Mối quan tâm và đánh giá của người tiêu dùng về chất lượng thực phẩm và an toàn thực phẩm ở khu vực thành thị Việt Nam

Giới thiệu

Hệ thống lương thực của Việt Nam đã và đang có những sự thay đổi nhanh

chóng trong những năm gần đây, với sự xuất hiện và mở rộng của hệ

thống bán lẻ thực phẩm hiện đại và sự thay đổi trong sở thích của người

tiêu dùng đối với các loại thực phẩm có giá trị cao hơn (Mergenthaler,

Weinberger & Qaim 2009). Vấn đề chất lượng và an toàn thực phẩm ngày

càng trở nên quan trọng đối với người tiêu dùng, và do đó tạo ra sự cần

thiết cho các tác nhân trong chuỗi cung ứng thay đổi để thích ứng với

điều kiện thị trường (Cadilhon và cộng sự 2006; Wertheim-Heck, Vellema

& Spaargaren 2015). Việc hiểu được sự đánh giá của người tiêu dùng với

yếu tố chất lượng và an toàn thực phẩm cũng như lý do họ có thể đánh giá

những yếu tố này là hết sức cần thiết nhằm thông tin cho nông hộ nhỏ và

các bên liên quan khác về các yêu cầu của thị trường cũng như tiềm năng

cơ hội thị trường để cung cấp các sản phẩm đáp ứng được các nhu cầu đa

dạng của người tiêu dùng.

pdf 4 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "Mối quan tâm và đánh giá của người tiêu dùng về chất lượng thực phẩm và an toàn thực phẩm ở khu vực thành thị Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối quan tâm và đánh giá của người tiêu dùng về chất lượng thực phẩm và an toàn thực phẩm ở khu vực thành thị Việt Nam

Mối quan tâm và đánh giá của người tiêu dùng về chất lượng thực phẩm và an toàn thực phẩm ở khu vực thành thị Việt Nam
N
Ú
I C
Ơ
 H
Ộ
I C
H
O
 P
H
ÁT
 T
RI
ỂN
177
Chủ đề 3: Chuỗi giá trị thực phẩm an toàn
Mối quan tâm và đánh giá của người tiêu dùng về
chất lượng thực phẩm và an toàn thực phẩm 
ở khu vực thành thị Việt Nam
Nguyễn Anh Đức 1,2, Wendy J. Umberger1*, Di Zeng1, Nikki P. Dumbrell1
Cơ quan
1Trung tâm Nghiên cứu Lương thực Toàn cầu và Tài nguyên, Trường Đại học 
Adelaide, 10 Pulteney St, Adelaide, SA, 5005, Australia.
2 Bộ môn Phân tích định lượng , Khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn, Học viện 
Nông nghiệp Việt Nam, Trâu Quỳ, huyện Gia Lâm, Hà Nội, Việt Nam 
*Tác giả đại diện
wendy.umberger@adelaide.edu.au 
Từ khóa
An toàn thực phẩm; chất lượng thực phẩm; đánh giá của người tiêu dùng; 
thuộc tính niềm tin; thành thị Việt Nam
Giới thiệu
Hệ thống lương thực của Việt Nam đã và đang có những sự thay đổi nhanh 
chóng trong những năm gần đây, với sự xuất hiện và mở rộng của hệ 
thống bán lẻ thực phẩm hiện đại và sự thay đổi trong sở thích của người 
tiêu dùng đối với các loại thực phẩm có giá trị cao hơn (Mergenthaler, 
Weinberger & Qaim 2009). Vấn đề chất lượng và an toàn thực phẩm ngày 
càng trở nên quan trọng đối với người tiêu dùng, và do đó tạo ra sự cần 
thiết cho các tác nhân trong chuỗi cung ứng thay đổi để thích ứng với 
điều kiện thị trường (Cadilhon và cộng sự 2006; Wertheim-Heck, Vellema 
& Spaargaren 2015). Việc hiểu được sự đánh giá của người tiêu dùng với 
yếu tố chất lượng và an toàn thực phẩm cũng như lý do họ có thể đánh giá 
những yếu tố này là hết sức cần thiết nhằm thông tin cho nông hộ nhỏ và 
các bên liên quan khác về các yêu cầu của thị trường cũng như tiềm năng 
cơ hội thị trường để cung cấp các sản phẩm đáp ứng được các nhu cầu đa 
dạng của người tiêu dùng.
Phương pháp
Dữ liệu được thu thập từ một mẫu đại diện của 2.000 hộ tiêu dùng thành 
thị tại bốn thành phố của Việt Nam là thành phố Hồ Chí Minh, thành phố 
Hà Nội, thành phố Lào Cai và thành phố Sơn La từ tháng 12 năm 2016 
đến tháng 3 năm 2017. Khảo sát được chỉnh sửa dựa trên các nghiên 
cứu trước đây của Umberger và cộng sự (2015) và Wahida và cộng sự 
(2013). Các hộ gia đình được đưa vào khảo sát đã được lựa chọn dựa trên 
H
Ộ
I T
H
Ả
O
 V
Ề 
PH
ÁT
 T
RI
ỂN
 T
ÂY
 B
Ắ
C
178
Chủ đề 3: Chuỗi giá trị thực phẩm an toàn
phương pháp lấy mẫu ngẫu nhiên theo tỷ lệ. Tại mỗi thành phố, chúng tôi 
đã lựa chọn các phường dựa trên tỷ lệ dân số của phường từ số liệu thống 
kê chính thức. Từ các phường đã chọn, một số lượng hộ gia đình nhất 
định được chọn ngẫu nhiên. Ngoài việc tìm hiểu tình hình tiêu dùng thực 
phẩm của hộ, cuộc khảo sát cũng thu thập thông tin về nhận thức và thái 
độ của người tiêu dùng về vấn đề chất lượng và an toàn thực phẩm, mối 
quan tâm dành cho các sản phẩm thực phẩm an toàn được chứng nhận 
và sự sẵn lòng trả tiền cho các sản phẩm được chứng nhận.
Kết quả
Kết quả cho thấy mức độ quan tâm cao về an toàn thực phẩm và chứng 
minh rằng người tiêu dùng thành phố Hồ Chí Minh có ý thức về dinh 
dưỡng tương đối cao (Hình 1). Người tiêu dùng tương đối quan tâm đến 
các vấn đề an toàn thực phẩm, bao gồm kim loại nặng, nhiễm khuẩn hoặc 
nhiễm thuốc trừ sâu so với các vấn đề về dinh dưỡng như lượng đường 
hoặc muối cao. Người tiêu dùng ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh có vẻ 
quan ngại hơn về an toàn thực phẩm so với người tiêu dùng tại các thành 
phố nhỏ hơn là Sơn La và Lào Cai.
Người tiêu dùng cũng được hỏi về các cơ quan hoặc tổ chức (ví dụ như các 
cơ quan nhà nước hoặc các hiệp hội ngành) mà họ tin cậy nhất để chứng 
nhận chất lượng và/hoặc mức độ an toàn của thực phẩm. Phần lớn người 
tiêu dùng, nói chung, tin tưởng vào các giấy chứng nhận hoặc kiểm tra của 
các cơ quan nhà nước và các tổ chức công khác (Hình 2). Giấy chứng nhận 
được cấp bởi bên thứ ba độc lập (TPC) là một nguồn đánh giá chất lượng 
quan trọng ở các nước phát triển, tuy nhiên ở Việt Nam, người tiêu dùng 
dường như có rất ít nhậc thức và tin tưởng đối với loại hình này (Hình 2).
Người tiêu dùng sau đó được yêu cầu chỉ ra tầm quan trọng của một số 
tiêu chuẩn thực phẩm và các loại chứng nhận. Nhìn chung, người tiêu 
dùng đánh giá mức độ quan trọng nhất với sản phẩm có “Chứng Nhận 
An Toàn”, tiếp theo là “Sản phẩm hữu cơ” và “Sản phẩm VietGAP”. Trung 
bình, 50% số người tiêu dùng đã mua sản phẩm có “Chứng Nhận An Toàn” 
và dưới 30% trong số họ đã mua những sản phẩm có chứng nhận “Hữu 
Cơ” và “VietGap”. Đối với nhóm các loại thực phẩm có liên quan đến các 
dự án kinh doanh nông nghiệp của ACIAR, và nhạy cảm đối với vấn đề an 
toàn thực phẩm (ví dụ trái cây, rau và thịt bò), chúng tôi đã đặt ra câu hỏi 
liệu rằng người tiêu dùng có sẵn lòng chi nhiều hơn cho sản phẩm được 
chứng nhận “an toàn” và họ sẽ sẵn sàng trả thêm bao nhiêu tiền. Đa số 
người phỏng vấn (> 67%) cho biết họ sẵn lòng mua những sản phẩm được 
chứng nhận “an toàn” nếu giá cả hợp lý. Mức chi trả mà họ sẵn lòng trả 
thêm vào khoảng 20% giá trị cho một sản phẩm được chứng nhận.
N
Ú
I C
Ơ
 H
Ộ
I C
H
O
 P
H
ÁT
 T
RI
ỂN
179
Chủ đề 3: Chuỗi giá trị thực phẩm an toàn
Thảo luận và kết luận
Mặc dù chính phủ Việt Nam coi việc cung cấp thực phẩm an toàn và lành 
mạnh là chính sách quan trọng (Wertheim-Heck, Vellema & Spaargaren 
2014) nhưng mối quan tâm của người tiêu dùng về các vấn đề an toàn 
thực phẩm vẫn đang gia tăng. Kết quả sơ bộ từ nghiên cứu này cho chúng 
ta bằng chứng ủng hộ quan điểm về những vấn đề an toàn thực phẩm và 
dinh dưỡng đang ngày càng ảnh hưởng đến quyết định của người tiêu 
dùng ở Việt Nam. Với thu nhập ngày càng tăng, nhiều người tiêu dùng ở 
thành thị sẵn lòng chi trả và có khả năng mua các loại thực phẩm có giá 
trị cao hơn với sự đảm bảo về an toàn. Từ quan điểm của một nghiên cứu 
phát triển, thông tin này cho phép chúng ta xem xét các can thiệp trong 
chuỗi cung ứng thực phẩm có thể mang lại lợi ích cho người sản xuất và 
người tiêu dùng. Ví dụ, khi biết rằng người tiêu dùng quan tâm đến việc 
nhiễm bẩn thuốc trừ sâu, vi khuẩn, và kim loại nặng, chúng ta phải suy 
nghĩ về các biện pháp để xây dựng niềm tin giữa người sản xuất và người 
tiêu dùng. Điều này có thể thực hiện dưới hình thức cải thiện việc ghi 
nhãn mác thực phẩm, thiết lập các tiêu chuẩn thực phẩm, và/hoặc xây 
dựng các chương trình chứng nhận chất lượng và an toàn thực phẩm (ví 
dụ như chương trình Thực hành Nông nghiệp Tốt - VietGAP).
Hình 1. Nhận định của người tiêu dùng về an toàn thực phẩm và các vấn đề dinh 
dưỡng ở 4 thành phố: Lào Cai, Sơn La, Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Các kết 
quả thu được sử dụng thang đo Likert như sau: 1 = Rất không đồng ý; 2 = Không 
đồng ý; 3 = Không phản đối và cũng không đồng ý; 4 = Đồng ý; và 5 = Rất đồng ý.
H
Ộ
I T
H
Ả
O
 V
Ề 
PH
ÁT
 T
RI
ỂN
 T
ÂY
 B
Ắ
C
180
Chủ đề 3: Chuỗi giá trị thực phẩm an toàn
Hình 2. Tỷ lệ người trả lời trong đó chọn mỗi nguồn chứng nhận là “đáng 
tin cậy nhất” về an toàn và chất lượng sản phẩm cho thịt bò, rau quả ở 
Việt Nam. Kết quả là những phản hồi từ những người được điều tra tại 4 
thành phố: Lào Cai, Sơn La, Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.
Tài liệu
Cadilhon, J-J, Moustier, P, Poole, ND, Tam, PTG & Fearne, AP 2006, “Hệ thống 
Thực phẩm Truyền thống và Hiện đại? Đánh từ Chuỗi Cung Ứng Rau đến thành 
phố Hồ Chí Minh (Việt Nam)”, Đánh giá Chính sách Phát triển, vol. 24, no. 1, pp. 
31-49.
Mergenthaler, M, Weinberger, K & Qaim, M 2009, “Sự chuyển đổi hệ thống 
lương thực ở các nước đang phát triển: Một nghiên cứu phân tích tách biệt hàm 
cầu về trái cây và rau quả ở Việt Nam”, Chính sách Lương thực, vol. 34, no. 5, 
pp. 426-436.
Umberger, WJ, He, X, Minot, N & Toiba, H 2015, “Nghiên cứu mối quan hệ giữa 
việc sử dụng các siêu thị và thừa dinh dưỡng ở Indonesia”, Tạp chí Kinh tế Nông 
nghiệp Hoa Kỳ, vol. 97, no. 2, pp. 510-525.
Wahida, Toiba, H, Umberger, WJ & Minot, N 2013, Tìm hiểu nhu cầu sẵn sàng chi 
trả cho các sản phẩm nông nghiệp giá trị cao của người tiêu dùng Indonesia, Báo 
cáo Nông nghiệp Giá trị cao 10, Viện Nghiên cứu Chính sách Thực phẩm Quốc tế 
(IFPRI), Washington, D.C.
Wertheim-Heck, SCO, Vellema, S & Spaargaren, G 2014, “Hạn chế trong thực 
hành tiêu dùng và mối quan tâm về an toàn thực phẩm ở Hà Nội”, Tạp chí Quốc 
tế về Nghiên cứu Người tiêu dùng, vol. 38, no. 4, pp. 326-336.
Wertheim-Heck, SCO, Vellema, S & Spaargaren, G 2015, “An toàn thực phẩm và 
chợ thành thị ở Việt Nam: Sự cần thiết cho các chính sách hiện đại hóa bán lẻ linh 
hoạt và tùy biến”, Chính sách Lương thực, vol. 54, pp. 95-106.

File đính kèm:

  • pdfmoi_quan_tam_va_danh_gia_cua_nguoi_tieu_dung_ve_chat_luong_t.pdf