Mối liên quan giữa thực hành chăm sóc dinh dưỡng giai đoạn 1000 ngày đầu đời đến tình trạng béo phì ở trẻ mầm non quận Hoàng Mai - Hà Nội

Béo phì đang trở thành vấn đề sức khỏe toàn cầu. Béo phì bị ảnh hưởng bởi yếu tố di truyền, hoạt

động thể lực, chăm sóc dinh dưỡng nhất là giai đoạn trẻ nhỏ. Nghiên cứu này nhằm mục đích tìm hiểu

mối liên quan giữa béo phì đến thực hành chăm sóc dinh dưỡng giai đoạn sơ sinh ở trẻ dưới 5 tuổi ở

quận Hoàng Mai, Hà Nội. Phương pháp nghiên cứu bệnh chứng được thực hiện ở nhóm béo phì (99 trẻ)

và nhóm cân nặng bình thường (198 trẻ). Kết quả nghiên cứu cho thấy một số yếu tố như BMI của mẹ,

ăn sữa công thức 6 tháng đầu, cai sữa có sự liên quan có ý nghĩa thống kê với béo phì ở trẻ dưới 5 tuổi.

pdf 7 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Mối liên quan giữa thực hành chăm sóc dinh dưỡng giai đoạn 1000 ngày đầu đời đến tình trạng béo phì ở trẻ mầm non quận Hoàng Mai - Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối liên quan giữa thực hành chăm sóc dinh dưỡng giai đoạn 1000 ngày đầu đời đến tình trạng béo phì ở trẻ mầm non quận Hoàng Mai - Hà Nội

Mối liên quan giữa thực hành chăm sóc dinh dưỡng giai đoạn 1000 ngày đầu đời đến tình trạng béo phì ở trẻ mầm non quận Hoàng Mai - Hà Nội
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
207TCNCYH 126 (2) - 2020
Tác giả liên hệ: Đỗ Nam Khánh,
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 04/02/2020
Ngày được chấp nhận: 07/04/2020
MỐI LIÊN QUAN GIỮA THỰC HÀNH CHĂM SÓC DINH DƯỠNG 
GIAI ĐOẠN 1000 NGÀY ĐẦU ĐỜI ĐẾN TÌNH TRẠNG BÉO PHÌ Ở 
TRẺ MẦM NON QUẬN HOÀNG MAI – HÀ NỘI
Đỗ Nam Khánh1, , Vũ Thị Tuyền¹, Trịnh Thị Mỹ Định¹, Vũ Kim Duy¹, 
Nguyễn Thị Thu Liễu¹, Lê Thị Tuyết², Trần Quang Bình³, Lê Thị Hương¹
¹Trường Đại học Y Hà Nội
²Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội
³Viện Dinh dưỡng Quốc gia
Béo phì đang trở thành vấn đề sức khỏe toàn cầu. Béo phì bị ảnh hưởng bởi yếu tố di truyền, hoạt 
động thể lực, chăm sóc dinh dưỡng nhất là giai đoạn trẻ nhỏ. Nghiên cứu này nhằm mục đích tìm hiểu 
mối liên quan giữa béo phì đến thực hành chăm sóc dinh dưỡng giai đoạn sơ sinh ở trẻ dưới 5 tuổi ở 
quận Hoàng Mai, Hà Nội. Phương pháp nghiên cứu bệnh chứng được thực hiện ở nhóm béo phì (99 trẻ) 
và nhóm cân nặng bình thường (198 trẻ). Kết quả nghiên cứu cho thấy một số yếu tố như BMI của mẹ, 
ăn sữa công thức 6 tháng đầu, cai sữa có sự liên quan có ý nghĩa thống kê với béo phì ở trẻ dưới 5 tuổi.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo WHO, tình trạng thừa cân, béo phì ở 
trẻ em hiện là vấn đề sức khỏe báo động tại 
nhiều quốc gia trên thế giới, tạo ra những vấn 
nạn cấp bách và nghiêm trọng.1 Không chỉ ở 
các quốc gia phát triển mà ngay cả các quốc 
gia đang phát triển số lượng người béo phì 
cũng đang tăng nhanh, đặc biệt là ở khu vực 
thành thị.2 Điều đáng lo ngại là sự gia tăng tỷ lệ 
béo phì ở trẻ em toàn cầu đang không ngừng 
gia tăng trên toàn thế giới. Ước tính đến năm 
2030, gần một phần ba dân số thế giới có thể bị 
thừa cân, béo phì.3
Tại Việt Nam, tỷ lệ thừa cân, béo phì tăng 
gấp đôi từ 3,3% lên 6,6% trong giai đoạn 2000 - 
2005 và 6,6% lên 12% trong giữa 2005 - 2010 
và tăng gần gấp rưỡi từ 12% lên 17,5% trong 
giai đoạn 2010 - 2015. Trong vòng 15 năm, tỷ lệ 
thừa cân trẻ em tăng hơn 4 lần từ 3,3% (2000) 
lên 17,5% (2015).4 Ở nước ta tỷ lệ trẻ thừa cân, 
béo phì ở trẻ em có xu hướng tăng cao đặc biệt 
tại các thành phố lớn. Tại thời điểm năm 2004, 
theo nghiên cứu của Lê Thị Hải trên 7 quận nội 
thành Hà Nội cho thấy tỷ lệ trẻ 7 - 12 tuổi thừa 
cân, béo phì là 7,2%.5 Trong khi đó, theo nghiên 
cứu của Trương Tuyết Mai và cộng sự (2012), 
khảo sát trên đối tượng trẻ 4 - 9 tuổi tại quận 
Hoàn Kiếm, Hà Nội cho thấy tỷ lệ trẻ thừa cân 
là 21,9% và béo phì là 18,0%, tổng tỷ lệ trẻ thừa 
cân, béo phì chiếm 39,9%, vượt hơn hẳn tình 
trạng suy dinh dưỡng của trẻ: 17% (5,2% nhẹ 
cân, 2,2% gầy còm, thấp còi 9,6%).6
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình 
trạng thừa cân béo phì của trẻ, trong đó chăm 
sóc dinh dưỡng giai đoạn sơ sinh đóng vai trò 
cực kỳ quan trọng đối với sức khỏe và sự phát 
triển của cơ thể trẻ nhỏ. Đặc biệt là đối với trẻ 
em, dinh dưỡng quyết định sự phát triển toàn 
diện cả về thể chất lẫn tinh thần, trí tuệ của trẻ. 
Hầu hết trẻ từ 0 - 24 tháng tuổi được nhận sự 
chăm sóc chủ yếu từ các bà mẹ.7 
Quận Hoàng Mai là một quận nội thành của 
Hà Nội với tốc độ đô thị hóa cao nhất Hà Nội. 
Từ khóa: béo phì, trẻ mầm non, 1000 ngày đầu đời, Hoàng Mai, Hà Nội.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
208 TCNCYH 126 (2) - 2020
Quận có 14 phường, trên diện tích 41,04 km2, 
dân số gần 500.000 người (năm 2019). Quận 
Hoàng Mai là nơi tập trung nhiều chung cư cao 
tầng của Hà Nội với rất nhiều vợ chồng trẻ sinh 
sống, do đó số lượng trẻ em ở quận Hoàng Mai 
cũng chiếm tỷ lệ rất cao. Do đó chúng tôi tiến 
hành nghiên cứu này với mục tiêu phân tích 
mối liên quan giữa đặc điểm chăm sóc dinh 
dưỡng giai đoạn sơ sinh với tình trạng béo phì 
ở trẻ mầm non Hoàng Mai – Hà Nội năm 2019.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
1. Đối tượng
Trẻ mầm non từ 24 đến 60 tháng tuổi, người 
mẹ của trẻ ở 09 trường mầm non thuộc quận 
Hoàng Mai. 
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu bệnh 
chứng
Cỡ mẫu, chọn mẫu
Sau khi điều tra cắt ngang (đo chiều cao, 
cân nặng, phân loại tình trạng dinh dưỡng) ở 
tất cả trẻ mầm non thuộc 09 trường của quận 
Hoàng Mai, Hà Nội (tổng số 2319 trẻ dưới 60 
tháng tuổi). Nghiên cứu tiến hành lựa chọn 
ghép cặp ngẫu nhiên theo tỷ lệ 1 trẻ béo phì: 
2 trẻ bình thường dựa trên các tiêu chí cùng 
giới tính, cùng tuổi, cùng lớp ở mỗi trường mầm 
non. 
Dựa theo tiêu chuẩn WHO 2007, nghiên 
cứu này chỉ lựa chọn được 99 trẻ béo phì có 
cân nặng/chiều cao Zscore (CN/CC) > 3SD, 
198 trẻ bình thường ở nhóm chứng có chỉ số 
Zscore CN/CC trong khoảng - 1SD đến +1SD. 
Thu thập thông tin: Gửi thư xin ý kiến đồng 
ý tham gia nghiên cứu cho 99 trẻ béo phì và 
198 trẻ bình thường. Gửi bộ câu hỏi phỏng vấn 
đề phụ huynh của trẻ để thu thập thông tin về 
cân nặng, chiều cao của mẹ, hình thức đẻ (đẻ 
thường, đẻ mổ), cân nặng sơ sinh của trẻ, cân 
nặng mẹ tăng khi mang thai, nuôi con bằng sữa 
mẹ, ăn sữa công thức trong 6 tháng đầu, thời 
điểm ăn dặm, thời điểm cai sữa. . 
Tiêu chuẩn đánh giá:
Phương pháp tính tuổi: Sử dụng cách 
tính tuổi theo quy ước của WHO 2007. 
Phương pháp đánh giá nhân trắc của trẻ: Đo 
chiều cao đứng: Chiều cao đo bằng thước đo 
chiều cao đứng bằng gỗ (độ chính xác 0,1cm), 
kết quả tính bằng cm và ghi với 1 số lẻ. 
Đo cân nặng: Cân nặng được đo bằng cân 
điện tử SECA 890 (UNICEF) với độ chính xác 
100 g, kết quả tính bằng kg và ghi với 1 số lẻ. 
• Thời gian địa điểm nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 6/2018 đến 
tháng 3/2019
Địa điểm nghiên cứu: Tại 09 trường mầm 
non quận Hoàng Mai (Hoa Mai, Định Công, 
Lĩnh Nam, Tân Mai, Giáp Bát, Tuổi Thơ, Hoàng 
Văn Thụ, Thanh Trì, Sơn Ca)
3. Xử lý số liệu
Số liệu được nhập và quản lý bằng phần 
mềm EpiData và được phân tích trình bày theo 
bảng tần số, tỷ lệ, trung bình, biểu diễn bằng 
các bảng và đồ thị. Sử dụng phần mềm theo 
chương trình SPSS và R với các test thống kê 
y học và phân tích hồi quy đơn biến và đa biến.
• Sai phân tích hồi quy đơn 
Sai số: Nghiên cứu có thể xuất hiện sai số 
do nghiên cứu viên cân đo cân nặng, chiều cao 
của trẻ không chính xác và sai số nhớ lại các 
thông tin trước đó của người mẹ liên quan đến 
1000 ngày đầu đời của trẻ.
Cách khắc phục sai số: Sử dụng các loại cân, 
thước đo với kỹ thuật chuẩn, tuân theo phương 
thức thường quy và thống nhất phương pháp 
điều tra đã được tập huấn kỹ càng cho điều 
tra viên nhằm loại trừ khả năng sai số do điều 
tra viên hoặc do dụng cụ cân, đo. Để hạn chế 
sai số nhớ lại của người mẹ, nhóm nghiên cứu 
tiến hành thiết kế bộ câu hỏi đơn giản, dễ hiểu 
để người mẹ có thể dễ dàng nhớ lại và tự trả 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
209TCNCYH 126 (2) - 2020
lời; bên cạnh đó, khi làm sạch số liệu phát hiện 
những thông tin không logic, nhóm nghiên cứu 
sẽ liên hệ qua điện thoại với gia đình để kiểm 
chứng lại thông tin.
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu này sử dụng một phần số liệu 
trong đề tài nghiên cứu cấp Bộ Giáo dục và 
Đào tạo “Xây dựng mô hình dự báo nguy cơ 
béo phì ở trẻ mầm non dựa trên một số gen 
di truyền, thói quen dinh dưỡng và hoạt động 
thể lực” được tiến hành ở 3 quận Hoàn Kiếm, 
Hoàng Mai, Đông Anh. Nghiên cứu đã được 
chấp thuận bởi Hội đồng Đạo đức trong Nghiên 
cứu Y sinh học của Trường Đại học Y Hà Nội 
số 03NCS17/HMU IRB ngày 08 tháng 02 năm 
2018.
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu 
Bảng 1. Đặc điểm của trẻ và mẹ của trẻ
Đặc điểm
Trẻ béo phì
(n = 99)
Trẻ bình thường
(n = 198)
OR p
n % n %
Giới tính của trẻ
Nam 63 63,64 126 63,64
Nữ 36 36,36 72 36,36
Độ tuổi của mẹ (năm) (Trung bình ± Độ lệch chuẩn)
32,38 ± 4,49 32,88 ± 4,55 0,97 (0,92 - 1,03) 0,399
BMI của mẹ
<25 77 77,78 172 86,87 1
≥ 25 22 22,22 26 13,13 1,89 (1,01 - 3,56) 0,0452
<23 56 56,57 152 76,77 1
≥23 43 43,43 46 23,23 2,54 (1,50 - 4,31) 0,0003
Theo tiêu chuẩn của WHO 2007, ở nhóm trẻ béo phì, tỷ lệ mẹ có có thể trạng thừa cân với BMI 
≥ 25 kg/m² là 22,22%, trong khi tỷ lệ này ở nhóm trẻ bình thường là 13,13%. Tỷ lệ trẻ bị béo phì ở 
nhóm mẹ có BMI ≥ 25 kg/m² cao gấp 1,89 lần so với nhóm trẻ có mẹ ở mức BMI < 25 kg/m², sự khác 
biệt này có ý nghĩa thống kê p < 0,05).
Theo tiêu chuẩn của Hiệp hội đái đường các nước châu Á, ở nhóm trẻ béo phì, tỷ lệ mẹ có có thể 
trạng thừa cân, BMI ≥ 23 kg/m² là 43,437%, trong khi tỷ lệ này ở nhóm trẻ bình thường là 23,23%. 
Tỷ lệ trẻ bị béo phì ở nhóm mẹ có BMI ≥ 23 kg/m² gấp 2,54 lần so với nhóm trẻ có mẹ ở mức BMI < 
23 kg/m², sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê p < 0,05).
2. Mối liên quan quá trình chăm sóc dinh dưỡng giai đoạn sơ sinh đến tình trạng béo phì ở 
trẻ mầm non
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
210 TCNCYH 126 (2) - 2020
Bảng 2. Đặc điểm về quá trình mang thai và sinh đẻ
Đặc điểm
Nhóm béo phì Nhóm bình thường
pn % n %
Hình thức đẻ
Đẻ mổ 40 40,40 88 44,44
0,507Đẻ thường 59 59,60 110 55,56
Trung bình ± Độ lệch chuẩn
Cân nặng khi sinh 3,35 ± 0,62 3,25 ± 0,38 0,0942
Cân nặng mẹ tăng khi mang thai 12,60 ±3,89 12,41 ± 4,59 0,8885
* p-value < 0,01: Mann Whitney test
Tỷ lệ mổ đẻ ở trẻ béo phì và trẻ bình thường lần lượt là 40,40% và 44,44%. Không có sự khác 
biệt về hình thức đẻ ở nhóm trẻ béo phì và trẻ bình thường (p = 0,507). Không có sự khác biệt có 
ý nghĩa thống kê giữa cân nặng khi sinh và cân nặng mẹ tăng khi mang thai giữa nhóm béo phì và 
nhóm bình thường.
Bảng 3. Mối liên quan về đặc điểm chăm sóc trẻ với tình trạng béo phì
Đặc điểm
Nhóm béo phì
Nhóm bình 
thường
OR
(95%CI) p
n % n %
Nuôi con bằng sữa mẹ
Có nuôi con bằng sữa mẹ 93 93,94 179 90,40 1
Không nuôi con bằng sữa mẹ 6 6,06 19 9,60
0,61 
(0,23 - 1,58)
0,3017
Ăn sữa bột 6 tháng đầu
Không 22 22,22 104 52,53 1
Có 77 77,78 94 47,47
3,72 
(2,09 - 6,62)
0,000
Thời điểm cai sữa
≥ 24 tháng 24 24,24 85 42,93 1
< 24 tháng 75 75,76 113 57,07
2,35 
(1,36 - 4,07)
0,0017
Thời điểm ăn dặm
Từ 6 tháng 75 75,76 153 77,27 1
Dưới 6 tháng 24 24,24 45 22,73
1,08 
(0,62 - 1,92)
0,7711
Nguy cơ béo phì của những trẻ sử dụng sữa bột trong 6 tháng đầu cao gấp 3,72 lần so với những 
trẻ không sử dụng sữa bột trong 6 tháng đầu. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (với p = 0,000; OR 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
211TCNCYH 126 (2) - 2020
= 3,72; 95% CI: 2,09 - 6,62).
Ngoài ra, đối với thời điểm cai sữa cho trẻ 
cho thấy nguy cơ mắc béo phì ở những trẻ cai 
sữa trong khoảng thời điểm trước 24 tháng tuổi 
có nguy cơ mắc béo phì cao gấp 2,35 lần so với 
những trẻ cai sữa sau 24 tháng tuổi. Sự khác 
biệt này có ý nghĩa thống kê (với p = 0,0017; 
OR = 2,35; 95%CI: 1,36 - 4,07). 
IV. BÀN LUẬN
Sau khi tiến hành đo nhân trắc ở 2319 trẻ 
dưới 60 tháng tuổi ở 9 trường mầm non của 
quận Hoàng Mai, nghiên cứu xác định được 99 
trẻ cho nhóm bệnh (trẻ béo phì), sau đó tiến 
hành lấy thêm 198 trẻ bình thường cho nhóm 
chứng (không béo phì), tổng cộng có 297 trẻ. 
Trong nghiên cứu này, trẻ nam có tỷ lệ béo phì 
cao hơn nữ (63,6% so với 36,4%), kết quả này 
cũng tương tự như các nghiên cứu khác thực 
hiện ở Việt Nam.8, 9 Điều này được lý giải vì trẻ 
nam có thể nhận được nhiều sự quan tâm từ 
rất sớm trong đó có cả chăm sóc dinh dưỡng 
cũng làm tăng nguy cơ béo phì ở trẻ nam so với 
trẻ nữ.10 Cân nặng trung bình khi sinh của trẻ 
trong nghiên cứu này ở nhóm béo phì là 3,35 ± 
0,62 ở nhóm trẻ bình thường là 3,25 ± 0,38, sự 
khác biệt này không có ý nghĩa thống kê. Trong 
khi các kết quả nghiên cứu của các nghiên cứu 
trước đó đã cho thấy cân nặng của trẻ mầm 
non liên quan đến cân nặng khi sinh và yếu tố 
di truyền.7,11 Thêm vào đó, những trẻ thừa cân 
béo phì từ 5 đến 7 tuổi thường có cân nặng khi 
sinh cao.11,12 Trong nghiên cứu này, không có 
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về cân nặng 
của mẹ tăng trong quá trình mang thai ở nhóm 
trẻ béo phì và nhóm trẻ bình thường.
Nghiên cứu của chúng tôi lựa chọn 2 cách 
tính BMI. Theo tiêu chuẩn WHO 2007, nếu lựa 
chọn những bà mẹ có có thể trạng thừa cân 
với BMI ≥ 25 thì tỷ lệ trẻ bị béo phì ở nhóm 
mẹ có BMI ≥ 25 cao gấp 1,9 lần so với những 
trẻ có mẹ BMI < 25 (p = 0,045). Bên cạnh đó, 
do số lượng bà mẹ có BMI ≥ 25 ở châu Á nói 
chung và trong nghiên cứu này nói riêng chiếm 
số lượng ít nên chúng tôi lựa theo tiêu chuẩn 
của Hiệp hội đái đường các nước châu Á - IDI 
& WPRO, chúng tôi tìm thấy mối liên quan giữa 
BMI của mẹ với tình trạng béo phì của trẻ. BMI 
của mẹ dưới 23 thì trẻ có nguy cơ béo phì chỉ 
bằng 0,39 lần so với BMI của mẹ ≥ 23 ( p = 
0,000). Kết quả này cũng tương tự như kết quả 
của Voerman,13 Leddy14 đã khẳng định BMI của 
mẹ cao làm tăng nguy cơ thừa cân béo phì ở 
trẻ.
Trong nghiên cứu này, những trẻ được ăn 
sữa công thức trong 6 tháng đầu có nguy cơ 
béo phì cao gấp 3,72 lần so với những trẻ không 
ăn sữa bột trong 6 tháng đầu (p = 0,000). Điều 
này cũng tương tự như kết quả trong khi nhiều 
nghiên cứu phân tích trước đó của Weng15 và 
Harder16 đã nhận định uống sữa công thức sớm 
trong 6 tháng đầu làm tăng nguy cơ thừa cân 
béo phì ở trẻ.
Những trẻ cai sữa trước 24 tháng tuổi có 
nguy cơ béo phì cao hơn 2,35 lần so với những 
trẻ cai sữa sau 24 tháng. Kết quả này cũng 
tương tự như các kết quả nghiên cứu trước đó 
ở thế giới16 cũng như như nghiên cứu trong 
nước của Huỳnh Thị Thu Diệu năm 2007 ở 
Thành Phố Hồ Chí Minh kết luận thời gian cai 
sữa sớm có ảnh hưởng mạnh mẽ đến trẻ béo 
phì hơn là trẻ thừa cân và trẻ bình thường.17 
Nhiều nghiên cứu hệ thống đã chỉ ra nuôi còn 
bằng sữa mẹ là yếu tố giúp trẻ giảm nguy cơ 
thừa cân béo phì.14,15 Trong nghiên cứu này, 
chúng tôi không tìm thấy mối liên quan giữa 
thời điểm ăn dặm sớm (trước 6 tháng) và ăn 
dặm sau 6 tháng với tình trạng béo phì ở trẻ 
dưới 60 tháng tuổi.
V. KẾT LUẬN
Một số yếu tố như yếu tố gia đình (BMI của 
mẹ cao), chăm sóc trẻ (ăn sữa bột 6 tháng 
đầu), cai sữa ( trước 24 tháng) có sự kết hợp 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
212 TCNCYH 126 (2) - 2020
có ý nghĩa thống kê với béo phì ở trẻ dưới 5 tuổi 
ở quận Hoàng Mai, Hà Nội. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Caterson Ian D, Gill Timothy P. Obesity: 
epidemiology and possible prevention. Best 
Practice & Research Clinical Endocrinology & 
Metabolism. 2002;16(4):595 - 610.
2. Low S, Chin MC, Deurenberg - Yap M. 
Review on epidemic of obesity. Ann Acad Med 
Singapore; 2009;38(1):57 - 59.
3. Kelly T, Yang W, Chen CS, et.al. Global 
burden of obesity in 2005 and projections to 
2030. Int J Obes(Lond).(2008);32(9), 1431 - 
1437.
4. Đỗ Thị Phương Hà và Lê Bạch Mai. Thực 
trạng thừa cân béo phì ở người trưởng thành 
giai đoạn 2011 - 2015. Chiến lược quốc gia dinh 
dưỡng giai đoạn 2011 - 2015. 2015.
5. Lê Thị Hải và Lâm Nguyễn Thị. Theo dõi 
tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe của trẻ thừa 
cân - béo phì tại Hà Nội. Tạp chí Y học thực 
hành. 2004;496:53 - 57.
6. Trương Tuyết Mai, Lê Thị Hợp và Nguyễn 
Thị Lâm. Tình trạng thừa cân béo phì và rối 
loạn lipid máu ở trẻ 4 - 9 tuổi tại một số trường 
thuộc quận Hoàn Kiếm Hà Nội. Tình hình dinh 
dưỡng, Chiến lược can thiệp 2011 - 2015 và 
định hướng 2016 - 2020. 2012;1: 56 - 62.
7. Williams EP, Mesidor M, Winters K, 
et.al. Overweight and Obesity: Prevalence, 
Consequences, and Causes of a Growing 
Public Health Problem. Curr Obes Rep. 
2015;4(3):363 - 370.
8. Nguyễn Thị Trung Thu và Lê Thị Tuyết. 
Đặc điểm nhân trắc và tình trạng dinh dưỡng 
của trẻ từ 24 đến 59 tháng tuổi ở Hà Nội, Thanh 
Hóa, Phú Thọ năm 2018. Tạp chí Khoa học - 
Đại học Sư phạm Hà Nội. 2018;3:150 - 157.
9. Nguyễn Quang Dũng và Nguyễn Lân. 
Tình trạng béo phì ở học sinh tiểu học 9 - 11 
tuổi và các yếu tố liên quan tại Hà Nội và thành 
phố Hồ Chí Minh. Tạp chí Dinh dưỡng và thực 
phẩm. 2008;4(1):39047.
10. Do Loan Minh, Tran Toan Khanh, 
Eriksson Bo et.al. Preschool overweight and 
obesity in urban and rural Vietnam: differences 
in prevalence and associated factors. Global 
Health Action. 2015;8: 28615.
11. Wright SM, Aronne LJ. Causes of obesity. 
Abdom Imaging. 2012;37(5):730 - 732.
12. Ebbeling CB, Pawlak DB, Ludwig D S. 
Childhood obesity: public - health crisis, common 
sense cure. Lancet. 2002;360(9331):473 - 482.
13. Voerman E, Santos S, Patro Golab B, 
et.al. Maternal body mass index, gestational 
weight gain, and the risk of overweight and 
obesity across childhood: An individual 
participant data meta - analysis. PLoS Med. 
2019;16(2):e1002744.
14. Leddy MA, Power ML, Schulkin J. The 
impact of maternal obesity on maternal and 
fetal health. Rev Obstet Gynecol. 2008;1(4):170 
- 178.
15. Weng SF, Redsell SA, Swift JA, et.al.
Systematic review and meta - analyses of risk 
factors for childhood overweight identifiable 
during infancy. Archives of disease in childhood, 
2012;97(12):1019 - 1026.
16. Harder T, Bergmann R, Kallischnigg 
G, et.al. Duration of breastfeeding and risk of 
overweight: a meta - analysis. American journal 
of epidemiology. 2005;162(5):397 - 403.
17. Dieu HT, Dibley MJ, Sibbritt D, et.al.
Prevalence of overweight and obesity in 
preschool children and associated socio - 
demographic factors in Ho Chi Minh City, 
Vietnam. Int J Pediatr Obes. 2007;2(1):40 - 50.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
213TCNCYH 126 (2) - 2020
Summary
THE RELATIONSHIP BETWEEN NUTRITIONAL CARE 
PRACTICES IN THE FIRST 1000 DAYS OF EARLY CHILDHOOD 
AND OBESITY STATUS IN PRESCHOOL CHILDREN, 
HOANG MAI - HANOI
Obesity is becoming a global health problem. Obesity is affected by genetic factors, physical activity 
and nutrition, especially in childhood. This study aims to analyze the relationship between obesity and 
the practices of nutritional care in newborns in children under 60 months old at Hoang Mai District, 
Hanoi. This case control study was conducted with 99 children as the study group and 198 children 
as the control group. The results show that factors such as mother’s BMI, formula feeding the first 6 
months and weaning have a statistical significant relationship with obesity in children under 5 years old.
Keywords: obesity, preschool children, the first 1000 days of childhood, Hoang Mai, Hanoi.

File đính kèm:

  • pdfmoi_lien_quan_giua_thuc_hanh_cham_soc_dinh_duong_giai_doan_1.pdf