Mối quan hệ tương tác giữa năng suất và hiệu quả xã hội của các tổ chức tài chính vi mô chính thức tại Việt Nam

Hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô (TCVM) với mục tiêu cải thiện

khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính cho khách hàng TCVM, đồng thời

bền vững hoạt động của các tổ chức TCVM. Trong đó, năng suất và hiệu

quả xã hội là những nhân tố tác động đến hoạt động và ảnh hưởng đến

mục tiêu của các tổ chức TCVM. Bài viết này phân tích mối quan hệ giữa

năng suất và hiệu quả xã hội của các tổ chức TCVM chính thức được Ngân

hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cấp phép hoạt động. Qua phân tích hồi

quy dữ liệu bảng được thực hiện trong giai đoạn 2010- 2017, nghiên cứu

cho thấy năng suất và hiệu quả xã hội có mối quan hệ tương tác qua lại với

nhau. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, bài viết đề xuất các khuyến nghị nhằm

tăng cường gắn kết mối quan hệ tương tác giữa năng suất và hiệu quả xã

hội nhằm góp phần đảm bảo các mục tiêu xã hội, gia tăng thu nhập và bền

vững hoạt động của các tổ chức TCVM chính thức tại Việt Nam.

Từ khóa: Độ sâu tiếp cận, độ rộng tiếp cận, hiệu quả xã hội, năng suất, tài

chính vi mô

pdf 15 trang phuongnguyen 300
Bạn đang xem tài liệu "Mối quan hệ tương tác giữa năng suất và hiệu quả xã hội của các tổ chức tài chính vi mô chính thức tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối quan hệ tương tác giữa năng suất và hiệu quả xã hội của các tổ chức tài chính vi mô chính thức tại Việt Nam

Mối quan hệ tương tác giữa năng suất và hiệu quả xã hội của các tổ chức tài chính vi mô chính thức tại Việt Nam
40
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 216- Tháng 5. 2020
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X 
Mối quan hệ tương tác giữa năng suất và hiệu quả 
xã hội của các tổ chức tài chính vi mô chính thức tại 
Việt Nam
Hà Văn Dương
Viện Đào tạo Sau đại học, Đại Học Quốc tế Hồng Bàng
Ngày nhận: 27/10/2019 Ngày nhận bản sửa: 18/11/2019 Ngày duyệt đăng: 20/12/2019
Hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô (TCVM) với mục tiêu cải thiện 
khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính cho khách hàng TCVM, đồng thời 
bền vững hoạt động của các tổ chức TCVM. Trong đó, năng suất và hiệu 
quả xã hội là những nhân tố tác động đến hoạt động và ảnh hưởng đến 
mục tiêu của các tổ chức TCVM. Bài viết này phân tích mối quan hệ giữa 
năng suất và hiệu quả xã hội của các tổ chức TCVM chính thức được Ngân 
hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cấp phép hoạt động. Qua phân tích hồi 
quy dữ liệu bảng được thực hiện trong giai đoạn 2010- 2017, nghiên cứu 
cho thấy năng suất và hiệu quả xã hội có mối quan hệ tương tác qua lại với 
nhau. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, bài viết đề xuất các khuyến nghị nhằm 
tăng cường gắn kết mối quan hệ tương tác giữa năng suất và hiệu quả xã 
hội nhằm góp phần đảm bảo các mục tiêu xã hội, gia tăng thu nhập và bền 
vững hoạt động của các tổ chức TCVM chính thức tại Việt Nam.
Từ khóa: Độ sâu tiếp cận, độ rộng tiếp cận, hiệu quả xã hội, năng suất, tài 
chính vi mô.
The Interactive Relationship between productivity and social performance of formal microfinance 
institutions in Vietnam 
Abstract: Activities of microfinance institutions with the goal of improving access to financial services for 
microfinance customers and along with operation sustainability of microfinance institutions. In particular, 
productivity and social performance are the factors affecting activities and the goals of microfinance institutions. 
This paper analyzes the interaction between the productivity and social performance of formal microfinance 
institutions, that were licensed by the State Bank of Vietnam. Through regression analysis of the panel data 
carried out in the period of 2010- 2017, this study shows that productivity and social performance have a 
relationship to interact with each other. Based on the research results, this paper proposes recommendations to 
strengthen the interaction between the productivity and social performance in order to contribute to ensuring 
social objectives, increasing income and operation sustainability of formal microfinance institutions in Vietnam.
Keywords: Breadth of outreach, depth of outreach, microfinance, productivity, social performance.
Duong Van Ha, PhD.
Email: dhv05@yahoo.com
Postgraduate Training Institute, Hong Bang International University
HÀ VĂN DƯƠNG
41Số 216- Tháng 5. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
1. Giới thiệu 
Năng suất và hiệu quả xã hội là một trong 
những mục tiêu của nhiều tổ chức tài 
chính hướng đến. Hoạt động TCVM phát 
triển tại Việt Nam trong những năm qua 
đã góp phần quan trọng vào mở rộng quy 
mô cung ứng dịch vụ tài chính, đặc biệt là 
cung ứng các dịch vụ TCVM cho người 
nghèo, người có thu nhập thấp, góp phần 
vào đảm bảo an sinh xã hội. Gia tăng khả 
năng cung ứng dịch vụ TCVM là một 
trong những định hướng quan trọng được 
nhiều tổ chức cung cấp dịch vụ TCVM 
hướng đến. Với định hướng này, các tổ 
chức TCVM chính thức tại Việt Nam mở 
rộng quy mô cung ứng dịch vụ, đồng thời 
cần đảm bảo sự cân bằng các mục tiêu xã 
hội, thu nhập và tự bền vững hoạt động. 
Tuy vậy, năng suất và hiệu quả xã hội của 
các tổ chức TCVM chính thức trong nhiều 
năm qua có những biến động, ảnh hưởng 
đến khả năng mở rộng quy mô cung ứng 
dịch vụ TCVM. Bài viết nghiên cứu mối 
quan hệ tương tác giữa năng suất và hiệu 
quả xã hội của các tổ chức TCVM chính 
thức, xác định được mức độ và xu hướng 
tương tác nhằm đề xuất và khuyến nghị 
tăng cường quản lý năng suất và hiệu quả 
xã hội, giúp cho các tổ chức TCVM chính 
thức tại Việt Nam đạt được các mục tiêu 
xã hội và bền vững hoạt động trong thời 
gian tới.
2. Cơ sở lý thuyết về mối quan hệ giữa 
năng suất và hiệu quả xã hội
2.1. Các yếu tố tác động đến năng suất
Năng suất là một chỉ số thiết yếu cho thấy 
mức độ hợp lý hóa hoạt động của tổ chức 
bằng cách phản ánh lượng đầu ra trên mỗi 
đơn vị đầu vào. Trong TCVM, năng suất 
được xác định theo khối lượng công việc 
của nhân viên cho vay (Basharat, Arshas 
và Khan, 2014). Nhiều nghiên cứu đã sử 
dụng số lượng người vay trên mỗi nhân 
viên để làm thước đo năng suất của tổ 
chức TCVM. (Twaha và Rashid, 2012; 
MicroRate, 2014). Tỷ lệ này càng cao, 
tổ chức TCVM càng có năng suất cao và 
năng suất của nhân viên chịu sự tác động 
của nhiều yếu tố, trong đó bao gồm:
Thứ nhất, độ sâu tiếp cận (Depth of 
outreach): Độ sâu tiếp cận được đo 
lường bằng quy mô cho vay trung bình 
(Ledgerwood, 1999) và theo kết quả 
nghiên cứu của Hudan và Traca (2011) 
cho thấy, việc tăng quy mô cho vay trung 
bình có liên quan đến giảm năng suất của 
nhân viên. Cùng với Twaha và Rashid 
(2012), kết quả cho thấy quy mô cho vay 
trung bình có mối quan hệ nghịch đảo với 
năng suất. Tuy vậy, kết quả thực nghiệm 
của Adhikary và Papachristou (2014) về 
mối liên hệ giữa độ sâu tiếp cận và năng 
suất cho thấy mối quan hệ tích cực. Do 
vậy, độ sâu tiếp cận ảnh hưởng tiêu cực 
hoặc tích cực đến năng suất của các tổ 
chức TCVM.
Thứ hai, số lượng các chi nhánh: Thành 
công của các tổ chức TCVM xuất phát từ 
tổ chức hệ thống các chi nhánh, phạm vi 
hoạt động với mạng lưới chi nhánh bao 
phủ rộng có thể giúp tổ chức TCVM đạt 
được số lượng khách hàng tương đối lớn 
hơn (Robinson, 2001). Sự gia tăng quy 
mô dịch vụ TCVM bằng cách tận dụng 
các mạng lưới chi nhánh để cung cấp tín 
dụng vi mô cho số lượng lớn khách hàng 
(World Bank, 2004). Đồng thời, mạng 
lưới chi nhánh rộng lớn đảm bảo cho 
khách hàng có thể tiếp cận dịch vụ TCVM 
nhiều hơn và thuận lợi hơn (Hubbard, 
2004). Do vậy, số lượng chi nhánh của 
tổ chức TCVM sẽ ảnh hưởng đến thu hút 
Mối quan hệ tương tác giữa năng suất và hiệu quả xã hội của các tổ chức tài chính vi mô 
chính thức tại Việt Nam
42 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 216- Tháng 5. 2020
khách hàng và năng suất của các tổ chức 
TCVM.
Thứ ba, tỷ lệ nợ so với vốn chủ sở hữu: 
Tỷ lệ nợ so với vốn chủ sở hữu đo lường 
đòn bẩy tổng thể của tổ chức TCVM. Đòn 
bẩy phản ánh sức mạnh vốn, là một chỉ số 
đánh giá mức độ sử dụng vốn của tổ chức 
TCVM giúp mở rộng tiếp cận cộng đồng 
(Abdulai và Tewari, 2017a). Việc gia tăng 
nguồn vốn từ tài trợ sẽ tạo thuận lợi cho 
các tổ chức TCVM có thêm nguồn lực tài 
chính đáp ứng cho nhiều khách hàng và 
tác động đến năng suất của các tổ chức 
TCVM.
Thứ tư, tăng trưởng vốn huy động: Nhiều 
khách hàng có thể được phục vụ nhiều hơn 
qua cho vay từ nguồn vốn huy động, gia 
tăng khả năng tiếp cận dịch vụ TCVM của 
khách hàng (Fiebig, Hannig và Wisniwski, 
1999). Do đó, tăng trưởng vốn huy động 
sẽ ảnh hưởng đến năng suất của các tổ 
chức TCVM.
Thứ năm, tỷ lệ vốn huy động so với dư 
nợ cho vay: Tỷ lệ này thể hiện khả năng 
huy động nguồn vốn tiền gửi để đáp ứng 
nhu cầu cho vay của các tổ chức TCVM. 
Qua đó nhiều khách hàng có thể được 
phục vụ qua cho vay (Fiebig, Hannig và 
Wisniwski, 1999) và tỷ lệ vốn huy động 
so với dư nợ cho vay sẽ tác động đến năng 
suất của các tổ chức TCVM.
Thứ sáu, độ rộng tiếp cận (Breadth of 
outreach): Theo Twaha và Rashid (2012), 
số lượng người vay ảnh hưởng tích cực 
đến năng suất. Nhìn chung, số lượng 
người vay càng lớn, khả năng tiếp cận 
càng tốt và số lượng người vay là một chỉ 
số về độ rộng tiếp cận của các tổ chức 
TCVM (Rashid và Twaha, 2013). Đồng 
thời, kết quả thực nghiệm của Adhikary 
và Papachristou (2014) cho thấy mối quan 
hệ tích cực giữa độ rộng tiếp cận và năng 
suất.
Thứ bảy, suất sinh lời của tài sản (Return 
on Assets- ROA): Một thước đo khác về 
hiệu quả tài chính của tổ chức TCVM là 
ROA và ROA tốt hơn có thể nâng cao 
năng suất của tổ chức TCVM (Cumming 
và cộng sự, 2017). Do vậy, ROA là yếu tố 
ảnh hưởng đến năng suất của các tổ chức 
TCVM.
2.2. Các yếu tố tác động đến hiệu quả xã 
hội
Hiệu quả xã hội thể hiện sự tiếp cận của 
các tổ chức TCVM bao gồm cả chiều rộng 
và chiều sâu. Độ rộng tiếp cận được thể 
hiện bằng số lượng người vay, độ sâu tiếp 
cận được thể hiện bằng quy mô cho vay 
trung bình (Abrar, 2019). Hiệu quả xã hội 
là một trong những mục tiêu của các tổ 
chức TCVM nhằm tăng khả năng tiếp cận 
của các cá nhân và hộ gia đình có thu nhập 
thấp, đây là mục tiêu gắn liền với quá trình 
phát triển của các tổ chức TCVM. Do đó, 
độ rộng và độ sâu tiếp cận bị ảnh hưởng 
bởi nhiều yếu tố, bao gồm:
2.2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến độ sâu 
tiếp cận: Độ sâu của tiếp cận được gắn 
kết với tất cả các hoạt động của các tổ 
chức TCVM và bị ảnh hưởng bởi nhiều 
yếu tố, bao gồm:
Một là, tăng trưởng quy mô của tổ chức 
TCVM: Quy mô của tổ chức TCVM thể 
hiện quy mô tổng tài sản và gia tăng quy 
mô của tổ chức TCVM có liên quan đến 
quy mô cho vay trên mỗi người vay (Kai, 
2009). Mặt khác, các tổ chức TCVM với 
tỷ lệ tài sản lớn hơn hoặc với quy mô lớn 
cũng ảnh hưởng tích cực đến độ sâu tiếp 
HÀ VĂN DƯƠNG
43Số 216- Tháng 5. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
cận của các tổ chức TCVM (Saad, Taib và 
Bhuiyan, 2018).
Hai là, năng suất: Việc cải thiện hiệu quả 
của nhân viên dẫn đến giảm số tiền cho 
vay do giải ngân khoản vay nhỏ và điều 
này dẫn đến việc cải thiện độ sâu tiếp cận 
của tổ chức TCVM. Do vậy, năng suất ảnh 
hưởng tích cực đến độ sâu tiếp cận của tổ 
chức TCVM (Sheremenko, Escalante và 
Florkowski, 2012).
Ba là, tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu: 
Nghiên cứu của Osotimehin, Jegede và 
Akinlabi (2011) cho thấy việc tiếp cận 
TCVM được xác định tích cực và đáng kể 
bởi tỷ lệ vốn chủ sở hữu. Tiếp theo, kết 
quả nghiên cứu của Quayes (2012) cho 
thấy tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu có tác 
động tích cực đáng kể đến độ sâu tiếp cận 
và có mối quan hệ tích cực giữa tỷ lệ nợ 
trên vốn chủ sở hữu và độ sâu tiếp cận của 
các tổ chức TCVM.
Bốn là, tốc độ tăng trưởng tiền gửi: Theo 
Nyanzu và Peprah (2016), các tổ chức 
TCVM huy động tiền gửi từ công chúng 
để củng cố tình hình tài chính và tăng 
trưởng tiền gửi có ý nghĩa trong mô hình 
độ sâu tiếp cận của tổ chức TCVM. Tốc 
độ tăng trưởng tiền gửi là một trong những 
yếu tố ảnh hưởng đến độ sâu tiếp cận và 
có mối quan hệ tích cực giữa tốc độ tăng 
trưởng tiền gửi và độ sâu tiếp cận của các 
tổ chức TCVM.
Năm là, tỷ lệ cho vay trên tiền gửi: Nghiên 
cứu của DiSalvo và Johnston (2017) đã 
chỉ ra rằng tỷ lệ cho vay trên tiền gửi là 
một chỉ số cho thấy mức độ tín dụng của 
các TCTD được tài trợ bởi nguồn tài trợ 
ổn định là tiền gửi. Tỷ lệ cho vay trên tiền 
gửi của các TCTD lớn đạt tỷ lệ cao, cho 
vay của họ được mở rộng nhanh chóng, 
do đó, nó ảnh hưởng đến độ sâu của các tổ 
chức TCVM.
Sáu là, độ rộng tiếp cận: Theo Cull, Kunt 
và Morduch (2006), có một sự đánh đổi 
quan trọng giữa độ rộng tiếp cận và độ sâu 
tiếp cận, nghiên cứu gần đây của Abdulai 
và Tewari (2017b) cũng cho thấy mối 
quan hệ đánh đổi giữa độ sâu và bề rộng 
của việc tiếp cận các tổ chức TCVM. Do 
vậy, có một mối quan hệ tiêu cực giữa độ 
rộng tiếp cận và độ sâu tiếp cận của các tổ 
chức TCVM.
2.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến độ rộng 
tiếp cận:
Thứ nhất, độ sâu tiếp cận: Nghiên cứu của 
Cull, Kunt và Morduch (2006) cho thấy 
sự đánh đổi quan trọng giữa độ rộng và 
độ sâu tiếp cận trong hoạt động TCVM. 
Một nghiên cứu khác về tiếp cận TCVM 
cũng cho thấy mối quan hệ đánh đổi giữa 
độ sâu và độ rộng tiếp cận trong hoạt 
động TCVM (Abdulai và Tewari, 2017b). 
Tương tự, kết quả nghiên cứu của Khalaf 
và Saqfalhait (2018) cũng là sự đánh đổi 
giữa độ sâu và độ rộng tiếp cận của các tổ 
chức TCVM.
Thứ hai, năng suất: Theo Abdulai và 
Tewari (2017b), năng suất tác động tích 
cực đến độ rộng tiếp cận của tổ chức 
TCVM. Tổng số người vay chia cho tổng 
số nhân viên là một chỉ số giúp đánh giá 
năng suất của nhân viên phục vụ khách 
hàng vay. Do đó, một mối quan hệ tích 
cực được mong đợi giữa năng suất và độ 
rộng tiếp cận (Khalaf và Saqfalhait, 2018).
Thứ ba, tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu: Tỷ 
lệ nợ trên vốn chủ sở hữu cho thấy mức 
độ mà các tổ chức TCVM sử dụng các 
nguồn vốn vay. Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở 
Mối quan hệ tương tác giữa năng suất và hiệu quả xã hội của các tổ chức tài chính vi mô 
chính thức tại Việt Nam
44 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 216- Tháng 5. 2020
hữu được tìm thấy có mối tương quan tích 
cực với số lượng người vay (Kipesha và 
Zhang, 2013). Việc sử dụng các khoản nợ 
giúp mở rộng cơ sở vốn, cho phép các tổ 
chức TTCVM phục vụ nhiều khách hàng 
hơn (Abdulai, và Tewari, 2017a).
Thứ tư, tỷ lệ tiền gửi so với cho vay: Tỷ 
lệ này cho thấy nhiều khách hàng có thể 
được phục vụ nhiều hơn bằng cách cho 
vay từ các khoản tiền gửi huy động và 
điều đó làm tăng độ rộng tiếp cận của 
các tổ chức TCVM (Fiebig, Hannig và 
Wisniwski, 1999). Tài khoản tiền gửi 
đóng vai trò là một kết nối các khách 
hàng TCVM và tăng số lượng tài khoản 
tiết kiệm sẽ giúp các tổ chức TCVM mở 
rộng tiếp cận, đặc biệt là độ rộng tiếp cận 
(Churchill và Marr, 2017).
Thứ năm, bền vững tài chính: Theo 
Nyamsogoro (2010), có mối quan hệ đánh 
đổi giữa tính bền vững tài chính và độ 
rộng tiếp cận. Điều này có nghĩa là các tổ 
chức tập trung vào việc đạt được mục tiêu 
bền vững tài chính khó có thể cung cấp 
các sản phẩm và dịch vụ TCVM cho một 
số lượng lớn khách hàng nghèo (Abdulai 
và Tewari, 2017). Hơn nữa, các yếu tố 
có mối quan hệ nhân quả đồng thời giữa 
tính bền vững tài chính và độ rộng tiếp 
cận, có sự đánh đổi giữa tính bền vững tài 
chính và độ rộng tiếp cận của các tổ chức 
TCVM (Mujeri và cộng sự, 2017).
3. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu của các tổ 
chức TCVM chính thức tại Việt Nam, sử 
dụng dữ liệu thứ cấp, được thu thập từ các 
báo cáo tài chính, báo cáo thường niên và 
số liệu tại website của MIX Market trong 
giai đoạn 2010- 2018. Nghiên cứu đã phân 
tích, tổng hợp các cơ sở lý thuyết và các 
nghiên cứu liên quan đến sự tương tác 
giữa năng suất và hiệu quả xã hội của các 
tổ chức TCVM. Qua đó, mô hình nghiên 
cứu gồm ba phương trình được đề xuất. 
Mô hình nghiên cứu này cho thấy các yếu 
tố ảnh hưởng đến năng suất và hiệu quả 
xã hội; đồng thời, cho phép kiểm tra mối 
quan hệ tương tác giữa năng suất và hiệu 
quả xã hội thông qua đặc tính nội sinh của 
các biến phụ thuộc.
Y
1
 = α
10
 + α
11
Y
2
 + α
11
Y
3 
+ +μ
1
Y
2
 = α
20 
+ α
21
Y
1
 + + μ
2
Y
3
 = α
30 
+ α
31
Y
1
 + + μ
3
Trong đó, Y
1
 là biến đo lường năng suất, 
được xác định bởi số lượng người vay trên 
mỗi số nhân viên. Y
2
 là biến đo lường độ 
sâu tiếp cận, được xác định bằng mức cho 
vay trung bình trên mỗi người vay. Y
3 
là 
biến đo lường độ rộng tiếp cận, xác định 
số lượng người vay đang hoạt động. X
1k
, 
X2γ và X
3δ
 ...  
(2012). Các tổ chức TCVM chính thức tại 
Việt Nam có vốn chủ sở hữu thấp, sử dụng 
nguồn tài trợ là nguồn vốn quan trong 
trong nâng cao mức giải ngân trên mỗi 
người vay. Một số tổ chức TCVM chính 
thức sử dụng nguồn vốn từ tài trợ ở mức 
phổ biến gần 3 lần so với vốn chủ sở hữu 
thường có mức cho vay khoảng 6,6 triệu 
đồng/người vay, một số tổ chức TCVM 
chính thức khác sử dụng nguồn vốn từ tài 
trợ ở mức trên 3 lần so với vốn chủ sở hữu 
thường có mức cho vay khoảng 7,5 triệu 
đồng/người vay. Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở 
hữu tác động tích cực đáng kể đến độ sâu 
tiếp cận, nguồn tài trợ tạo thuận lợi cho 
các tổ chức TCVM có thêm nguồn lực 
Bảng 7. Kết quả hồi quy theo các phương 
pháp đối với mô hình nghiên cứu các yếu tố 
ảnh hưởng đến ALB
Các biến độc 
lập
Biến phụ thuộc (ALB)
REM FEM
AGR
-0.0000302
(-1.85)
-0.0000122
(-0.68)
BSR
-0.0000179***
(-5.04)
-0.00000592
(-1.51)
DER
0.000247***
(5.26)
0.000102
(1.96)
DGR
-0.00000842
(-1.01)
-0.0000162
(-2.01)
LDR
-0.00172***
(-5.44)
-0.000877
(-1.98)
NAB
2.8208***
(5.48)
5.6809
(0.86)
Hệ số chặn 0.0131*** 0.0114**
P-value 0.0000 0.0000
Ghi chú: ***,**, * lần lượt là biểu thị mức ý nghĩa 
1%, 5% và 10%
Nguồn: Tổng hợp từ kết quả xử lý dữ liệu của phần 
mềm Stata
HÀ VĂN DƯƠNG
51Số 216- Tháng 5. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
tài chính đáp ứng cho nâng cao mức giải 
ngân cho khách hàng và tác động đến độ 
sâu tiếp cận của các tổ chức TCVM trong 
giai đoạn 2010- 2018.
Biến LDR tác động tiêu cực đến biến ALB 
với hệ số -0.00172 và có ý nghĩa thống 
kê ở mức 1%, cho thấy LDR tác động 
mạnh đến ALB. Kết quả này không phù 
hợp với kỳ vọng ban đầu và kết quả đánh 
giá của DiSalvo và Johnston (2017). Tỷ lệ 
cho vay trên tiền gửi bình quân của các tổ 
chức TCVM đạt 2,1 lần; tuy vậy, khả năng 
huy động vốn của nhiều tổ chức TCVM 
chính thức trong giai đoạn 2010- 2018 hạn 
chế, chưa khai thác được nguồn vốn huy 
động như nguồn vốn ổn định để cho vay và 
nâng cao mức cho vay bình quân tại các tổ 
chức TCVM.
Biến NAB tác động tích cực đến ALB với 
hệ số 2.8208 và ở mức ý nghĩa 1%, cho 
thấy tác động mạnh của biến này đến ALB. 
Kết quả này trái với dấu kỳ vọng và các kết 
quả nghiên cứu của Cull, Kunt và Morduch 
(2006), Abdulai và Tewari (2017b). Nhiều 
tổ chức TCVM chính thức đã gia tăng độ 
rộng tiếp cận, góp phần tăng mức vay trung 
bình cho mỗi người vay trong những năm 
qua. Trong giai đoạn 2010- 2018, các tổ 
chức TCVM có số lượng người vay trung 
bình khoảng 199.360 người tương ứng với 
mức cho vay bình quân khoảng 7,5 triệu 
đồng/người vay, trong khi các tổ chức 
TCVM có số lượng người vay trung bình 
khoảng 25.300 người tương ứng với mức 
cho vay bình quân khoảng 6,6 triệu đồng/
người vay. Những tổ chức TCVM cải thiện 
được độ rộng tiếp cận góp phần nâng cao 
độ sâu tiếp cận.
- Đối với mô hình nghiên cứu các yếu tố 
ảnh hưởng đến NAB: Thực hiện hồi quy 
theo FEM và REM giữa biến phụ thuộc 
NAB và các biến độc lập ALB, BSR, 
DER, DLR và FSS. Hồi quy theo FEM và 
REM, các giá trị P-value= 0.000< 5%, do 
đó mô hình ước lượng theo FEM và REM 
là phù hợp. Kiểm định Hausman để lựa 
chọn mô hình phù hợp và kết quả kiểm 
định Hausman có được giá trị P-value= 
0.3628> 0.05, vì vậy mô hình REM phù 
hợp hơn mô hình FEM. So với mô hình 
OLS Pooled, REM phù hợp hơn mô hình 
OLS Pooled. Do đó, nghiên cứu sử dụng 
kết quả hồi quy theo phương pháp REM 
để tiến hành phân tích. Kiểm tra đa cộng 
tuyến với kết quả Mean VIF= 5.13 và 
VIF các biến đều nhỏ hơn 10 (Farrar và 
Glauber, 1967), mô hình không nghiêm 
trọng về hiện tượng đa cộng tuyến. Kiểm 
tra phương sai thay đổi, kết quả P-value= 
1.000> 0.05 và mô hình không bị hiện 
tượng phương sai thay đổi. Kiểm tra tự 
tương quan, kết quả P-value= 0.3544> 
0.05 và mô hình không bị hiện tượng 
tương quan chuỗi.
Theo kết quả hồi quy của mô hình REM 
(Bảng 8), biến ALB tác động tích cực 
đến biến NAB với hệ số 7718069.8 và 
có ý nghĩa thống kê ở mức 10%. Kết quả 
này trái với kỳ vọng ban đầu và kết quả 
nghiên cứu của Cull, Kunt và Morduch 
(2006), Abdulai và Tewari (2017b), 
Khalaf và Saqfalhait (2018). Thực tiễn 
trong giai đoạn 2010- 2018, các tổ chức 
TCVM chính thức có mức cho vay bình 
quân khoảng 7,5 triệu đồng/người vay, 
tương ứng với số lượng người vay trung 
bình khoảng 199.360 người, các tổ chức 
TCVM có mức cho vay bình quân khoảng 
6,6 triệu đồng/người vay, tương ứng với 
số lượng người vay trung bình khoảng 
25.300 người. Có sự tương tác tích cực 
giữa độ rộng tiếp cận và độ sâu tiếp cận 
của các tổ chức TCVM chính thức trong 
giai đoạn 2010- 2018.
Mối quan hệ tương tác giữa năng suất và hiệu quả xã hội của các tổ chức tài chính vi mô 
chính thức tại Việt Nam
52 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 216- Tháng 5. 2020
Biến BSR tác động tích cực đến NAB với 
hệ số 569.8 và với ý nghĩa thống kê 1%, 
cho thấy BSR tác động mạnh đến NAB. 
Kết quả này khớp với giả thuyết dự kiến 
và tương đồng với kết quả nghiên cứu 
của Abdulai và Tewari (2017b), Khalaf 
và Saqfalhait (2018). Trong giai đoạn 
2010- 2018, tổ chức TCVM chính thức có 
năng suất 566 người vay/nhân viên tương 
ứng với số lượng người vay cao nhất gần 
500.000 người, tổ chức TCVM đạt năng 
suất 6 người vay/nhân viên có số lượng 
người vay thấp nhất là 10.826 người. 
Năng suất góp phần gia tăng và ảnh hưởng 
tích cực đến độ rộng của các tổ chức 
TCVM chính thức.
Biến DER tác động tiêu cực đến NAB 
với hệ số -4531.6 và với ý nghĩa thống kê 
5%. Kết quả này trái với dấu kỳ vọng và 
kết quả nghiên cứu của Kipesha và Zhang 
(2013), Abdulai, và Tewari (2017a). 
Nhiều tổ chức TCVM chính thức sử dụng 
các nguồn tài trợ để cho vay; tuy vậy, 
nguồn tài trợ của các tổ chức tài chính, 
TCTD có giới hạn và nguồn lực vốn chủ 
sở hữu đóng vai trò quan trọng trong gia 
tăng độ rộng tiếp cận. Trong giai đoạn 
2010- 2018, một số tổ chức TCVM chính 
thức sử dụng nguồn vốn từ tài trợ ở mức 
phổ biến gần 3 lần so với vốn chủ sở hữu, 
có số người vay bình quân là 199.360 
người, một số tổ chức TCVM chính thức 
khác sử dụng nguồn vốn từ tài trợ ở mức 
trên 3 lần so với vốn chủ sở hữu, có số 
người vay bình quân là 25.300 người.
Qua các kết quả hồi quy các mô hình 
nghiên cứu cho kết quả như sau:
Mô hình nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng 
đến năng suất của tổ chức TCVM chính 
thức:
BSR = 179.7 – 9559.1 * ALB + 5.421 * 
DER + 0.00121 * NAB + 16.82 * ROA
Mô hình nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng 
đến hiệu quả của tổ chức TCVM chính 
thức:
 - Đối với độ sâu tiếp cận của tổ chức 
TCVM chính thức:
ALB = 0.0131 – 0.0000179* BSR + 
0.000247 * DER – 0.00172* LDR + 
2.8208 * NAB
- Đối với độ rộng tiếp cận của tổ chức 
TCVM chính thức:
NAB = -211562.4 + 7718069.8 * ALB + 
569.8 * BSR -4531.6 * DER 
5. Kết luận và khuyến nghị
Kết quả nghiên cứu tìm thấy tương tác hai 
chiều và mối quan hệ nhân quả giữa năng 
Bảng 8. Kết quả hồi quy theo các phương 
pháp đối với mô hình nghiên cứu các yếu tố 
ảnh hưởng đến NAB
Các biến 
độc lập
Biến phụ thuộc (NAB)
REM FEM
ALB 7718069.8*
(2.33)
-592088.0
(-0.10)
BSR 569.8***
(9.03)
555.8***
(7.93)
DER -4531.6**
(-3.13)
-4789.6**
(-2.99)
DLR 213.0
(0.51)
-164.4
(-0.30)
FSS 1190.4
(1.64)
495.5
(0.51)
Hệ số chặn -211562.4*** -44767.7
P-value 0.0000 0.0000
Ghi chú: ***,**, * lần lượt là biểu thị mức ý nghĩa 
1%, 5% và 10%
Nguồn: Tổng hợp từ kết quả xử lý dữ liệu của phần 
mềm Stata
HÀ VĂN DƯƠNG
53Số 216- Tháng 5. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
suất và hiệu quả xã hội. Trong đó, có sự 
tương tác tích cực giữa độ rộng tiếp cận 
và năng suất và có sự đánh đổi giữa độ 
sâu tiếp cận và năng suất của các tổ chức 
TCVM chính thức tại Việt Nam. Dựa trên 
kết quả nghiên cứu, bài viết khuyến nghị 
nội dung chính như sau:
Thứ nhất, nghiên cứu này tìm thấy các 
tương tác nhân quả hai chiều giữa năng 
suất và độ rộng tiếp cận trong một xu 
hướng tích cực, nhưng mối quan hệ đánh 
đổi giữa độ sâu tiếp cận và năng suất của 
các tổ chức TCVM chính thức. Do đó, 
khuyến nghị chính sách trước mắt các tổ 
chức TCVM chính thức cần tập trung vào 
gia tăng độ rộng tiếp cận và năng suất của 
các tổ chức TCVM chính thức.
Thứ hai, các tổ chức TCVM chính thức 
nên tập trung nhiều hơn vào việc cải thiện 
độ rộng tiếp cận, thu hút thêm khách hàng 
vay, vừa thực hiện tốt mục tiêu xã hội, vừa 
góp phần gia tăng năng suất và tác động 
tích cực đến mục tiêu chung.
Thứ ba, các tổ chức TCVM chính thức cần 
gia tăng hơn nữa suất sinh lời của tài sản 
góp phần tăng năng suất và thúc đẩy độ 
rộng tiếp cận nâng cao. Đồng thời, các tổ 
chức TCVM chính thức hạn chế sự đánh 
đổi giữa độ sâu tiếp cận và hiệu quả, từ đó 
góp phần thực hiện tốt các mục tiêu hoạt 
động hàng năm ■
Tài liệu tham khảo
1. Abdulai, A. and Tewari, D. D (2017a), Trade-off between outreach and sustainability of microfinance institutions: 
evidence from sub-Saharan Africa, Enterprise Development and Microfinance, 28(3), September 2017.
2. Abdulai, A. and Tewari, D. D (2017b), Determinants of microfinance outreach in Sub-Saharan Africa: A panel 
approach, Acta Commercii - Independent Research Journal in the Management Sciences,17(1). Available from 
, [22, Oct, 2019].
3. Abrar, A. (2019), The impact of financial and social performance of microfinance institutions on lending interest 
rate: A cross-country evidence, Cogent Business and Management, 6(1), 6-7.
4. Adhikary, S. and Papachristou, G. (2014), Is There a Trade-off between Financial Performance and Outreach in 
South Asian Microfinance Institutions? The Journal of Developing Areas, 48(4), 381-402.
5. Barajas, A., Chami, R., Espinoza, R. and Heiko, H. (2010), Recent credit stagnation in MENA region: What to 
expect? What can be done?, IMF working paper 10/219.
6. Basharat, A., Arshas, A. and Khan, R. (2014), Efficiency, productivity, risk and profitability of microfinance 
industry in Pakistan: A Statistical Analysis, Pakistan Microfinance Network, No: 22 May 2014.
7. Churchill, S. A., and Marr, A. (2017). Sustainability and Outreach: A Comparative Study of MFIs in South Asia 
and Latin America and the Caribbean. Bulletin of Economic Research, 69(4), 19-41.
8. Cull, R., Kunt, A. D., & Morduch, J. (2006). Financial Performance and Outreach: A Global Analysis of Leading 
Microbanks. World Bank Policy Research Working Paper 3827, 6-8. Washington, DC: The World Bank.
9. Cumming, D., Dong, Y., Hou, W. and Sen, B (2017), Microfinance for Entrepreneurial Development: Sustainability 
and Inclusion in Emerging Markets, Publisher Cham, Switzerland, Palgrave Macmillan.
10. DiSalvo, J., and Johnston, R. (2017). Banking Trends: The Rise in Loan-to-Deposit Ratios: Is 80 the New 60?. 
Federal Reserve Bank of Philadelphia, Research Department, Q3, (pp.18-23).
11. Farrar, D. and Glauber, R. (1967), Multicollinearity in regression analysis: The problem revisited, Review of 
Economics and Statistics, 49, 92-107.
12. Fiebig, M., Hannig, A. and Wisniwski, S. (1999), Saving in the context microfinance - state of knowledge, CGAP 
Working Group on Savings Mobilization, Eschborn: GTZ.
13. Hubbard, R. G. (2004). Money, the Financial System, and the Economy. Reading, MA: Addison - Wesley 
Publishing Company.
14. Hudan, M., Traca, D. (2011), On the efficiency effects of subsidies in microfinance: an empirical inquiry, World 
Development, 39(6), 966-973. 
15. Kai, H. (2009), Competition and wide outreach of Microfinance Institutions, Economics Bulletin, 29(4), 2628- 
2639.
16. Khalaf, L. and Saqfalhait, N. I. (2018), Social Outreach of Microfinance Institutions in Arab Countries, 
Mối quan hệ tương tác giữa năng suất và hiệu quả xã hội của các tổ chức tài chính vi mô 
chính thức tại Việt Nam
54 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 216- Tháng 5. 2020
Available from <https://www.yu.edu.jo/econconf9/New/shares/-%20%D9%84%D8%A8%D9%86%D9%89%20
%D8%AE%D9%84%D9%81%20-%20.docx.pdf> [23-Oct-2019].
17. Kipesha, E. F. and Zhang, X. (2013), Sustainability, Profitability and Outreach Tradeoffs: Evidences from 
Microfinance Institutions in East Africa, European Journal of Business and Management, 5(8), 136-148.
18. Ledgerwood, J. (1999), Microfinance Handbook - A Financial Market System Perspective, The World Bank, 
Washington, D.C.
19. MicroRate (2014), Technical Guide: Performance and Social Indicators for Microfinance Institutions, Industry 
research report, Lima, Peru.
20. Mujeri, M. K, Khalily, M. A. B., Scheyvens, H., Johnson, B., Rahman, M, Hasan, M., Azam, S. E., & Adnan, S. 
S. (2017). Financial Inclusion for Disaster and Climate Resilient Households and Communities. A Research Report 
prepared for the Japan International Cooperation Agency, pp.126. Institute for Inclusive Finance and Development.
21. Nyamsogoro, G.D. (2010). Financial sustainability of rural microfinance institutions in Tanzania. PhD Thesis: 
University of Greenwich, Australia.
22. Nyanzu, F., & Peprah, F., A. (2016), Regulation, Outreach and Sustainability of MFIs in SSA: A Multilevel 
Analysis. Retrieved September 5, 2019, Available from <https://mpra.ub.uni-muenchen.de/70865/1/MPRA_
paper_70864.pdf>, [22-Otc-2019].
23. Osotimehin, K.O., Jegede, C.A., and Akinlabi, B.H. (2011), Determinants of microfinance outreach in South-
Western Nigeria: An empirical analysis. International Journal of Management and Business Studies, 1(1), 001-007.
24. Quayes, S. (2012), Depth of outreach and financial sustainability of microfinance institutions. Applied Economics, 
44(26), 3421-3433.
25. Rashid, A., and Twaha, K. (2013). Exploring the determinants of the productivity of Indian microfinance 
institutions. Theoretical and Applied Economics, 12(589), 83-96.
26. Robinson, M. S. (2001), The Microfinance Revolution, Sustainable Finance for the Poor, World Bank Publication, 
Washington DC.
27. Saad, M., Taib, H. M., & Bhuiyan, A. B. (2018), Determinants of Outreach Performance of Microfinance 
Institutions in Pakistan, Research Journal of Finance and Accounting, 9(15), 21-27
28. Sheremenko, G., Escalante, C. L. and Florkowski, W. J. (2012). The Universality of Microfinance Operations 
Model in Eastern Europe and Central Asia: Financial Sustainability vs. Poverty Outreach. 2012 Annual Meeting, 
August 12-14, 2012, Seattle, Washington from Agricultural and Applied Economics Association. Available from 
, [22-Otc-2019].
29. Twaha, K. and Rashid, A. (2012), Exploring the determinants of the productivity of microfinance institutions in 
India, International Institute of Islamic Economics (IIIE), IIUI 15. December 2012.
30. The World Bank (2004), Microfinance and the Poor in Central Asia Challenges and Opportunities, Agriculture and 
Rural Development Discussion Paper 6, Europe and Central Asia Region, Washington, D.C.
31. The World Bank (2013), The New Microfinance Handbook-A Financial Market System Perspective, Edited by 
Joanna Ledgerwood with Julie Earne and Candace Nelson, Washington, D.C.

File đính kèm:

  • pdfmoi_quan_he_tuong_tac_giua_nang_suat_va_hieu_qua_xa_hoi_cua.pdf