Mối liên quan giữa vai trò người cha và sự phát triển của trẻ nhỏ: kết quả nghiên cứu can thiệp giáo dục sức khỏe cộng đồng hướng đến người cha

Giới thiệu: Nghiên cứu can thiệp được triển khai nhằm cải thiện tình trạng dinh dưỡng và phát triển của trẻ nhỏ thông qua khuyến khích sự tham gia của người cha vào quá trình chăm sóc. Phương pháp: 390 và 412 cặp vợ chồng phụ nữ mang thai được chọn vào huyện can thiệp và chứng. Thiết kế phỏng thực nghiệm bao gồm các hoạt động truyền thông đại chúng, cá nhân và nhóm tại cơ sở y tế và hộ gia đình. Kết quả: Sự phát triển của trẻ về vận động, ngôn ngữ, cá nhân-Xã hội đã có sự thay đổi tốt hơn có ý nghĩa thống kê ở địa bàn can thiệp. Kết luận: Can thiệp hướng đến người cha cần được duy trì và đánh giá thêm nhằm đưa ra bằng chứng có giá trị hơn cho phát triển trẻ sớm ở Việt Nam

pdf 5 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Mối liên quan giữa vai trò người cha và sự phát triển của trẻ nhỏ: kết quả nghiên cứu can thiệp giáo dục sức khỏe cộng đồng hướng đến người cha", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối liên quan giữa vai trò người cha và sự phát triển của trẻ nhỏ: kết quả nghiên cứu can thiệp giáo dục sức khỏe cộng đồng hướng đến người cha

Mối liên quan giữa vai trò người cha và sự phát triển của trẻ nhỏ: kết quả nghiên cứu can thiệp giáo dục sức khỏe cộng đồng hướng đến người cha
SỐ 4 (57) - Tháng 07-08/2020
Website: yhoccongdong.vn140
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2020
MỐI LIÊN QUAN GIỮA VAI TRÒ NGƯỜI CHA VÀ SỰ PHÁT 
TRIỂN CỦA TRẺ NHỎ: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CAN THIỆP GIÁO 
DỤC SỨC KHỎE CỘNG ĐỒNG HƯỚNG ĐẾN NGƯỜI CHA 
Trần Hữu Bích1
TÓM TẮT
Giới thiệu: Nghiên cứu can thiệp được triển khai 
nhằm cải thiện tình trạng dinh dưỡng và phát triển của trẻ 
nhỏ thông qua khuyến khích sự tham gia của người cha 
vào quá trình chăm sóc. Phương pháp: 390 và 412 cặp vợ 
chồng phụ nữ mang thai được chọn vào huyện can thiệp 
và chứng. Thiết kế phỏng thực nghiệm bao gồm các hoạt 
động truyền thông đại chúng, cá nhân và nhóm tại cơ sở 
y tế và hộ gia đình. Kết quả: Sự phát triển của trẻ về vận 
động, ngôn ngữ, cá nhân-xã hội đã có sự thay đổi tốt hơn 
có ý nghĩa thống kê ở địa bàn can thiệp. Kết luận: Can 
thiệp hướng đến người cha cần được duy trì và đánh giá 
thêm nhằm đưa ra bằng chứng có giá trị hơn cho phát triển 
trẻ sớm ở Việt Nam.
Từ khoá: Vai trò người cha, sự phát triển ở trẻ nhỏ, 
can thiệp cộng đồng.
ABSTRACT:
RELATIONSHIP BETWEEN FATHERS’ 
INVOLVEMENT AND CHILD DEVELOPMENT: 
RESULTS OF A COMMUNITY-BASED FATHER 
EDUCATION INTERVENTION
Introduction: The ultimate objective of this 
intervention study is to improve nutritional, language, 
motor and personal-social development of children in a 
rural area of Viet Nam by promoting effective fathers’ 
involvement in breastfeeding support and childcare. 
Methods: A quasi-experimental design was used. At 
baseline, 390 and 412 pregnant women and their husbands 
were enrolled into the intervention and control groups, 
respectively. The intervention targeting fathers included 
mass media, game show-style community events, group 
and individual counseling and home visits. Results: The 
infants in the intervention group having higher scores in 
locomotor, language and personal-social development 
compare with those in the control group with p-values 
<0.001. No significant differences found between the 
two sites regarding malnutrition rates. Conclusions: 
The community-based father education model should be 
maintained in a package and considered for conducting 
further evaluation in wider application to mobilize fathers 
of intact families in supporting child development.
Keywords: Fathers, infant development, community 
health education
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự phát triển sớm của trẻ đóng vai trò quan trọng 
trong sự phát triển của não bộ, có liên quan đến yếu tố 
di truyền, bối cảnh môi trường và gia đình, trong đó có 
trình độ học vấn của cha mẹ [1]. Nuôi con bằng sữa mẹ 
(NCBSM) đóng góp đáng kể vào sự phát triển nhận thức 
và trí thông minh của trẻ, có tác động ngắn hạn và dài hạn 
đối với sự phát triển nhận thức, phát triển vận động thô, 
cá nhân-xã hội của trẻ nhỏ [2]. Tỷ lệ lệ suy dinh dưỡng 
vẫn còn cao ở trẻ nhỏ Việt Nam [3] và trên thế giới và liên 
quan với sự phát triển trí tuệ ở trẻ. 
Mối liên quan giữa vai trò của người cha trong việc 
chăm sóc trẻ nhỏ với tình trạng dinh dưỡng và phát triển 
đã được nhìn nhận bởi một số nghiên cứu trên thế giới [4] 
và ở Việt Nam [5]. Người cha có thể tham gia hỗ trợ sự 
phát triển của trẻ rất sớm, từ giai đoạn mang thai, khi sinh 
và sau sinh trong giai đoạn nhũ nhi, tương tác, chơi các 
trò chơi kích thích sự phát triển sớm của trẻ; và người cha 
có thể đào tạo để hỗ trợ đắc lực cho sự phát triển của trẻ 
nhỏ [6]. Mặc dù lợi ích của việc cho con bú được ghi nhận 
rất rõ ràng nhưng thực hành tốt này đã bị ảnh hưởng tiêu 
cực bởi nhiều yếu tố, trong đó có các yếu tố ở cấp hộ gia 
đình, trong đó sự tham gia của người cha thường ít được 
quan tâm. Tại Việt Nam, nghiên cứu can thiệp về sự tham 
gia của người cha đã cung cấp bằng chứng cho việc xây 
Ngày nhận bài: 27/05/2020 Ngày phản biện: 04/06/2020 Ngày duyệt đăng: 12/06/2020
1. Trường Đại học Y tế Công cộng
SĐT: 0913515710, Email: [email protected]
SỐ 4 (57) - Tháng 07-08/2020
Website: yhoccongdong.vn 141
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
dựng hướng dẫn nuôi con bằng sữa mẹ [7]. Sự tham gia 
của người cha trong chăm sóc trẻ em được khuyến khích 
ở nhiều nước và đã nhận được sự hỗ trợ từ các tổ chức 
quốc tế [4]. 
Nghiên cứu can thiệp được triển khai với mục tiêu 
nhằm cải thiện tình trạng dinh dưỡng, vận động, ngôn 
ngữ, cá nhân- xã hội của trẻ thông qua khuyến khích sự 
tham gia của người cha vào cải thiện tình trạng nuôi con 
bằng sữa mẹ hoàn toàn và chăm sóc phát triển trẻ từ giai 
đoạn đầu đời.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN 
CỨU
2.1. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu sử dụng thiết 
kế phỏng thực nghiệm, trong đó địa bàn can thiệp là 12 
xã và 1 thị trấn của huyện Kim Thành và chứng là 11 
xã, 1 thị trấn của Cẩm Giàng – Hải Dương. Huyện Cẩm 
Giàng được chọn vì nó không giáp với Kim Thành, có các 
dịch vụ chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em, kinh tế xã hội, 
tình trạng dinh dưỡng và phát triển của trẻ nhỏ trẻ tương 
đương với Kim Thành [7].
2.2. Đối tượng nghiên cứu: Là nam giới của hộ gia 
đình (HGĐ) có hai vợ chồng là cư dân của địa bàn nghiên 
cứu, có vợ mang thai từ 12-27 tuần tính đến ngày 21 
tháng 3, 2013 và trẻ sinh sống. Chồng hoặc vợ bị loại khỏi 
nghiên cứu nếu người vợ bị xác định sai là có thai hoặc bị 
sẩy thai, tử vong chu sinh, tử vong sơ sinh trong quá trình 
theo dõi, có vấn đề sức khoẻ nghiêm trọng không thể trả 
lời các câu hỏi trong nghiên cứu, đã ly dị, di cư khỏi địa 
bàn hoặc từ chối hợp tác trong quá trình nghiên cứu.
2.3. Chọn mẫu: Chọn mẫu toàn bộ được tiến hành từ 
tháng 2 đến tháng 3 năm 2014, dựa trên danh sách phụ nữ 
mang thai sẵn có từ chương trình quản lý thai nghén được 
cập nhật với sự tham gia của y tế thôn. Do số lượng phụ nữ 
mang thai ít nên toàn bộ phụ nữ có tuổi thai từ 12-27 tuần 
đã được chọn. Số các đối tượng nghiên cứu tại địa bàn can 
thiệp và chứng là 390 và 412 cặp vợ chồng. Vấn đề đạo đức 
của nghiên cứu được Hội đồng Đạo đức của Trường Đại 
học Y tế Công cộng xem xét và chấp thuận theo Quyết định 
số 007/2014 /YTCC-HD3 ngày 26 tháng 02 năm 2014. 
2.4. Chương trình can thiệp
Can thiệp được thực hiện từ tháng 5 năm 2014 đến 
tháng 9 năm 2015. Truyền thông đại chúng hướng đến 
người cha bao gồm hoạt động truyền thông qua loa đài 
(dạng kịch nói phát 2 lần/tuần), pano và tờ rơi nhằm mục 
đích nâng cao kiến thức về sự phát triển của trẻ, về cách 
hỗ trợ bà mẹ NCBSMHT cũng như tạo môi trường thuận 
lợi hỗ trợ người cha tham gia vào NCBSMHT và chăm 
sóc trẻ.
Giáo dục và tư vấn nhóm (5-10 người từ 35-40 phút) 
cho người cha tại trạm y tế được tích hợp vào hoạt động 
khám thai, tiêm chủng cho phụ nữ và trẻ em ngày 25 hàng 
tháng khi người cha đi cùng vợ hoặc mang con đến trạm. 
Hoạt động này cung cấp kiến thức về sữa mẹ, chăm sóc 
trẻ và bà mẹ, về sự phát triển của trẻ và các hoạt động mà 
người cha cần phải biết và làm để giúp đỡ vợ trong giai 
đoạn trước và sau sinh để cha mẹ cùng nhau chăm sóc 
con. Ngoài ra người cha còn được trao cuốn Lịch phát 
triển tình cảm cha-con và được hướng dẫn cách sử dụng 
để chăm sóc phát triển trẻ theo giai đoạn cụ thể từ lúc sinh 
đến 12 tháng tuổi. Tư vấn cá nhân cho người cha được 
tiến hành 4 lần theo giai đoạn phát triển của trẻ tại HGĐ. 
Như một cách để củng cố kiến thức, sự tự tin và 
khuyến khích sự thay đổi hướng đến hành vi tốt, cũng như 
tạo môi trường thuận lợi và xây dựng chuẩn mực xã hội về 
sự tham gia của người cha vào phát triển trẻ sớm, cuộc thi 
“Ai yêu vợ con hơn” đã được tổ chức với sự tham gia của 
đại diện chính quyền, cán bộ y tế, đoàn thể và các ông bố 
trong Câu lạc bộ Người cha của dự án và gia đình. 
Phương pháp luận, thiết kế can thiệp cùng hoạt động 
triển khai và kết quả đạt được của chương trình can thiệp 
đã được trình bày chi tiết trong các đăng tải trước đây [7].
2.5. Số liệu thu thập 
Trong nghiên cứu này, nơi cư trú, kinh tế hộ, loại 
gia đình và học vấn bà mẹ được thu thập trước can thiệp. 
Các đặc tính cơ bản của trẻ như giới tính, cân nặng khi 
sinh, hình thức sinh và thứ tự sinh của trẻ được thu thập từ 
người mẹ vào thời điểm 1 tháng [7]. 
Chiều cao của trẻ ở 9 tháng tuổi được đo nằm sử dụng 
bảng đo Shorr với độ chính xác ± 1mm (Shorr, Olney, 
Md., Mỹ). Trọng lượng của trẻ được đo bằng cách sử 
dụng cân điện tử Laica PS3001 (Laica S.p.A. - Viale del 
Lavoro, 10 -Fraz Ponte 36.021 Barbarano Vicentino (VI) 
-ITALY) có thể cân đến 20 kg và với độ chính xác là ±5g. 
Sự phát triển vận động, ngôn ngữ và cá nhân xã hội ở trẻ 
được đo bằng thang đo DMCII phiên bản tiếng Việt [8]. 
Cân nặng, chiều cao và sự phát triển của trẻ được đo bởi 
hai nhóm điều tra viên riêng rẽ được các chuyên gia tập 
huấn và giám sát dựa trên hướng dẫn của WHO và qui 
trình đánh giá trẻ [8].
2.6. Phân tích số liệu
Số liệu được nhập bằng phần mềm EpiData và phân 
tích bằng phần mềm IBM SPSS 20. Phân phối của biến 
liên tục được đánh giá. Chỉ số phát triển ở các lĩnh vực và 
SỐ 4 (57) - Tháng 07-08/2020
Website: yhoccongdong.vn142
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2020
sự phát triển chung giữa hai nhóm can thiệp và không can 
thiệp được xác định thông qua kiểm định t so sánh đơn 
vị lệch chuẩn (Cohen’s d). Phân tích ANOVA được áp 
dụng trong so sánh trung bình điểm phát triển kiểm soát 
với một số yếu tố nhiễu tiềm tàng như nơi cư trú, loại gia 
đình, kinh tế hộ, học vấn bà mẹ, giới và cân nặng khi sinh 
của trẻ. Kiểm định Chi-square được sử dụng để đánh giá 
sự khác biệt về yếu tố cơ bản và tình trạng dinh dưỡng 
giữa can thiệp và chứng. Giá trị p < 0,05 được coi là có ý 
nghĩa thống kê.
III. KẾT QUẢ 
Ở địa bàn can thiệp (Bảng 1), có nhiều HGĐ sống 
ở khu vực nông thôn (93,2% so với 85,1%), nhiều HGĐ 
có kinh tế thấp (63,6% so với 36,2%), nhiều gia đình hạt 
nhân hơn và bà mẹ có trình độ học vấn thấp hơn so với 
địa bàn chứng (p <0,05). Tổng số trẻ tham gia nghiên cứu 
bao gồm 368 và 403 trẻ ở địa bàn can thiệp và chứng. Các 
đặc tính của trẻ như giới, cân nặng khi sinh, hình thức sinh 
và thứ tự trong gia đình không có sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê giữa hai địa bàn (số liệu không trình bày ở đây).
Bảng 1: Thông tin cơ bản ở điều tra ban đầu tại địa bàn can thiệp (n = 368) và chứng (n = 403). 
(Kiểm định Chi-square) 
Đặc tính cơ bản
Địa bàn
Tổng Giá trị PCan thiệp - Kim 
Thành n (%)
Chứng- Cẩm Giàng
n (%)
Địa dư
Nông thôn 364 (93,3) 351 (85,2) 715 (89,0)
<0,001 
Thị trấn 26 (6,7) 61 (14,8) 87 (11,0)
Kinh tế HGĐ
Dưới ngưỡng trung bình (phân vị 50% thấp) 248 (63,6) 149 (36,2) 397 (49,5)
<0,001
Trên ngưỡng trung bình (phân vị 50% cao) 142 (36,4) 263 (63,8) 405 (50,5) 
Trình độ học vấn mẹ
Dưới THPT 187 (47,9) 150 (36,4) 337 (42,0)
<0,001
Từ THPT trở lên 203 (52,1) 262 (63,6) 465 (58,0)
Loại gia đình 
Hạt nhân 171 (43,8) 151 (36,7) 322 (40,1)
0,04
Đa thế hệ 219 (56,2) 261 (63,3) 480 (59,9)
Bảng 2. Tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ 9 tháng tuổi giữa hai địa bàn can thiệp và chứng. 
(Kiểm định Chi-square)
Tình trạng suy dinh dưỡng Can thiệp (n=368) Chứng (n=403) Giá trị p
Thể nhẹ cân Có (0,05
Không 342 (96,3) 381 (96,7)
Thể thấp còi Có (0,05
Không 344 (96,9) 378 (95,9)
Thể gầy còm Có (0,05
Không 346 (97,5) 383 (97,2)
SỐ 4 (57) - Tháng 07-08/2020
Website: yhoccongdong.vn 143
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bảng 3. Phân tích so sánh trung bình điểm đánh giá phát triển chung và 3 lĩnh vực riêng rẽ 
giữa địa bàn can thiệp (n = 354) và chứng (n= 389) 
Trung bình (Độ lệch chuẩn) điểm DMC Độ lớn tác động theo đơn 
vị lệch chuẩn 
(can thiệp so với chứng)
Giá trị p*
Kim Thành (can thiệp) Cẩm Giàng (chứng)
Toàn bộ thang đo 75,35 (7,67) 69,12 (9,14) 0,74 <0,001
Vận động 30,30 (4,42) 28,18 (4,58) 0,47 <0,001
Ngôn ngữ 13,40 (2,47) 10,70 (3,32) 0,92 <0,001
Tình cảm – xã hôi 31,65 (3,30) 30,24 (3,99) 0,39 <0,001
Bảng 2 cho thấy tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ 
nhũ nhi ở giai đoạn 9 tháng tuổi ở địa bàn can thiệp nhìn 
chung thấp, từ 2,5% đến 3, 1 và 3,7% tương ứng ở cả ba 
thể loại là gày còm, còi cọc và nhẹ cân; và từ 2,8% đến 
4,1% và 3,3% ở địa bàn chứng. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp 
hơn ở địa bàn can thiệp nhưng sự khác biệt này không có 
ý nghĩa thống kê (p>0,05).
*Kiểm soát với địa dư, kinh tế hộ, loại gia đình, trình 
độ học vấn bà mẹ, giới và cân nặng khi sinh của trẻ.
Bảng 3 cho thấy điểm trung bình phát triển theo các 
lĩnh vực như vận động, ngôn ngữ, cá nhân-xã hội và điểm 
tổng hợp chung của toàn bộ 3 lĩnh vực ở địa bàn can thiệp 
đều cao hơn địa bàn chứng. Tác động can thiệp lớn nhất 
được thấy trong lĩnh vực ngôn ngữ, trẻ ở địa bàn can thiệp 
có điểm đánh giá phát triển ngôn ngữ (tính theo đơn vị 
được chuẩn hoá theo đơn vị lệch chuẩn) là 0,92 (p<0,001). 
Kết quả phân tích đa biến (ANCOVA) kiểm soát với yếu 
tố nhiễu tiềm tàng như địa dư, kinh tế hộ, loại gia đình, 
trình độ học vấn bà mẹ, giới và cân nặng khi sinh của trẻ, 
đều cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về điểm 
trung bình phát triển giữa địa bàn can thiệp và chứng 
(p<0,001).
IV. BÀN LUẬN
Sự thay đổi về phát triển của trẻ trong nghiên cứu 
này được tìm thấy có thể do tác động của chương trình 
can thiệp thay đổi hành vi của người cha trong việc tương 
tác với trẻ và hỗ trợ bà mẹ NCBSMHT được thiết kế dựa 
trên lý thuyết nhận thức xã hội và dựa trên chu trình sống 
tiếp diễn từ giai đoạn mang thai, khi sinh và sau sinh bằng 
phương pháp tiếp cận đa cấu phần. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ suy dinh dưỡng 
thể nhẹ cân, thấp còi và gầy còm ở trẻ 9 tháng tuổi ở các 
hộ gia đình là 3,3%, 3,1% và 2,5% ở khu vực can thiệp và 
3,7%, 4,1%, 2,8% ở địa bàn chứng tương ứng. Những con 
số này được WHO coi là tình trạng suy dinh dưỡng thấp 
ở trẻ 9 tháng tuổi, thấp hơn ở châu Phi, Ấn độ [9] và khu 
vực thành thị khác ở Việt Nam [3]. 
Thang đo DMC-II thích ứng vào điều kiện Việt Nam 
[8] đã đánh giá được sự khác biệt về phát triển ở trẻ 9 
tháng tuổi dưới tác động của can thiệp sớm. Một số nghiên 
cứu trước đây cho thấy các chương trình can thiệp khuyến 
khích sự tham gia của người cha đã cải thiện nhận thức[4] 
và kết quả học tập của trẻ [6]. 
Nguyên cứu can thiệp của chúng tôi là một số ít trong 
số các can thiệp khuyến khích sự tham gia của người cha 
ngay từ giai đoạn mang thai đến giai đoạn đầu sau sinh 
của trẻ, có sự kết hợp giữa dinh dưỡng và kích thích phát 
triển thông qua vai trò người cha [4]. Sự thay đổi tích 
cực của các chỉ số cấu thành trong chương trình can thiệp 
hướng đến sự thay đổi trong phát triển của trẻ đã được 
công bố trong các đăng tải trước đây như sự tham gia tích 
cực của người cha, sự thay đổi về ý định và thực hành 
nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu [7], sự thay đổi về 
tương tác và gắn kết giữa người cha và trẻ nhỏ [10]. Tính 
giá trị của kết quả nghiên cứu được đảm bảo bởi địa bàn 
chứng nằm xa khu vực can thiệp và có nhiều điểm tương 
đồng về chỉ số kinh tế xã hội và sức khoẻ do cùng nằm 
trong một tỉnh đồng bằng và không có can thiệp nào tương 
tự triển khai trong thời gian nghiên cứu.
Kết quả cần được phiên giải một cách thận trọng về 
tính giá trị nội tại và ngoại suy do nghiên cứu sử dụng 
thiết kế phỏng thực nghiệm, đối tượng nghiên cứu là gia 
đình có cả hai bố mẹ và phụ thuộc vào dữ liệu tự khai báo. 
Vì can thiệp được thiết kế theo gói, nhiều hoạt động được 
SỐ 4 (57) - Tháng 07-08/2020
Website: yhoccongdong.vn144
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2020
triển khai cùng lúc nên việc đánh giá tác động riêng rẽ 
của từng hoạt động không thực hiện được và không phải 
là mục tiêu của nghiên cứu. Phân tích theo chuỗi quan hệ 
nhân quả (path analysis) có thể đánh giá tốt hơn tác động 
quan hệ nhân quả của toàn bộ các chỉ số đo lường đầu ra 
và kết quả can thiệp đối với sự phát triển của trẻ.
V. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Trẻ sơ sinh trong nhóm can thiệp về thay đổi hành vi 
của người cha trong việc hỗ trợ bà mẹ trong giai đoạn nuôi 
con bằng sữa mẹ có điểm số cao hơn đáng kể trong cả ba 
lĩnh vực vận động, ngôn ngữ, cá nhân-xã hội. Chúng tôi 
đề nghị mô hình giáo dục sức khỏe hướng tới người cha 
nên được nhân rộng và được thử nghiệm tiếp tục trong 
nghiên cứu với thiết kế thực nghiệm phân bổ ngẫu nhiên, 
ở quy mô lớn hơn để đưa ra bằng chứng tốt hơn cho chính 
sách quốc gia trong việc thúc đẩy sự phát triển của trẻ nhỏ 
ở Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bich, T.H., et al., Thích ứng thang đo DMCII vào đánh giá sự phát triển của trẻ ở 9 tháng tuổi tại khu vực nông 
thôn Việt Nam. Tạp chí Y tế công cộng, 2019. 48. 
2. Black, M., S. Walker, and C. Fernald, Early childhood development coming of age: science through the life 
course. Lancet, 2017. 389: p. 77-90.
3. Anderson, J., B. Johnstone, and D. Remley, Breast-feeding and cognitive development: a meta-analysis. Am J 
Clin Nutr, 1999. 70: p. 525-535.
4. Huynh, G., et al., Malnutrition among 6–59-Month-Old Children at District 2 Hospital, Ho Chi Minh City, 
Vietnam: Prevalence and Associated Factors. BioMed Research International, 2019. 2019: p. 8.
5. Rollè, L., et al., Father Involvement and Cognitive Development in Early and Middle Childhood: A Systematic 
Review. Frontiers in Psychology, 2019. 10(2405).
6. Bich, T., Father’s involvement and child development outcomes in a rural area of Vietnam, in International 
Health and Development. 2006, Tulane University: USA.
7. Palma, G. and J. Faganb, Father involvement in early childhood programs: review of the literature. Early Child 
Development and Care, 2008. 178(7): p. 745-759.
8. Bich, T.H., T.K. Long, and D.P. Hoa, Community‐based father education intervention on breastfeeding practice 
- Results of a quasi‐experimental study. Matern Child Nutr, 2019. 15(S1): p. e12705.
9. De, P. and N. Chattopadhyay, Effects of malnutrition on child development: Evidence from a backward district 
of India. Clinical Epidemiology and Global Health, 2019. 7(3): p. 439-445.
10. Rempel, L.A., et al., Influence of father–infant relationship on infant development: A father-involvement 
intervention in Vietnam. . Developmental Psychology, 2017. 53(10): p. 1844-1858.
MỘT SỐ QUY ĐỊNH VỀ BÀI GỬI ĐĂNG TẠP CHÍ Y HỌC CỘNG ĐỒNG
T
I. Một số yêu cầu về bài đăng công trình nghiên cứu khoa học.
1. Bài gửi đăng công trình nghiên cứu khoa học chưa đăng ở bất kỳ tạp chí quốc gia nào.
2. Các thuật ngữ thống nhất theo từ điển Bách khoa Việt Nam. 
Bài gửi đăng đánh máy bằng tiếng Việt, rõ ràng, cách dòng, một bài không dài quá 7 trang khổ A4, kể cả bảng biểu 
và tài liệu tham khảo. Chỉ sử dụng những bảng, biểu, hình ảnh cần thiết và phải có chú thích rõ. Mỗi bài viết không 
quá 5 hình. Cuối bài phải nêu rõ xuất xứ của công trình, làm tại đâu, thời gian, số điện thoại cần liên hệ, địa chỉ Email.
3. Các danh từ tiếng Việt nếu dịch từ tiếng nước ngoài viết kèm theo tiếng nước ngoài. Các chữ viết tắt phải có chú 
thích các từ gốc của các chữ viết tắt.
4. Trình tự các mục trong bài:
a) Đầu đề
b) Họ và tên tác giả: Không ghi học hàm, học vị, chức danh. Có ghi chú đơn vị công tác của từng tác giả ở cuối trang 
thứ nhất bài báo.
c) Nội dung:
Tóm tắt tiếng Việt và tiếng Anh (tối đa 150 từ). Ghi từ khóa tiếng Việt và tiếng Anh.
Đặt vấn đề: bao gồm cả phần mục tiêu nghiên cứu.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu và bàn luận.
Kết luận.
Tài liệu tham khảo
d) Tài liệu tham khảo (không quá 10 tài liệu)
Đánh số thứ tự tài liệu tiếng Việt (vần ABC theo tên tác giả) sau đó đến tài liệu tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức, 
tiếng Nga (vần ABC theo họ)... Mỗi tài liệu đề họ, tên tác giả, tên bài, tên tạp chí, năm xuất bản, số trang. Tên sách: tên 
tác giả, tên nhà xuất bản, năm xuất bản, số trang. 
5. Tác giả cần gửi kèm một thư xác định bài báo là của mình, thêm: “Tôi cam đoan chịu trách nhiệm hoàn toàn 
về sự xác thực của các thí nghiệm, các tin tức, các tư liệu thu thập được và sự phân tích các dữ kiện, bài viết này chưa 
được gửi đăng ở báo nào khác”. Tác giả sẽ chịu trách nhiệm trước công luận và độc giả về quyền tác giả và nội dung 
gửi bài đăng.
Mỗi tác giả đứng tên đầu của bài báo chỉ được đăng tối đa một bài trong cùng một số.
II. Đối với các bài tổng quan, thông tin, bài dịch.
- Đối với các bài tổng quan cần có đầy đủ các tài liệu tham khảo và nguồn số liệu đã được trích dẫn trong bài. Tác 
giả bài tổng quan ghi rõ chức danh, học hàm, học vị, chuyên ngành, cơ quan và hội chuyên khoa ở phần ghi chú cuối 
trang đầu tiên của bài tổng quan. Bài tổng quan cũng được đánh máy trên khổ A4 và không dài quá 7 trang kể cả biểu 
bảng và tài liệu tham khảo.
- Các thông tin, bài dịch cần ghi rõ xuất xứ của nguồn dữ liệu. Đối với bài dịch cần chụp toàn văn bài báo tiếng nước 
ngoài gửi kèm theo bản dịch.
III. Lệ phí đăng bài khoa học: 800.000 đồng/bài (tám trăm nghìn đồng), gửi về tài khoản: Tạp chí Y học Cộng đồng: 
0861100688668, Ngân hàng TMCP Quân đội, chi nhánh Ba Đình, Hà Nội.
Bài viết xin gửi về Ban biên tập TẠP CHÍ Y HỌC CỘNG ĐỒNG
Địa chỉ: số 24 Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội.
Điện thoại: 0243 7621898 
Email: [email protected]
ạp chí “Y HỌC CỘNG ĐỒNG” xuất bản 06 số tiếng Việt và 01 số tiếng Anh/năm, đăng tải các công trình 
nghiên cứu, các bài tổng quan về Y, Dược học cộng đồng, sức khỏe môi trường, y học lâm sàng, y sinh học 
và y xã hội học, những thông tin Y-Dược học trong nước và quốc tế, thông tin về nghiên cứu và đào tạo.
Ví dụ: 1. Vũ TriệuAn, Nguyễn Ngọc Lan: Điều tra HLAở bộ tộc người Êđê, Y học thực hành, 1999, 4,17-25.
2. Wright P Krisnakone P Kobayashi A: “Using Immunoglobulin in treatment of Asthma”. J.of Internet. Immunol., 
2005,17,19-20

File đính kèm:

  • pdfmoi_lien_quan_giua_vai_tro_nguoi_cha_va_su_phat_trien_cua_tr.pdf