Sau đây, ta xét 3 giá
trị của γ:
- Khi γ = 0.5 nhận được σ = 0.476 (16.a)
- Khi γ = 1.0 nhận được σ = 0.288 (16.b)
- Khi γ = 0.0 nhận được σ = 0.640. (16.c)
Giá trị σ = 0.476 ( với γ = 0.5) được sử dụng
để xác định độ tin cậy trung tâm, với ý nghĩa xét
đến mức độ quan trọng như nhau, cân bằng giữa
hai hàm mục tiêu F(σ) và G(σ). Các giá trị σ =
0.288 (với γ = 1) và σ = 0.640 (với γ = 0) là thể
hiện vai trò độc lập của mỗi mục tiêu. Các giá trị
này sẽ được sử dụng để tính cận của độ tin cậy,
là ước lượng các giá trị max/min của độ tin cậy.
2.3. Cách xác định độ tin cậy trung tâm và
cận của tin cậy
Xét hàm trạng thái chứa cả đại lượng ngẫu
nhiên và đại lượng mờ
g(x)= g(xF, xR) =
= ),...,,,~,...,~,~( 2121 mnnnn xxxxxxg +++
(17)
trong đó xF = ( )nxxx ~,...,~,~ 21 là các đại lượng
mờ độc lập, có dạng số mờ tam giác cân
( )LRiii lax ,~ = ; xR = (xn+1, xn+2,.....,xn+m) là các
đại lượng bất định ngẫu nhiên độc lập.
Để đưa về cách xác định độ tin cậy theo định
nghĩa gốc, thực hiện chuyển đổi đại lượng mờ
( )LRi ... ó
kỳ vọng µi và độ lệch σi được xác định theo các
công thức (18.b), (18.c).
3. CÁC VÍ DỤ MINH HỌA
3.1.Ví dụ 1
Xét hàm trạng thái với 3 biến được đề cập
trong ví dụ 1 của (Balu, et al 2014)
g(x)= ( ) ( )313322221 sin2.0132.00.8 xxxxxx −+−−−
(20)
trong đó x1, x2 là các đại lượng ngẫu nhiên
độc lập có phân phối chuẩn tiêu chuẩn, x3 là số
mờ tam giác cân (0,1)LR.
Thực hiện tính toán theo phương pháp đề
xuất, sử dụng chỉ số độ tin cậy Hasofer-Lind
(Nowak, et al 2000). Kết quả tính toán theo
phương pháp đề xuất và so sánh với kết quả
(Balu, et al 2014) được thể hiện ở Bảng 1.
Bảng 1. Kết quả tính toán độ tin cậy theo phương pháp đề xuất
và theo ví dụ 1 của (Balu, et al 2014)
Giá trị γ
Chỉ số độ tin cậy
Hasofer - Lind b
của phương pháp
đề xuất
PS của
phương pháp
đề xuất
Chỉ số độ tin
cậy b theo (Balu,
et al 2014)
Ps theo
(Balu, et al
2014)
Độ lệch %
của Ps
0 2.300351 0.989286 2.155 0.984419 0.49438
0.5 2.300482 0.989290 2.28 0.988696 0.060016
1 2.3006 0.989293 2.42 0.992240 0.296991
3.2.Ví dụ 2
Xét ví dụ 2 (Balu, et al 2014), dầm consơn
chịu lực tập trung như Hình 2. Chiều dài dầm L,
bề rộng tiết diện b, chiều cao tiết diện h là các
đại lượng ngẫu nhiên có các giá trị trung bình
lần lượt là 30 in.(76.2 cm), 0.8359in.(2.123186
cm) và 2.5093 in.(6.373622 cm), mô đun đàn
hồi E là đại lượng tất định có giá trị 107 psi
(68947.5728 MPa). Chiều dài dầm L và chiều
cao tiết diện h có phân phối loga chuẩn, chiều
rộng b có phân phối chuẩn với độ lệch lần lượt
là σL =3.0 in.(7.62 cm), σh = 0.25 in.(0.635 cm),
σb
= 0.08 in.(0.2032 cm). Lực tập trung P là số
mờ tam giác cân (80, 20)LR lb ((0.35598,
0.088995)LR kN). Chuyển vị cho phép là 0.15 in
(0.381 cm).
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 62 (9/2018) 51
Hình 2. Dầm consơn chịu lực tập trung
Hàm trạng thái về chuyển vị được xác định
theo mô hình dầm Euler - Becnuli
g(x) = 3
3415.0
Ebh
PL
− (21)
Thực hiện theo phương pháp đề xuất, tính
toán chỉ số độ tin cậy bậc 2 SORMβ theo công
thức kinh nghiệm do Zhao và Ono đề xuất (Zao,
et al 1999). Các kết quả tính toán được so sánh
với các kết quả tương ứng trong (Balu, et al
2014), thể hiện ở Bảng 2.
Bảng 2. Kết quả tính toán độ tin cậy theo phương pháp đề xuất
và theo ví dụ 2 của (Balu, et al 2014)
Giá
trị γ
Chỉ số độ tin cậy bậc
2 SORMβ của phương
pháp đề xuất
PS của
phương pháp
đề xuất
Chỉ số độ tin cậy
b theo (Balu, et
al 2014)
Ps theo
(Balu, et al
2014)
Độ lệch %
của Ps
0 1.8166 0.965361 1.38 0.916207 5.364961
0.5 1.8528 0.968044 1.89 0.970621 0.265452
1 1.8843 0.970238 2.57 0.994915 2.480340
Nhận xét : Từ kết quả tính toán theo phương
pháp đề xuất tại ví dụ 1 và ví dụ 2, so sánh với
kết quả tại (Balu, et al 2014) cho thấy các sai
lệch giữa độ tin cậy Ps là tương đối bé, sai lệch
lớn nhất là 5.36% tại ví dụ 2. Sai lệch này xuất
phát từ hai nguyên nhân: i) quan điểm về xác
định độ tin cậy của kết cấu bao gồm cả đại
lượng mờ và đại lượng ngẫu nhiên của phương
pháp đề xuất và (Balu, et al 2014), ii) độ chính
xác của các phương pháp xác định độ tin cậy
truyền thống. Quan điểm của phương pháp đề
xuất là biểu diễn đại lượng mờ bằng họ các đại
lượng ngẫu nhiên có phân phối chuẩn. Khác với
quan điểm này, trong (Balu, et al 2014) tìm các
tổ hợp bất lợi nhất của các biến khoảng, để xác
định các giá trị Psmin và Psmax. Do vậy bề rộng
khoảng tin cậy thu được theo (Balu, et al 2014)
bao giờ cũng lớn hơn cận của độ tin cậy theo
phương pháp đề xuất. Vì vậy, theo nguyên lý
MS, kết quả theo phương pháp đề xuất mang
nhiều thông tin hơn kết quả (Balu, et al 2014).
Nguyên nhân thứ 2 tạo nên sai lệch là do việc sử
dụng phép chuyển đổi Rosenblatt tại ví dụ 2 làm
tăng tính phi tuyến của hàm trạng thái trong
không gian chuẩn tiêu chuẩn, dẫn đến độ tin cậy
bậc 2 SORM sẽ có sai lệch so với sử dụng mô
phỏng Monte Carlo trong (Balu, et al 2014).
Thật vậy, nếu với phương pháp đề xuất, ta sử
dụng mô phỏng Monte Carlo để tính độ tin cậy,
thì khi lấy số lượng mẫu Ns = 30000, độ tin cậy
Psmin = 0.9590, sai lệch giữa hai phương pháp
chỉ còn 4.67% (giảm 0.69%). Trong (Balu, et al
2014), do phải tính toán theo mô hình xấp xỉ bậc
cao của hàm trạng thái tại các điểm xác suất lớn
nhất MPP (Most Probable Point) trên các lát cắt
α của các biến mờ,và phải sử dụng nhiều phép
chuyển đổi : chuyển đổi từ biến mờ gốc thành
biến can thiệp (intervening variables), chuyển
đổi Fourier (xuôi và ngược) để tính tích phân
chập xác định độ tin cậy, nên khối lượng và thời
gian tính toán sẽ lớn hơn so với phương pháp đề
xuất. Cụ thể, trong ví dụ 2, để tính một giá trị độ
tin cậy tại biến trên (hoặc biên dưới) của mỗi lát
cắt α, (Balu, et al 2014) tính toán 19 hàm xấp
xỉ đối với các biến ngẫu nhiên trong không gian
chuẩn tiêu chuẩn.
3.3.Ví dụ 3
Xét hàm trạng thái với 4 biến được đề cập
trong ví dụ 1 của (Cui, et al 2015)
g(x) = 200108725 424323222121 −−+−++++ xxxxxxxx (22)
trong đó x1, x2 là các đại lượng ngẫu nhiên có
phân phối chuẩn với giá trị trung bình µ = 10.0
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 62 (9/2018) 52
và độ lệch σ = 2.0. Các đại lượng x3 và x4 là các
số mờ tam giác cân (10,5)LR.
Thực hiện tính toán, sử dụng chỉ số độ tin cậy
Hasofer-Lind (Nowak, et al 2000). Kết quả tính
toán độ tin cậy trung tâm Psc, cận của độ tin cậy
[Psmin, Psmax] lần lượt được so sánh với kết quả tính
toán trị số độ tin cậy số )(IIIrP , chỉ số khoảng tin
cậy )(IrP (Cui, et al 2015) theo phương pháp
Monte Carlo, được thể hiện ở Bảng 3.
Bảng 3. Kết quả tính toán độ tin cậy theo phương pháp đề xuất
và theo ví dụ 1 của (Cui, et al 2015)
Giá trị γ
Chỉ số độ tin cậy
Hasofer - Lind b của
phương pháp đề xuất
PS của phương
pháp đề xuất
Ps theo phương pháp
Monte Carlo
(Cui, et al 2015)
Độ lệch %
của Ps
0 2.645614471 0.995923 0.999364 0.34433
0.5 2.520677325 0.994144 0.996130 0.19942
1 2.421615044 0.992274 0.985445 0.69300
3.4.Ví dụ 4
Xét ví dụ 2 của (Cui, et al 2015), hệ dàn mái
như Hình 3. Tải trọng phân bố đều q (đơn vị
N/m) tác dụng trên cánh thượng dàn là số mờ
tam giác cân q~ = (20000, 1000)LR . Diện tích
tiết diện Ac, As; mô đun đàn hồi Ec, Es; chiều dài
nhịp dàn l là các đại lượng ngẫu nhiên độc lập,
có phân phối chuẩn được cho trong Bảng 4.
Độ võng tại đỉnh dàn ∆c theo quy định
không được vượt quá 3 cm. Bằng các phương
pháp của Cơ học kết cấu, xác định chuyển vị
∆c theo công thức
+=∆
sscc
C EAEA
ql 13.181.3
2
2
(23)
Hàm trạng thái về độ võng là
g(x) =
+−−
sscc EAEA
ql
x
13.181.3
2
103
2
2
(24)
Bảng 4. Các đặc trưng của đại lượng ngẫu nhiên của dàn mái
Đại lượng ngẫu nhiên l (m) As (m2) Ac (m2) Es (N/m2) Ec (N/m2)
Giá trị trung bình µ 12 9.82x10-4 0.04 1x1011 2x1010
Biến sai νx 0.01 0.06 0.12 0.06 0.06
Hình 3. Hệ dàn mái trong ví dụ 2 của (Cui, et al 2015) và sơ đồ tính
Thực hiện tính toán theo phương pháp đề
xuất, tính toán chỉ số độ tin cậy bậc 2
SORMβ theo công thức kinh nghiệm do Zhao và
Ono đề xuất (Zao, et al 1999). Kết quả tính
toán độ tin cậy trung tâm Psc, cận của độ tin
cậy [Psmin, Psmax] lần lượt được so sánh với
kết quả tính toán trị số độ tin cậy số )( III
r
P ,
chỉ số khoảng tin cậy )( I
r
P (Cui, et al 2015)
theo phương pháp Monte Carlo được thể hiện
ở Bảng 5.
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 62 (9/2018) 53
Bảng 5. Kết quả tính toán độ tin cậy theo phương pháp đề xuất
và theo ví dụ 2 của (Cui, et al 2015)
Giá trị γ
Chỉ số độ tin cậy bậc 2
SORMβ của phương pháp
đề xuất
PS của phương
pháp đề xuất
Ps theo phương pháp
Monte Carlo
(Cui, et al 2015)
Độ lệch %
của Ps
0 5.7754 0.9999999962 0.996573 0.34388
0.5 6.0937 0.9999999994 0.998780 0.12215
1 6.3723 0.9999999999 0.999618 0.03821
Nhận xét : Từ kết quả tính toán theo phương
pháp đề xuất tại ví dụ 3 và ví dụ 4, so sánh với kết
quả tại (Cui, et al 2015) cho thấy các sai lệch là
tương đối bé, sai lệch lớn nhất là 0.7%. Mặc dù khác
về cách tiếp cận và quan điểm xác định độ tin cậy,
nhưng các kết quả cho thấy các chỉ số độ tin cậy
trung tâm Psc và cận của độ tin cậy [Psmin, Psmax]
mang ý nghĩa tương đồng với chỉ số độ tin cậy số
)( III
s
P và chỉ số độ tin cậy khoảng )( I
s
P trong (Cui,
et al 2015). Tuy nhiên, phương pháp đề xuất tính
toán đơn giản hơn, giảm khối lượng tính toán so với
(Cui, et al 2015): 3 bài toán để xác định độ tin cậy
trung tâm và cận của độ tin cậy theo phương pháp
đề xuất so với 192 bài toán xác định mỗi độ tin cậy
theo phương pháp PDEM (Cui, et al 2015), mà vẫn
đạt mức độ chính xác yêu cầu. Nếu tính toán theo
phương pháp Monte Carlo với số lượng mẫu Ns =
30000, trong ví dụ 4, độ tin cậy trung tâm Psc =
0.99793, sai lệch giữa độ tin cậy trung tâm của
phương pháp đề xuất và phương pháp (Cui, et al
2015) giảm xuống còn 0.0848%.
4. KẾT LUẬN
+ Bài báo đã xây dựng công thức xác định
phương sai, đặc trưng cơ bản của đại lượng
ngẫu nhiên có phân phối chuẩn, tương đương
với số mờ tam giác cân, trên cơ sở kết hợp và
cải tiến nguyên lý thông tin không đầy đủ và
nguyên lý đặc trưng lớn nhất. Từ các đại lượng
ngẫu nhiên này, đã nêu một cách tiếp cận để
chuyển đổi từ bài toán xác định độ tin cậy của
hệ có các đại lượng bất định đầu vào gồm có đại
lượng mờ và đại lượng ngẫu nhiên, về các bài
toán độ tin cậy theo định nghĩa gốc.
+ Độ tin cậy trung tâm được đề xuất trong
bài báo hoàn toàn có thể so sánh được với độ tin
cậy quy định trong các tiêu chuẩn. Đồng thời,
cận của độ tin cậy đề xuất có thể được sử dụng
để ước lượng khoảng giá trị của độ tin cậy.
+ Các kết quả tính toán theo phương pháp đề
xuất, được so sánh với kết quả theo các phương
pháp hiện có, bước đầu cho thấy độ chính xác
và hiệu quả của phương pháp đề xuất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Hùng Tuấn, Lê Xuân Huỳnh, Phạm Hoàng Anh (2015), "A fuzzy finite element algorithm based
on response surface method for free vibration analysis of structure", Vietnam Journal of mechanics,
VAST, Vol.37, No.1, pp. 17-27.
Balu A. S., Rao B.N. (2014), "Efficient assessment of structural reliability in presence of random
and fuzzy uncertainties", Journal of Mechanical Design 136(5), pp. 1-11.
Cui L., Lu Z., Wang P. (2011), "Reliability sensitivity analysis with mixture of random and fuzzy
variables", 2011 International Conference on Quality, Reliability, Risk, Maintenance, and Safety
Engineering, pp.833-838.
Cui L., Lu Z., Li G. (2015), "Reliability analysis in presence of random variables and fuzzy
variables", Journal of Applied Mathematics, pp.1-8.
Dong W., Shan H. (1987), "Vertex method for computing functions of fuzzy variables", Fuzzy Sets
and Systems 24, pp.65 - 78.
Dong W., Chiang W.L., Shan H.C. and Wong F.S., Assessment of existing building using fuzzy set
theory, Icosar’89, The 5th International Conference on Structural Safety and Reliability.
Du X., Sudjuanto A., Huang B. (2005), "Reliability-based design with the mixture of random and
interval variables", Journal of Mechanical Design 127(6), pp. 1068-1076.
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 62 (9/2018) 54
Dubois D., Prade H. (1980), Fuzzy Sets and Systems, Academic Press, NewYork.
Dubois D., Prade H., Sandri S., On Possibility/Probability Transformations, Proceedings of Fourth
IFSA Conference 1993.
Dubois D., Foulloy L., Mauris G. and Prade H.(2004),"Probability - Possibility Transformations,
Triangular Fuzzy Sets, and Probabilistic Inequalities",, Reliable Computing 10, pp.273-297,
Kluwer Academic Publishers, Printed Netherlands.
Dubois D.(2006), "Possibility Theory and Staticstical Reasoning", Computational Statistics & Data
Analysis 51, pp. 47 - 59.
Jiang Q., Chen C.H. (2003), "A numerical algorithm of fuzzy reliability", Reliability Engineering
and System Safety 80, pp. 299 - 307.
Kiureghian A.D., Ditlevsen O.(2009), "Aleatory or epistemic? Does it matter?", Structural Safety.
Klir G.J. (2006), Uncertainty and Information, Published John Wiley & Sons.
Li B., Zhu M., Xu K. (2000), "A practical engineering method for fuzzy reliability analysis of
mechanical structures", Reliability Engineering and System Safety 67, pp. 311 - 315.
Liu Y., Qiao Z., Wang G.(1997), "Fuzzy random reliability based on fuzzy random variable", Fuzzy
Sets and Systems 86, pp. 345 – 355.
Möller B., Beer M.(2004), Fuzzy Randomness - Uncertainty in Civil Engineering and
Computational Mechanics, Springer, Dresden.
Nowak A., Collins K.R.(2000), Reliability of Structures, MC.Ctraw Hill.
Oberkampf W.L., Helton J.C., Joslyn C.A., Wojkiewicz S.F., Ferson S. (2004), "Challenge
Problems: Uncertainty in system response given uncertainty parameters", Reliability
Engineering and System Safety 85, pp. 11 - 19.
Park H.J., Um J.G., Woo I., Kim J.W. (2012), "Application of fuzzy set theory to evaluate the
probability of failure in rock slopes", Engineering Geology 125, pp. 92 - 101.
Smets P. (1990), Constructing the pignistic probability function in a context of uncertainty, In:
Uncertainty in Artificial Intelligence 5 (M.Henrion, R.D.Shachter, L.N.Kanal, J.F.Lemmer,
eds.), North-Holland, pp. 29-39.
Szeliga E., Structural reliability – fuzzy sets theory approach, Journal of theoretical and applied
mechanics 42, 3, pp. 651 – 666, Warsaw 2004.
Zao Y.G., Ono T. (January 1999), "New Approximations for SORM: Part 1", Journal of Engineering
Mechanics 85.
Abstract:
AN APPROACH TO ASSESS STRUCTURAL RELIABILITY IN PRESENCE
OF RANDOM AND FUZZY VARIABLES
Assessment of structural reliability in case of the mixture of random and fuzzy input variables
always exists in engineering problems, but has a lot of challenge, because there is no unique
solution in mathematics. A lot of approaches had been proposed to solve this problem. This article
proposes a new appoach, based on innovating and combining the insufficient reason and the
maximum specifity principles for transformations between random and fuzzy variables, to
determine the normal random variables, that are equivalent to the symmetric triangular fuzzy
number. From these random variables, the original problem is converted to the basis structural
reliability problems, and can apply the familiar methods of the traditional reliablility theory to
calculate. Meanwhile, this article proposes the way to determine the central reliability and the
marginal reliability. Numerical results are compared with the results of the existing method, to
demonstrate the acuracy and effectiveness of the proposed method.
Keywords : fuzzy sets theory, fuzzy reliability, membership function, insufficient reason principle,
maximum specifity principle.
Ngày nhận bài: 06/8/2018
Ngày chấp nhận đăng: 30/8/2018
File đính kèm:
mot_cach_tiep_can_do_tin_cay_cua_ket_cau_co_dai_luong_mo_va.pdf

