Mối quan hệ giữa khoảng cách kinh tế, khoảng cách địa lý và xuất khẩu của công ty con tại Việt Nam

Tóm tắt

Bài viết nghiên cứu tác động của khoảng cách kinh tế và khoảng cách địa lý đến xuất khẩu của công ty con

thuộc công ty đa quốc gia đang hoạt động tại Việt Nam. Dựa vào lý thuyết khoảng cách của Ghemawat (2001),

giả thuyết được đặt ra rằng, khoảng cách kinh tế và khoảng cách địa lý có mối tương quan nghịch với xuất khẩu

của công ty con. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu điều tra từ Tổng cục Thống kê tại 264 công ty con đang hoạt động

tại Việt Nam để kiểm định các giả thuyết. Kết quả từ mô hình hồi quy OLS cho biết, các giả thuyết được ủng hộ

hoàn toàn sau khi kiểm soát các yếu tố thuộc đặc điểm của công ty mẹ, công ty con, và đặc điểm của nước đầu tư

và tiếp

pdf 9 trang phuongnguyen 13800
Bạn đang xem tài liệu "Mối quan hệ giữa khoảng cách kinh tế, khoảng cách địa lý và xuất khẩu của công ty con tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối quan hệ giữa khoảng cách kinh tế, khoảng cách địa lý và xuất khẩu của công ty con tại Việt Nam

Mối quan hệ giữa khoảng cách kinh tế, khoảng cách địa lý và xuất khẩu của công ty con tại Việt Nam
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 32, Số 1 (2016) 48-56 
48 
Mối quan hệ giữa khoảng cách kinh tế, khoảng cách địa lý 
và xuất khẩu của công ty con tại Việt Nam 
Võ Văn Dứt* 
Trường Đại học Cần Thơ, Khu II, Đường 3/2, Phường Xuân Khánh, 
Quận Ninh Kiều, Thành phố Cần Thơ, Việt Nam 
Tóm tắt 
Bài viết nghiên cứu tác động của khoảng cách kinh tế và khoảng cách địa lý đến xuất khẩu của công ty con 
thuộc công ty đa quốc gia đang hoạt động tại Việt Nam. Dựa vào lý thuyết khoảng cách của Ghemawat (2001), 
giả thuyết được đặt ra rằng, khoảng cách kinh tế và khoảng cách địa lý có mối tương quan nghịch với xuất khẩu 
của công ty con. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu điều tra từ Tổng cục Thống kê tại 264 công ty con đang hoạt động 
tại Việt Nam để kiểm định các giả thuyết. Kết quả từ mô hình hồi quy OLS cho biết, các giả thuyết được ủng hộ 
hoàn toàn sau khi kiểm soát các yếu tố thuộc đặc điểm của công ty mẹ, công ty con, và đặc điểm của nước đầu tư 
và tiếp nhận đầu tư. 
Nhận ngày 26 tháng 9 năm 2015, Chỉnh sửa ngày 03 tháng 3 năm 2016, Chấp nhận đăng ngày 28 tháng 3 năm 2016 
Từ khóa: Xuất khẩu, công ty con, công ty đa quốc gia, khoảng cách kinh tế, khoảng cách địa lý. 
1. Giới thiệu * 
Xuất khẩu của các công ty con thực hiện tại 
nước nhận đầu tư là chủ đề được nhiều nhà 
nghiên cứu đặc biệt quan tâm trong suốt những 
thập niên qua [1, 2] bởi xuất khẩu của công ty 
con ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động 
của toàn mạng lưới công ty đa quốc gia và phát 
triển kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư [3]. Về 
mặt lý thuyết, Ghemawat (2001) [4] cho rằng, 
gia nhập thị trường nước ngoài thành công hay 
không (trong đó có hoạt động xuất khẩu) phụ 
thuộc vào khoảng cách giữa nước xuất khẩu và 
nước nhập khẩu. Dựa trên luận điểm này, tác 
giả bài viết này lập luận rằng, khoảng cách kinh 
tế và khoảng cách địa lý giữ vai trò quan trọng 
đối với hoạt động xuất khẩu của các công ty, 
các khoảng cách này có thể làm tăng chi phí 
_______ 
*
 ĐT.: 84 - 918549474 
 Email: vvdut@ctu.edu.vn 
trong hoạt động xuất khẩu của các công ty. Cụ 
thể, khoảng cách kinh tế và địa lý giữa các quốc 
gia càng lớn dẫn đến việc gia nhập sang thị 
trường đối tác sẽ càng rủi ro, tốn nhiều chi phí 
và từ đó làm giảm thương mại giữa các quốc 
gia. Vì vậy, mục tiêu của nghiên cứu này là tìm 
hiểu tác động của khoảng cách kinh tế và 
khoảng cách địa lý đến xuất khẩu của công ty 
con thông qua nghiên cứu một trường hợp cụ 
thể - đó là các công ty con thuộc các công ty đa 
quốc gia đang hoạt động tại Việt Nam. 
2. Lý thuyết và giả thuyết 
Theo Ghemawat (2001), kinh doanh ở một 
thị trường nước ngoài, các công ty luôn gặp 
những rủi ro, rào cản vô hình mà nguyên nhân 
bắt nguồn từ sự khác biệt giữa hai quốc gia [4]. 
Những khác biệt đó được gọi chung là khoảng 
cách. Những khoảng cách này được nghiên cứu 
V.V. Dứt / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 32, Số 1 (2016) 48-56 49 
trên nhiều phương diện như địa lý, kinh tế, văn 
hóa [5, 6, 7]. Những sự khác biệt của các 
phương diện này khiến các công ty phải gánh 
chịu một khoản chi phí lớn. Khoảng cách giữa 
hai quốc gia càng lớn thì rào cản đầu tư càng 
cao hay chi phí đầu tư càng lớn [6]. Bên cạnh 
đó, nhiều học giả cho rằng, khoảng cách kinh tế 
và địa lý càng lớn sẽ gây ra nhiều khó khăn 
trong việc thu thập, phân tích và giải thích 
thông tin [8]. Điều này làm gia tăng chi phí giao 
dịch và làm giảm thương mại giữa hai nước, từ 
đó có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh 
quốc tế của một công ty. Dựa trên các luận 
điểm này, những lập luận về tác động của 
khoảng cách kinh tế và khoảng cách địa lý đến 
xuất khẩu của công ty con được phát triển. 
Khoảng cách kinh tế và xuất khẩu của công 
ty con 
Khoảng cách kinh tế đã được nhiều nhà 
nghiên cứu nhắc đến trong kinh doanh quốc tế 
[9]. Sự giàu có hay thu nhập của người tiêu 
dùng là một trong những yếu tố tạo nên khoảng 
cách kinh tế giữa các nước và có ảnh hưởng đến 
mức độ thương mại giữa các nước. Hiện nay, 
các nước có nền kinh tế phát triển chủ yếu tập 
trung phát triển các công nghệ hiện đại và 
chuyển giao sang các nước đang phát triển với 
chi phí thấp hơn để thực hiện sản xuất và nhập 
khẩu trở lại các loại hàng hóa sau khi đã sản 
xuất hoàn chỉnh. Bên cạnh đó, các nước có nền 
kinh tế thịnh vượng và phát triển thường có xu 
hướng quan hệ thương mại với các nước tương 
đồng về kinh tế với họ nhiều hơn. Trong khi đó, 
các nước có nền kinh tế kém phát triển thường 
có quan hệ thương mại với các nước giàu hơn 
[4]. Điều này được giải thích bởi lợi thế cạnh 
tranh, mà ở đây là giá cả và chi phí. Các nước 
có nền kinh tế phát triển sản xuất những sản 
phẩm công nghệ cao, đạt chuẩn quốc tế sẽ thực 
hiện kinh doanh tại thị trường tương đồng để 
duy trì lợi thế cạnh tranh. Vì những lý do trên, 
giả thuyết đặt ra là: 
Giả thuyết 1: Khoảng cách kinh tế giữa hai 
quốc gia càng lớn thì xuất khẩu của công ty con 
tại Việt Nam sang quốc gia đó càng giảm. 
Khoảng cách địa lý và xuất khẩu của công 
ty con 
Khoảng cách địa lý là vấn đề đã được đề 
cập trong các nghiên cứu về thương mại quốc tế 
[10]. Chen (2004) tính toán khoảng cách địa lý 
dựa trên kinh độ và vĩ độ của các thành phố 
chính của các quốc gia và vùng lãnh thổ, từ đó 
cho thấy khoảng cách địa lý làm giảm thương 
mại giữa các cặp quốc gia [11]. Khoảng cách 
địa lý càng lớn càng gây ra nhiều vấn đề trong 
vận chuyển hàng hóa giữa hai quốc gia như rủi 
ro trong vận tải và bảo hiểm hàng hóa, từ đó gia 
tăng chi phí. Ngoài ra, khi vận chuyển những 
hàng hóa có trọng lượng lớn trong điều kiện 
khoảng cách địa lý xa thì các vấn đề vận chuyển 
hàng hóa cần có bảo hiểm, điều này cũng làm 
tăng chi phí trong giao dịch thương mại giữa 
hai quốc gia có khoảng cách địa lý lớn [6]. Các 
sản phẩm có giá trị gia tăng thấp sẽ bị đội chi 
phí cao nếu khoảng cách vận chuyển xa [4]. Do 
vậy, xuất khẩu có thể sẽ giảm. Các lập luận này 
dẫn đến giả thuyết sau: 
Giả thuyết 2: Khoảng cách địa lý giữa hai 
quốc gia càng lớn thì xuất khẩu của công ty con 
tại Việt Nam sang quốc gia đó sẽ càng giảm. 
Từ các lập luận trên, mô hình nghiên cứu 
được tổng hợp trong Hình 1. 
h 
Hình 1: Mô hình nghiên cứu. 
Xuất khẩu của 
công ty con 
Khoảng cách địa lý 
Khoảng cách kinh tế 
Các yếu tố khác 
 Giả thuyết 1 (-) 
Giả thuyết 2 (-) 
V.V. Dứt / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 32, Số 1 (2016) 48-56 
50 
3. Phương pháp nghiên cứu 
3.1. Dữ liệu sử dụng 
Để kiểm định các giả thuyết trên, bài viết sử 
dụng số liệu từ hai nguồn. 
Nguồn thứ nhất là bộ dữ liệu của Tổng cục 
Thống kê điều tra doanh nghiệp từ tháng 6/2009 
đến tháng 1/2010, phục vụ cho cuộc điều tra 
doanh nghiệp khu vực Đông Á và Thái Bình 
Dương năm 2009 của Ngân hàng Thế giới. 
Tổng thể điều tra bao gồm tất cả các ngành phi 
nông nghiệp, dựa theo Phiên bản phân loại nền 
công nghiệp quốc tế 3.1 ISIC (International 
Standard Industry Classification) phân loại các 
lĩnh vực gồm: lĩnh vực sản xuất (nhóm D), lĩnh 
vực xây dựng (nhóm F), lĩnh vực dịch vụ 
(nhóm G và H), lĩnh vực giao thông vận tải, lưu 
trữ và truyền thông (nhóm I). Định nghĩa này 
không bao gồm các lĩnh vực: trung gian tài 
chính (nhóm J), bất động sản và hoạt động cho 
thuê bất động sản (nhóm K, ngoại trừ nhóm 
ngành 72, công nghệ truyền thông, được thêm 
vào tổng thể nghiên cứu), và tất cả các lĩnh vực 
công. Trong đó, lĩnh vực sản xuất bao gồm 5 
nhóm, mỗi lĩnh vực phỏng vấn từ 120-145 
doanh nghiệp. Tổng số quan sát là 1.053 doanh 
nghiệp, trong đó 367 doanh nghiệp có vốn đầu 
tư nước ngoài tại Việt Nam. Trong số các 
doanh nghiệp được điều tra, nhóm ngành sản 
xuất thực phẩm, dệt may và may mặc có số 
công ty con được khảo sát nhiều nhất (chiếm 
52,86% tổng thể điều tra). Quy mô doanh 
nghiệp phân thành 3 nhóm: doanh nghiệp nhỏ 
có từ 5-19 lao động, doanh nghiệp vừa có từ 20-
99 lao động và doanh nghiệp lớn có hơn 99 lao 
động (nhân viên làm việc toàn thời gian). Số 
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được 
khảo sát bao gồm 14 tỉnh tại 5 khu vực: Đồng 
bằng sông Hồng (Hà Nội, Hải Dương và Hải 
Phòng), Bắc Trung Bộ (Thanh Hóa và Nghệ 
An), Đồng bằng sông Cửu Long (Cần Thơ, 
Long An và Tiền Giang), Nam Trung Bộ 
(Khánh Hòa và Đà Nẵng) và Đông Nam Bộ 
(Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương và 
Đồng Nai). 
Trong khuôn khổ bài viết này, đối tượng 
nghiên cứu là các công ty con thuộc các công ty 
đa quốc gia đang hoạt động tại Việt Nam. Do 
vậy, số quan sát sử dụng cho nghiên cứu này là 
số liệu điều tra các doanh nghiệp có vốn đầu tư 
nước ngoài từ Tổng cục Thống kê. Trong 367 
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài từ tổng 
thể điều tra của Tổng cục Thống kê, có 264 
doanh nghiệp đảm bảo đầy đủ các thông tin 
phục vụ cho mục tiêu của nghiên cứu này, nên 
tổng số quan sát được sử dụng trong nghiên cứu 
này là 264.1 Công ty mẹ của 264 công ty con 
đến từ 34 quốc gia khác nhau trên thế giới. 
Thông tin này cho phép tác giả xác định được 
các khía cạnh khoảng cách giữa Việt Nam và 
34 quốc gia đang đầu tư tại Việt Nam. 
Nguồn dữ liệu thứ hai là dữ liệu thứ cấp từ 
trang web của nhà nghiên cứu xã hội học 
Hofstede (1980) [12]. Trang web của Hofstede 
phản ánh các chiều hướng văn hóa các quốc 
gia.2 Dựa vào trang web này, số liệu về 6 chiều 
hướng văn hóa của Việt Nam và 34 quốc gia có 
công ty con tại Việt Nam được thu thập. 
3.2. Định nghĩa và đo lường các biến trong mô 
hình nghiên cứu 
Biến phụ thuộc là mức độ xuất khẩu của 
công ty con (Y) được đo lường bằng tỷ lệ doanh 
thu từ hoạt động xuất khẩu trên tổng doanh thu 
của công ty con, giá trị biến động từ 8,10-
74,20%. Giá trị càng lớn thể hiện công ty có 
doanh thu từ xuất khẩu càng cao. 
Các biến độc lập: 
- Khoảng cách kinh tế (X1) giữa Việt Nam 
và nước nhập khẩu: Dữ liệu dùng trong nghiên 
cứu là thu nhập bình quân đầu người của các 
nước tính theo giá đô la thực tế từ Ngân hàng 
Thế giới. Khoảng cách kinh tế được đo lường 
bằng chênh lệch thu nhập bình quân đầu người 
giữa Việt Nam với các nước. Giá trị của biến 
này dao động từ 1,23-11,50 (sau khi lấy 
Logarit). Giá trị càng cao thể hiện khoảng cách 
kinh tế giữa Việt Nam (nơi công ty con đang 
hoạt động) và nước nhập khẩu càng lớn. 
_______ 
1
 Công ty con hàm ý là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước 
ngoài thuộc công ty đa quốc gia đang hoạt động tại Việt Nam. 
2
V.V. Dứt / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 32, Số 1 (2016) 48-56 51 
- Khoảng cách địa lý (X2) giữa Việt Nam 
và nước nhập khẩu: Khoảng cách địa lý được 
tính toán dựa trên khoảng cách quỹ đạo giữa hai 
thủ đô của hai nước. Cụ thể là Thủ đô Hà Nội 
với thủ đô của mỗi nước nhập khẩu. Giá trị của 
biến dao động từ 6,77-9,83 (sau khi lấy 
Logarit). Giá trị của biến càng lớn thể hiện 
khoảng cách địa lý giữa Việt Nam và nước 
nhập khẩu càng lớn. 
Các yếu tố kiểm soát: Bên cạnh các yếu tố 
chính được xem xét ở trên, theo các nghiên cứu, 
xuất khẩu của công ty con có thể chịu ảnh 
hưởng bởi các yếu tố khác [1, 2]: 
- Quyền sở hữu công ty con (X3) là quyền 
chiếm hữu (quyền nắm giữ và quản lý tài sản), 
quyền sử dụng (quyền khai thác công dụng, 
hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản) và quyền định 
đoạt (quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản 
hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó) của nhà đầu tư nước 
ngoài trong công ty con thuộc công ty đa quốc 
gia. Biến này được đo lường bằng tỷ lệ phần trăm 
vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong 
công ty. Giá trị của nó thay đổi từ 5-36%. 
- Giới tính của người quản lý (X4) trong mô 
hình là biến giả, nhận giá trị 1 nếu người điều 
hành công ty là nam, giá trị 0 là nữ. 
- Kinh nghiệm quốc tế của nhà quản lý (X5) 
được đo lường bằng số năm làm việc ở nước 
ngoài (tại các công ty con) của người quản lý 
cấp cao nhất ở công ty con tính đến năm 2009. 
Giá trị thấp nhất của yếu tố này là 7 và cao nhất 
là 40. 
- Quy mô của công ty con (X6) được đo 
lường bằng số lượng nhân viên làm việc toàn 
thời gian tính tại thời điểm khảo sát. Giá trị của 
yếu tố này thay đổi từ 12-1.032 người. 
- Tuổi của công ty con (X7) đo lường bởi số 
năm từ năm thành lập công ty tính đến năm 
2009, biến đổi từ 6-32 năm. 
- Nghiên cứu và phát triển (R&D) (X8) 
được đo lường bằng tỷ trọng doanh thu dành 
cho chi phí R&D trên tổng doanh thu của công 
ty. Giá trị của biến này thay đổi từ 0,02-0,17. 
- Phương thức gia nhập thị trường (X9) 
được đo lường bằng biến giả, nhận giá trị 1 nếu 
công ty con được thành lập theo hình thức đầu 
tư mới hoàn toàn (sở hữu 100% bởi nhà đầu tư 
nước ngoài) và giá trị 0 nếu là sáp nhập hay 
mua lại. 
- Khoảng cách văn hóa (X10) là khoảng cách 
về văn hóa giữa Việt Nam và các nước đầu tư. 
Biến này được đo lường bởi sự khác biệt về văn 
hóa dựa trên 6 khía cạnh về văn hóa của 
Hofstede (1980) [12], đó là: quyền lực, chủ 
nghĩa cá nhân/chủ nghĩa tập thể, nam tính/nữ 
tính, tính ngại rủi ro, định hướng dài hạn/ngắn 
hạn và sự hưởng thụ/kiềm chế, được cho điểm 
từ 0-100. Dựa vào phương pháp của Kogut và 
Singh (1988) [13], tác giả tính khoảng cách văn 
hóa giữa Việt Nam và các nước đầu tư. Chỉ số 
khoảng cách văn hóa quốc gia được xác định 
dựa vào công thức: 
( ){ } 6//6
1
2
∑
=
−=
i
iiuijj VIICD (1) 
Trong đó: 
- CDj: Khoảng cách văn hóa giữa nước đi đầu 
tư (34 quốc gia đã đề cập ở trên) và Việt Nam. 
- Iij: Chỉ số khía cạnh văn hóa thứ i của 
nước đi đầu tư thứ j. 
- Iiv: Chỉ số khía cạnh văn hóa thứ i của Việt 
Nam, ký hiệu v là Việt Nam. 
- Vi: Phương sai của chỉ số khía cạnh văn 
hóa thứ i. 
Dựa vào công thức (1) và dữ liệu thứ cấp về 
văn hóa quốc gia từ trang web của Hofstede 
(1980) [12], giá trị khoảng cách văn hóa được 
xác định. Giá trị thay đổi từ 0,102-3,10. Chỉ số 
này càng lớn thể hiện khoảng cách văn hóa giữa 
Việt Nam và các nước đầu tư càng lớn. 
3.3. Phương pháp ước lượng 
Với phương pháp đo lường của biến phụ 
thuộc ở trên, nghiên cứu này sử dụng mô hình 
hồi quy tuyến tính bằng phương pháp bình quân 
bé nhất (OLS) để ước lượng tác động của các 
yếu tố đến xuất khẩu của công ty con. Phương 
trình ước lượng được thể hiện như sau: 
Y = β0 + β1X1 + β2X2 +  + β10X10 + ε (2) 
Trong đó: 
- Y: Biến phụ thuộc (xuất khẩu của công 
ty con). 
V.V. Dứt / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 32, Số 1 (2016) 48-56 
52 
- β0: Hệ số chặn của mô hình (giá trị của Y 
khi tất cả giá trị X bằng 0) 
- β1->2: Lần lượt là hệ số ước lượng của 
khoảng cách kinh tế và khoảng cách địa lý. 
- β3->10: Lần lượt là hệ số ước lượng các 
biến kiểm soát. 
- X1->2: Giá trị của các biến độc lập. 
- X3->10: Lần lượt là giá trị của các yếu tố 
kiểm soát. 
- ε: Sai số của mô hình hồi quy. 
Đặc điểm các biến độc lập và các biến kiểm 
soát trong mô hình nghiên cứu được tổng hợp ở 
Bảng 1. 
4. Kết quả và thảo luận 
4.1. Mô tả thống kê và ma trận tương quan 
Bảng 2 biểu diễn hệ số phóng đại phương 
sai (Variance Inflation Factor - VIF), giá trị 
trung bình, độ lệch chuẩn và mối tương quan 
giữa các biến trong mô  ... ở hữu công ty con và giới tính của nhà 
quản lý có mối tương quan thuận với xuất khẩu 
của công ty con, với hệ số tương quan lần lượt 
là 0,17 và 0,08. Cụ thể hơn, biến giới tính, trong 
264 công ty có 89 công ty với người quản lý là 
nữ và 175 công ty với người quản lý là nam. 
Tác giả thực hiện kiểm định t để kiểm tra sự 
chênh lệch này có ảnh hưởng đến kết quả ước 
lượng của toàn bộ mô hình. Kết quả cho biết, 
hai nhóm giới tính là quản lý nữ và nam không 
có sự khác biệt trong quan sát của nghiên cứu 
này vì giá trị p= 0,32 < 0,1. Do vậy, có thể kết 
luận rằng không có sự chệch lệch giữa giới tính 
nam và nữ. Ngoài ra, Bảng 2 chỉ ra khoảng cách 
kinh tế và khoảng cách địa lý có mối quan hệ 
nghịch biến với xuất khẩu của công ty con, với 
hệ số tương quan lần lượt là -0,09 và -0,12 
(Bảng 2). 
4.2. Kết quả và thảo luận 
Kết quả ước lượng hồi quy tuyến tính bằng 
OLS về ảnh hưởng của khoảng cách kinh tế và 
địa lý đến xuất khẩu của công ty con được trình 
bày trong Bảng 3. Mô hình 1 cho biết ảnh 
hưởng của các yếu tố kiểm soát đến xuất khẩu 
của công ty con. R2 điều chỉnh ở mô hình 1 là 
0,261 có nghĩa là sự thay đổi của các biến kiểm 
soát ở mô hình này giải thích 26,1% thay đổi 
xuất khẩu của công ty. Bên cạnh đó, giá trị p là 
0,000, tức là mô hình này có ý nghĩa thống kê 
tại 1%. Kết quả cho thấy, giới tính nhà quản lý 
và quy mô của công ty con có mối tương quan 
thuận với xuất khẩu của công ty con tại mức ý 
nghĩa thống kê 5% (β4= 6,86; p < 0,05, β6= 
0,01; p < 0,05); và quyền sở hữu và R&D của 
công ty con có ý nghĩa tại 1% (β3= 0,12; p < 
0,01; β8= 2,59, p < 0,01). Trong khi đó, khoảng 
cách văn hóa có mối quan hệ nghịch biến với 
xuất khẩu của công ty con tại mức ý nghĩa 
thống kê 1% (β10= -7,67; p < 0,01). Điều này 
được giải thích rằng, trong môi trường hội nhập 
càng sâu, văn hóa càng trở nên đa dạng và hài 
hòa trong một không gian rộng, không gian 
toàn cầu. Khi xuất khẩu sang các quốc gia có 
nền văn hóa khác biệt càng lớn thì công ty càng 
khó tiếp cận với các quốc gia đó, làm cản trở 
hoạt động xuất khẩu, dẫn đến doanh thu xuất 
khẩu giảm. Yếu tố kiểm soát khác là tuổi của 
công ty con, kinh nghiệm quốc tế của nhà quản 
lý, phương thức gia nhập của công ty mẹ không 
ảnh hưởng đến xuất khẩu của công ty con vì 
không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) (Bảng 3). 
V.V. Dứt / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 32, Số 1 (2016) 48-56 53 
Bảng 1: Đặc điểm các biến trong mô hình nghiên cứu 
Ký hiệu Diễn giải Phương pháp đo lường Kỳ vọng 
X1 Khoảng cách kinh tế Chênh lệch thu nhập bình quân đầu người (đô la) - 
X2 Khoảng cách địa lý Số km giữa hai thủ đô của hai quốc gia - 
X3 
Quyền sở hữu của công 
ty con 
Đo lường bằng phần trăm số vốn góp của nhà đầu 
tư nước ngoài tại công ty con + 
X4 Giới tính của nhà quản lý Đo lường bằng biến giả: giá trị 1 nếu người quản lý là nam, 0 là nữ + 
X5 
Kinh nghiệm quốc tế của 
nhà quản lý 
Đo lường bởi số năm làm việc ở nước ngoài của 
người quản lý tính đến năm 2009 + 
X6 Quy mô của công ty con Đo lường bằng số lượng nhân viên làm việc tại công ty con + 
X7 Tuổi của công ty con 
Được đo lường bằng số năm công ty con hoạt 
động tại Đồng bằng sông Cửu Long tính từ khi 
thành lập đến năm 2009 
+ 
X8 R&D của công ty con 
Đo lường bằng tỷ lệ phần trăm giữa chi phí bỏ ra 
để thực hiện R&D trên tổng doanh thu của công 
ty con 
+ 
X9 
Phương thức gia nhập thị 
trường của công ty mẹ 
Đo lường bởi biến giả: giá trị 1 nếu công ty mẹ 
đầu tư vào Việt Nam bằng phương thức đầu tư 
mới, 0 là sáp nhập và mua lại 
+ 
X10 Khoảng cách văn hóa 
Sử dụng 6 khía cạnh văn hóa của Hofstede (1980) 
và phương pháp của Kogut và Sigh (1988) để tính 
khoảng cách văn hóa giữa Việt Nam và các nước 
đầu tư 
− 
Nguồn: Tổng hợp từ tác giả. 
Kết quả ở mô hình 2 và 3 cho biết kết quả 
ước lượng tác động của các biến độc lập riêng 
biệt cùng với các biến kiểm soát ở mô hình 1. Ở 
cả hai mô hình, R2 điều chỉnh đều bằng hoặc 
tăng khi xem xét các biến độc lập riêng biệt với 
các biến kiểm soát, R2 điều chỉnh của mô hình 
2, 3 lần lượt là 0,261 và 0,269. Các giá trị này 
hàm ý rằng khi xem xét tác động của các biến 
độc lập đến xuất khẩu của công ty con cùng với 
các yếu tố kiểm soát, kết quả ước lượng sẽ giải 
thích tốt hơn so với mô hình 1 vì R2 điều chỉnh 
ở hai mô hình đều bằng hoặc tăng so với 
mô hình 1. 
Đối với các biến kiểm soát, kết quả cho biết 
tác động của chúng đến xuất khẩu của công ty 
con ở mô hình 2 và 3 không có sự khác biệt so 
với kết quả ước lượng ở mô hình 1 cả về dấu 
ảnh hưởng và mức ý nghĩa thống kê. Đối với 
các biến độc lập, kết quả ở mô hình 2 chỉ ra 
rằng, khoảng cách kinh tế có mối tương quan 
nghịch đối với xuất khẩu của công ty con tại 
mức ý nghĩa thống kê 1% (β1 = -6,21; p < 0,01). 
Kết quả này đúng với kỳ vọng của giả thuyết 1 
đặt ra, đó là khoảng cách kinh tế giữa hai quốc 
gia càng lớn thì xuất khẩu của công ty con tại 
Việt Nam sang quốc gia đó càng giảm, nên giả 
thuyết 1 của nghiên cứu được ủng hộ hoàn toàn 
cả về mặt lý thuyết và thực tiễn. Tương tự, mô 
hình 3 chỉ ra kết quả ước lượng của khoảng 
cách địa lý đến xuất khẩu của công ty con. Kết 
quả cho thấy, khoảng cách địa lý và xuất khẩu 
của công ty con có mối quan hệ nghịch biến tại 
mức ý nghĩa thống kê 5% (β2 = -5,12; p < 0,05), 
nghĩa là xuất khẩu của công ty con càng giảm 
khi khoảng cách địa lý giữa hai quốc gia càng 
lớn. Kết quả này ngụ ý rằng, giả thuyết 2 được 
ủng hộ về mặt thực tiễn. 
V.V. Dứt / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 32, Số 1 (2016) 48-56 
54 
Mô hình 4 là mô hình tổng hợp của nghiên 
cứu này, đó là các biến kiểm soát và các biến 
độc lập được ước lượng đồng thời trong cùng 
một mô hình. Kết quả mô hình 4 cho thấy, R2 
điều chỉnh là cao nhất với 27,1% và mô hình 
đạt mức ý nghĩa thống kê 1% (p = 0,000). Điều 
này hàm ý rằng, kết quả ước lượng ở mô hình 4 
dùng để giải thích sự thay đổi của các biến kiểm 
soát và các biến độc lập đến sự biến động của 
biến phụ thuộc là tốt nhất. Đối với các biến 
kiểm soát, kết quả ở mô hình 4 không có sự 
khác biệt so với các mô hình 1, 2 và 3 cả về dấu 
ảnh hưởng và ý nghĩa thống kê. Đối với các 
biến độc lập, mô hình 4 ở Bảng 3 cũng cho kết 
quả tương tự, đó là khoảng cách kinh tế và 
khoảng cách địa lý có mối tương quan nghịch 
với xuất khẩu của công ty con tại mức ý nghĩa 
thống kê lần lượt là 1% và 5% (hệ số ước lượng 
lần lượt là β1 = -6,11; p < 0,01; β2 = -4,15; p < 
0,05). Kết quả này một lần nữa khẳng định, giả 
thuyết 1 và 2 được ủng hộ cả về mặt lý thuyết 
và thực tiễn. Cụ thể là, khi khoảng cách kinh tế 
và khoảng cách địa lý càng tăng thì xuất khẩu 
của công ty con càng giảm. 
Bảng 2: Trung bình, độ lệch chuẩn và ma trận tương quan 
của các yếu tố trong mô hình nghiên cứu (n = 264) 
 VIF Trung 
bình 
Độ 
lệch 
chuẩn 
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 
1 Xuất khẩu 
của công ty 
con 
1,04 60,84 37,93 
2 Khoảng 
cách văn 
hóa 
1,11 1,94 0,89 0,17 
3 Quy mô của 
công ty con 
1,89 236,12 416,90 0,19 0,04 
4 Tuổi của 
công ty con 
1,21 12,06 8,58 0,10 -
0,07 
0,00 
5 R&D 1,03 6,85 3,32 0,44 0,02 0,04 0,04 
6 Phương thức 
gia nhập của 
công ty mẹ 
1,05 0,23 0,42 0,14 -
0,08 
0,08 -0,05 0,00** 
7 Quyền sở 
hữu của 
công ty con 
1,19 29,36 11,75 0,17* -
0,02 
-0,18 0,02** 0,02 -0,25 
8 Giới tính 
của nhà 
quản lý 
1,02 0,24 0,43 0,08** -
0,09 
0,03 -0,03 -0,01 0,01 -0,14 
9 Kinh 
nghiệm quốc 
tế của nhà 
quản lý 
1,09 19,07 9,22 0,04 -
0,02 
-0,16 0,07* 0,05 0,01 0,06 -0,04 
10 Khoảng 
cách kinh tế 
(log) 
1,04 6,71 5,02 -0,09* 0,03 0,05 0,01 0,02 0,10 0,01 0,03 -0,01 
11 Khoảng 
cách địa lý 
(log) 
1,20 8,01 7,23 -0,12* 0,02 0,09 0,04 -0,07 0,08 0,02 0,00 0,02 0,06 
*, ** lần lượt biểu thị giá trị mức ý nghĩa thống kê tại 5% và 1%. 
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của tác giả. 
V.V. Dứt / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 32, Số 1 (2016) 48-56 55 
Bảng 3: Kết quả mô hình OLS các yếu tố tác động tới xuất khẩu của công ty con 
 Mô hình 1 Mô hình 2 Mô hình 3 Mô hình 4 
 Hệ số Sai số 
chuẩn 
Hệ số Sai số 
chuẩn 
Hệ số Sai số 
chuẩn 
Hệ số Sai số 
chuẩn 
Hằng số 45,72** 13,71 49,82** 11,39 34,89** 11,10 44,00** 11,81 
Các biến độc lập 
Khoảng cách kinh tế (X1) -6,21** 2,22 -6,11** 2,12 
Khoảng cách địa lý (X2) -5,12* 3,11 -4,15* 2,56 
Các biến kiểm soát 
Quyền sở hữu (X3) 0,12** 0,05 0,15** 0,04 0,14** 0,05 0,15** 0,04 
Giới tính của nhà quản lý (X4) 6,86* 4,67 9,01* 4,89 9,00* 4,69 9,01* 4,72 
Kinh nghiệm quốc tế của nhà quản lý 
(X5) 0,24 0,23 0,24 0,22 0,20 0,19 0,25 0,24 
Quy mô của công ty con (X6) 0,01* 0,016 0,01* 0,015 0,01* 0,015 0,01* 0,016 
Tuổi của công ty con (X7) -3,74 3,51 -4,22 3,50 -4,58 3,54 -4,32 3,57 
R&D của công ty con (X8) 2,59** 0,31 2,55** 0,30 2,58** 0,31 2,61** 0,31 
Phương thức thâm nhập (X9) 8,51 5,05 6,41 4,89 10,55* 5,73 10,45* 5,72 
Khoảng cách văn hóa (X10) -7,67** 2,77 -7,67** 2,71 -7,13** 2,77 -6,76** 2,77 
Tỷ lệ hợp lý Logarit (Log likelihood) -1309,63 -1301,12 -1298,81 -1285,19 
R2 điều chỉnh 0,261 0,261 0,269 0,271 
N 264 264 264 264 
Giá trị p 0,000 0,000 0,000 0,000 
*, ** lần lượt biểu diễn các mức ý nghĩa thống kê ở mức 5% và 1%. 
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của tác giả.
5. Kết luận, hàm ý và hạn chế của nghiên cứu 
Nghiên cứu này sử dụng lý thuyết khoảng 
cách của Ghemawat (2001) [4] để phát triển các 
giả thuyết về ảnh hưởng của khoảng cách kinh 
tế và khoảng cách địa lý đến xuất khẩu của 
công ty con đang hoạt động tại Việt Nam. Kết 
quả kiểm định hồi quy đa biến bằng phương 
pháp bình quân nhỏ nhất tại 264 công ty con 
cho biết, khoảng cách kinh tế và khoảng cách 
địa lý có mối tương quan nghịch với xuất khẩu 
của công ty con sau khi kiểm soát các yếu tố 
thuộc đặc điểm của công ty con, công ty mẹ và 
đặc điểm nước đầu tư và nước nhận đầu tư. Kết 
quả này có nghĩa rằng, các doanh nghiệp có vốn 
nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam xuất 
khẩu sang các nước có sự khác biệt về phát 
triển kinh tế và có vị trị địa lý xa thì xuất khẩu 
giảm. Kết quả này phù hợp với lý luận của lý 
thuyết khoảng cách. Điều này ngụ ý rằng, để 
tăng cường xuất khẩu, các công ty có vốn nước 
ngoài đang hoạt động tại Việt Nam cần hiểu rõ 
đặc điểm phát triển kinh tế và vị trí địa lý của 
quốc gia dự định xuất khẩu. Từ đó, cần có 
những chiến lược xuất khẩu phù hợp hơn đối 
với các quốc gia có sự khác biệt lớn về phát 
triển kinh tế và địa lý so với Việt Nam. Điều 
này giúp giảm chi phí trong hoạt động xuất 
khẩu để tăng cường cả về khối lượng và hiệu 
quả xuất khẩu. Về phía Chính phủ Việt Nam, 
cần xác định cụ thể lĩnh vực nào còn yếu và cần 
học hỏi kinh nghiệm từ đối tác nước ngoài, từ 
đó ban hành chính sách thu hút đầu tư phù hợp 
cho lĩnh vực đó. 
Những ngầm định trên cũng thể hiện một số 
hạn chế của nghiên cứu. Mỗi giai đoạn xuất 
khẩu của công ty con tăng giảm khác nhau, 
nghiên cứu này chưa bắt kịp được sự thay đổi 
đó. Ngoài ra, xuất khẩu chịu tác động bởi sự 
thay đổi tỷ giá hối đoái, nghiên cứu không thể 
xem xét vì tỷ giá hối đoái thay đổi theo thời 
gian, trong khi dữ liệu sử dụng cho nghiên cứu 
V.V. Dứt / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 32, Số 1 (2016) 48-56 
56 
là dữ liệu không gian (năm 2009). Vì vậy, các 
nghiên cứu tiếp theo trong tương lai nên phân 
tích theo kiểu dữ liệu chuỗi thời gian hay dữ 
liệu bảng để phát triển các hàm ý về chính sách 
và lý thuyết. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Filatotchev, I., Stephan, J., Jindra, B., 
“Ownership Structure, Strategic Controls and 
Exporting of Foreign-invested Firms in 
Transition Economies”, Journal of 
International Business Studies, 39 (2008) 133. 
[2] Birkinshaw, J., Morrison, A. J., 
“Configurations of Strategy and Structure in 
Subsidiaries of Multinational Corporations”, 
Journal of International Business Studies, 26 
(1995) 729. 
[3] Filatotchev, I., Demina, N., Wright, M., Buck, 
T., “Strategic Choices, Export Orientation and 
Corporate Governance in Privatized Firms in 
Russia, Ukraine and Belarus: Theory and 
Empirical Evidence”, Journal of International 
Business Studies, 32 (2001) 853. 
[4] Ghemawat, P., “Distance Still Matters: The 
Hard Reality of Global Expansion”, Harvard 
Business Review, 79 (2001) 137. 
[5] Beugelsdijk, S., Slangen, A., Maseland, R., 
Onrust, M., “The Impact of Home-host 
Cultural Distance on Foreign Affiliate Sales: 
The Moderating Role of Cultural Variation 
within Host Countries”, Journal of Business 
Research, 67 (2014) 1638. 
[6] Beugelsdijk, S., Mudambi, R., “MNEs as 
Border-crossing Multi-location Enterprises: 
The Role of Discontinuities in Geographic 
Space”, Journal of International Business 
Studies, 44 (2013) 413. 
[7] Brewer, P. A., “Psychic Distance and Australian 
Export Market Selection”, Australian Journal of 
Management, 32 (2007) 73. 
[8] Dow, D., Karunaratna, A., “Developing a 
Multidimensional Instrument to Measure 
Psychic Distance Stimuli”, Journal of 
International Business Studies, 37 (2006) 578. 
[9] Caves, R. E., Multinational Enterprise and 
Economic Analysis, New York: Cambridge 
University Press, 1996. 
[10] Hummels, D., “Transportation Costs and 
International Trade in the Second Era of 
Globalization”, Journal of Economic 
Perspectives, 21 (2007) 131. 
[11] Chen, N., “Intra-national Versus International 
Trade in the European Union: Why do 
National Borders Matter?”, Journal of 
International Economics, 63 (2004) 93. 
[12] Hofstede, G. H., Culture Consequences: 
International Differences in Work-Related 
Value, London: Sage Publications, 1980. 
[13] Kogut, B., Singh, H., “The Effect of National 
Culture on the Choice of Entry Mode”, Journal of 
International Business Studies, 19 (1988) 411. 
[14] Hair, J. F., Black, W. C., Babin, B. J., 
Anderson, R. E., Tatham, R. L., Multivariate 
Data Analysis, Upper Saddle River, NJ: 
Pearson Prentice Hall, 2006. 
Relationship between Economic Distance, 
Geographic Distance and Export Intensity 
of Multinational Enterprise Subsidiaries in Vietnam 
Võ Văn Dứt 
Cần Thơ University, Campus II, 3/2 Street, Ninh Kiều District, Cần Thơ City, Vietnam 
Abstract: This paper studies the effects of economic and geographic distance on export intensity 
of multinational enterprise (MNE) subsidiaries in Vietnam. Based upon the theory of Ghemawat 
(2001), the author hypothesizes that economic and geographic distance are negatively associated with 
the export intensity of the subsidiary. The survey data of the Vietnam Statistics Office on 264 
subsidiaries in Vietnam are used to test the hypothesis. An OLS regression model reveals that 
economic and geographic distance are negatively related to the export intensity of subsidiaries under 
the controlling characteristics of the parent, subsidiary and home, and host countries. 
Keywords: Export intensity, subsidiary, multinational enterprise (MNE), economic distance, 
geographic distance. 

File đính kèm:

  • pdfmoi_quan_he_giua_khoang_cach_kinh_te_khoang_cach_dia_ly_va_x.pdf