Mối liên quan giữa rối loạn lipid máu và glucagon-like peptide-1 ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 chẩn đoán lần đầu có thừa cân béo phì

Mục tiêu: Nhằm xác định tỷ lệ rối loạn lipid máu và mối liên quan của nó với nồng độ glucagon-Like peptid-1 ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 chẩn đoán lần đầu có thừa cân béo phì. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 66 bệnh nhân đái tháo đường týp 2 chẩn đoán lần đầu có thừa cân béo phì điều trị nội trú tại Bệnh viện Nội tiết Trung ương. Kết quả: Nồng độ trung bình và tỷ lệ BN rối loạn các thành phần lipid máu lần lượt là: triglyceride (3,01 ± 2,18 mmol/l, tăng là 69,7%), cholesterol (5,49 ± 1,34 mmol/l, tăng là 60,6%), LDL-C (3,27 ± 1,03, tăng là 43,9%), HDL-C (1,20 ± 0,33, giảm là 16,7%), tỷ lệ rối loạn lipid máu nói chung là 84,8%. Có mối tương quan thuận mức độ vừa giữa nồng độ GLP-1 khi đói với triglyceride (r=0,367), tương quan nghịch mức độ vừa với LDL-C (r=-0,312). Có mối tương quan thuận mức độ chặt giữa nồng độ GLP-1 với triglycerid (r=0,647). Kết luận: Bệnh nhân đái tháo đường týp 2 có thừa cân béo phì, tỷ lệ rối loạn lipid máu nói chung cao 84,8%, chủ yếu tăng triglycerid (69,7%). Có mối tương quan thuận giữa nồng độ GLP-1 với triglycerid và tương quan nghịch với LDL-C

pdf 7 trang phuongnguyen 220
Bạn đang xem tài liệu "Mối liên quan giữa rối loạn lipid máu và glucagon-like peptide-1 ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 chẩn đoán lần đầu có thừa cân béo phì", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối liên quan giữa rối loạn lipid máu và glucagon-like peptide-1 ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 chẩn đoán lần đầu có thừa cân béo phì

Mối liên quan giữa rối loạn lipid máu và glucagon-like peptide-1 ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 chẩn đoán lần đầu có thừa cân béo phì
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 38 - Năm 2020. 
53 
MỐI LIÊN QUAN GIỮA RỐI LOẠN LIPID MÁU VÀ 
GLUCAGON-LIKE PEPTIDE-1 Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÝP 2 
CHẨN ĐOÁN LẦN ĐẦU CÓ THỪA CÂN BÉO PHÌ 
Lê Đình Tuân1, Trần Thị Thanh Hóa2, 
Nguyễn Thị Phi Nga3, Nguyễn Tiến Sơn3, Nguyễn Thị Hồ Lan2 
1. Đại học Y Dược Thái Bình 
2. Bệnh viện Nội tiết Trung ương; 3. Học viện Quân Y 
DOI: 10.47122/vjde.2020.38.8 
ABSTRACT 
The correlation between lipid disorder and 
serum glucagon like peptide-1 in newly-
diagnosed type 2 diabetes mellitus patients 
with either overweight or obesity 
Objective:To measure the percentage of 
lipid disorders and the relation between it and 
serum glucagon like peptide-1 levels among 
newly-diagnosed type 2 diabetes mellitus 
patients with either comorbid overweight or 
obesity.Study population and methods: A 
descriptional and cross-sectional study on 66 
newly-diagnosed inpatients with type 2 
diabetes mellitus and either comorbid 
overweight or obesity in the National 
Endocrinology Hospital. Results: Mean levels 
and the proportion of patients for each lipid 
disorder features were as follows: 3.01 ± 2.18 
mmol/l and 69.7% for triglyceride, 5.49 ± 1.34 
mmol/l and 60.6% for cholesterol, 3.27 ± 1.03 
and 43.9% for LDL-C, and 1.20 ± 0.33 and 
16.7% for HDL-C; the overall proportion of 
patients with lipid disorders regardless to 
specified features was 84.8%.There was a 
moderate positive correlation between fasting 
serum GLP-1 and triglyceride levels (r=0.367), 
and a moderate negative correlation with LDL-
C (r=-0.312). There was a strong positive 
correlation between serum GLP-1 and 
triglyceride (r=0.647). Conclusions: Type 2 
diabetes mellitus patients with either 
overweight or obesity suffered from a high 
percentage of overall lipid disorders (84.8%) 
which mostly due to hypertriglyceridemia 
(69.7%). There was a significant positive 
linear relationship between serum GLP-1 
levels and triglyceride and a negative linear 
relationship with LDL-C. 
Keywords: newly-diagnosed patients with 
type 2 diabetes mellitus, glucagon-like peptide-
1, lipid disorders, overweight, and obesity. 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Nhằm xác định tỷ lệ rối loạn 
lipid máu và mối liên quan của nó với nồng độ 
glucagon-like peptid-1 ở bệnh nhân đái tháo 
đường týp 2 chẩn đoán lần đầu có thừa cân béo 
phì. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 
Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 66 bệnh nhân 
đái tháo đường týp 2 chẩn đoán lần đầu có 
thừa cân béo phì điều trị nội trú tại Bệnh viện 
Nội tiết Trung ương. Kết quả: Nồng độ trung 
bình và tỷ lệ BN rối loạn các thành phần lipid 
máu lần lượt là: triglyceride (3,01 ± 2,18 
mmol/l, tăng là 69,7%), cholesterol (5,49 ± 
1,34 mmol/l, tăng là 60,6%), LDL-C (3,27 ± 
1,03, tăng là 43,9%), HDL-C (1,20 ± 0,33, 
giảm là 16,7%), tỷ lệ rối loạn lipid máu nói 
chung là 84,8%. Có mối tương quan thuận 
mức độ vừa giữa nồng độ GLP-1 khi đói với 
triglyceride (r=0,367), tương quan nghịch mức 
độ vừa với LDL-C (r=-0,312). Có mối tương 
quan thuận mức độ chặt giữa nồng độ GLP-1 
với triglycerid (r=0,647). Kết luận: Bệnh nhân 
đái tháo đường týp 2 có thừa cân béo phì, tỷ lệ 
rối loạn lipid máu nói chung cao 84,8%, chủ 
yếu tăng triglycerid (69,7%). Có mối tương 
quan thuận giữa nồng độ GLP-1 với triglycerid 
và tương quan nghịch với LDL-C. 
Từ khóa: đái tháo đường týp 2 chẩn đoán 
lần đầu, glucagon-like peptid-1 rối loạn lipid 
máu, thừa cân béo phì, 
Chịu trách nhiệm chính: Lê Đình Tuân 
Ngày nhận bài: 04/01/2020 
Ngày phản biện khoa học: 13/01/2020 
Ngày duyệt bài: 27/02/2020 
Email: [email protected] 
Điện thoại: 0388166078 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 38 - Năm 2020 
54 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Rối loạn chuyển hóa lipid ở bệnh nhân 
ĐTĐ týp 2 là bệnh lý rất hay gặp, xuất hiện từ 
sớm, gây nên một số các bệnh như tổn thương 
mạch vành, tổn thương cơ tim, bệnh lý mạch 
máu não, bệnh lý mạch máu ngoại vi, tổn 
thương võng mạc, tổn thương thận, tăng 
huyết áp [4] Béo phì nhất là béo phì vùng 
bụng là yếu tố nguy cơ độc lập của tăng huyết 
áp, các bệnh tim mạch, các rối loạn chuyển 
hóa và sau cùng là đái tháo đường. Béo phì 
làm tăng nguy cơ tim mạch thông qua các yếu 
tố nguy cơ như tăng triglyceride huyết tương 
lúc đói, LDL-C, HDL-C, tăng nồng độ 
glucose máu, tăng insulin. Incretin là những 
hormone dạng peptide chúng được tiết vào 
máu chỉ vài phút sau khi thức ăn tác động vào 
niêm mạc ruột [2], [4]. 
Ở người, các Incretin chính bao gồm 
glucagon - like peptide -1 và glucose - 
dependent insulinotroic polypeptide. GLP-1 
được tạo thành ở ruột non và đại tràng nó kích 
thích tiết insulin phụ thuộc vào glucose. 
Incretin có ảnh hưởng đến chuyển hóa lipid, 
tăng cường kết nối thụ thể GLP-1 với ức chế 
DPP-4 làm giảm hấp thu Apolipoprotein B-48 
giàu triglycerid. GLP-1 kiểm soát chuyển hóa 
lipid ở gan, nó làm giảm lượng lipid trong 
gan, đồng thời thúc đẩy sự bộc lộ của các gen 
tham gia điều hòa oxi hóa acid béo [5], [7]... 
Hiện nay, cùng với sự phát triển của kinh tế 
xã hội, tỷ lệ bệnh đái tháo đường týp 2 có 
thừa cân béo phì ngày càng tăng cao song 
song với tình trạng rối loạn lipid máu, tuy 
nhiên, còn ít nghiên cứu đề cập đến vấn đề 
này đặc biệt là ở đối tượng bệnh nhân mới 
được chẩn đoán đường týp 2 lần đầu. Vì vậy, 
chúng tôi tiến hành đề tài này với mục tiêu: 
Khảo sát tỷ lệ rối loạn lipid máu và mối liên 
quan của nó với nồng độ glucagon-like 
peptid-1 ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 
chẩn đoán lần đầu có thừa cân béo phì. 
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
2.1. Đối tượng nghiên cứu 
Gồm 66 bệnh nhân (BN) đái tháo đường 
(ĐTĐ) týp 2 có thừa cân béo phì), tại Bệnh 
viện Nội tiết Trung ương từ 01/2016 đến 
08/2017. 
* Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng nghiên 
cứu: 
- BN ĐTĐ týp 2 phát hiện lần đầu, chưa 
điều trị bằng thuốc hạ glucose máu. 
- Chẩn đoán ĐTĐ theo khuyến cáo của 
ADA năm 2012 [4]. 
- Chẩn đoán ĐTĐ týp 2: theo IDF 2005 
vận dụng phù hợp với Việt Nam [3]. 
- Chẩn đoán thừa cân, béo phì: BN có BMI 
≥ 23 kg/m2 (theo tiêu chuẩn phân loại của 
Hiệp hội ĐTĐ Châu Á - Thái Bình Dương 
2000) [3]. 
* Tiêu chuẩn loại khỏi nghiên cứu 
- BN ĐTĐ týp 1, ĐTĐ có nguyên nhân: 
sỏi tụy, viêm tụy mạn... 
- BN ĐTĐ týp 2 đã điều trị bằng thuốc 
uống hoặc insulin. 
- BN có biến chứng cấp tính hoặc các bệnh 
cấp tính khác, có nhiễm trùng. 
- Viêm gan, suy gan, suy tim, suy thận 
nặng, thiếu máu nặng, ung thư. 
- Phụ nữ có thai, BN già yếu, suy kiệt 
nặng, rối loạn tâm thần. 
- BN không hợp tác, không thu thập đủ chỉ 
tiêu nghiên cứu. 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
- Thiết kế nghiên cứu:tiến cứu, mô tả cắt 
ngang. 
- Nội dung nghiên cứu: tất cả đối tượng 
nghiên cứu được hỏi, thăm khám lâm sàng tỉ 
mỉ, làm các xét nghiệm cận lâm sàng. 
- Hỏi bệnh sử, thăm khám tổng quát cơ 
quan: hô hấp, tuần hoàn, tiết niệu 
- Phân loại tăng huyết áp dựa vào tiêu 
chuẩn JNC VII (2003) [1]. 
- Định lượng các thành phần lipid máu: 
+ Các thành phần: cholesterol toàn phần, 
triglyceride, hight density lipoprotein 
cholesterol: HDL-C, low density lipoprotein 
cholesterol: LDL-C. 
+ Định lượng trên máy AU 680 của Mỹ, 
bằng phương pháp enzym so màu. 
+ Phân loại rối loạn lipid máu theo khuyến 
cáo của Hội Tim Mạch học Việt Nam (2008) 
[1]: tăng cholesterol khi ≥ 5,2 mmol/l; tăng 
triglyceride khi ≥ 1,7; tăng LDL-C khi ≥ 3,1 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 38 - Năm 2020. 
55 
mmol/l; giảm DHL-C khi ≤ 0,9 mmol/l. 
+ Rối loạn lipid máu: được xác định khi có 
rối loạn 1 trong 4 thành phần lipid máu: 
cholesterol toàn phần, triglyceride, HDL-C và 
LDL-C. 
- Định lượng GLP-1: 
Nguyên lý: dựa trên phản ứng đặc hiệu 
giữa kháng thể được gắn ở đáy giếng ELISA 
với kháng nguyên GLP-1 có trong huyết 
thanh, kết hợp với sự chuyển màu của cơ chất 
đặc hiệu trong phản ứng ELISA, đo màu ở 
máy phổ quang kế có bước sóng 450nm. Nơi 
tiến hành tại trung tâm Sinh học Phân tử Học 
viện Quân y. 
Bệnh nhân được lấy máu tĩnh mạch khi 
đói, nhịn ăn ít nhất 8h (nhịn ăn qua 1 đêm) và 
sau bữa ăn sáng 2 giờ để định lượng GLP-1, 
đơn vị tính pmol/l. 
2.3. Xử lý số liệu: Xử lý số liệu bằng phần 
mềm SPSS 16.0. 
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Bảng 1. Đặc điểm về tuổi, giới và chỉ số nhân trắc 
Chỉ tiêu 
Số lượng 
(n = 66) 
Tỷ lệ 
(%) 
Tuổi (năm) 
<60 [n;(%)] 40 60,6 
≥60 [n;(%)] 26 39,4 
Trung bình 57,1 ± 11,1 
Giới 
Nam [n;(%)] 34 51,5 
Nữ [n;(%)] 32 48,5 
BMI 
Thừa cân 36 54,5 
Béo phì 30 45,5 
Trung bình 25,07 ± 1,77 
Tăng huyết áp 27 40,9 
Glucose (mmol/l) 11,39 ± 4,20 
HbA1c (%) 9,12 ± 2,32 
GLP-1 lúc đói (pmol/l) 6,48 ± 2,98 
GLP-1 sau ăn 2 giờ (pmol/l) (n=11) 13,71 ± 5,08 
Nhận xét: Chủ yếu BN dưới 60 tuổi (60,6%), nam nữ tương đương nhau, tỷ lệ BN thừa cân 
cao (54,5%). 
Bảng 2. Đặc điểm về nghiện rượu, tăng huyết áp và rối loạn lipid máu 
Chỉ tiêu 
Số lượng 
(n = 66) 
Tỷ lệ 
(%) 
Cholesterol (mmol/l) 
Tăng 40 60,6 
Trung bình 5,49 ± 1,34 
Triglyceride (mmol/l) 
Tăng 46 69,7 
Trung bình 3,01 ± 2,18 
HDL-C Giảm 11 16,7 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 38 - Năm 2020 
56 
(mmol/l) Trung bình 1,20 ± 0,33 
LDL-C 
(mmol/l) 
Tăng 29 43,9 
Trung bình 3,27 ± 1,03 
Rối loạn lipid máu chung 56 84,8 
Nhận xét: Tỷ lệ BN tăng triglyceride cao nhất (69,7%), tăng cholesterol 60,6%, tăng LDL-C 
là 43,9%, giảm HDL-C thấp nhất (16,7%), tỷ lệ rối loạn lipid máu nói chung cao (84,8%). 
Bảng 3. Liên quan giữa GLP-1 với các thành phần lipid máu 
Các thành phần lipid máu GLP-1 (pmol/l) p 
Cholesterol 
Bình thường (n=26) 6,36 ± 3,26 
>0,05 
Tăng (n=40) 6,56 ± 2,81 
Triglycerid 
Bình thường (n=18) 5,81 ± 3,01 
>0,05 
Tăng (n=46) 6,78 ± 2,85 
HDL-C 
Giảm (n=20) 5,25 ± 2,49 
>0,05 
Bình thường (n=52) 6,66 ± 2,92 
LDL-C 
Tăng (n=24) 5,32 ± 1,79 
<0,01 
Bình thường (n=29) 7,43 ± 3,16 
Rối loạn lipid 
Có (n=24) 6,54 ± 2,98 
>0,05 
Không (n=8) 6,15 ± 3,11 
Nhận xét: Nồng độ GLP-1 trung bình ở nhóm có LDL-C bình thường là 7,43 ± 3,1 (pmol/l) 
cao hơn so với nhóm tăng LDL-C là 5,32 ± 1,79 (pmol/l) p<0,05. 
Biểu đồ 1. Mối tương quan giữa nồng độ GLP-1 khi đói với triglycerid 
Nhận xét: Có mối tương quan thuận mức độ vừa giữa nồng độ GLP-1 với triglycerid 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 38 - Năm 2020. 
57 
(r=0,367, p<0,01). 
Biểu đồ 2. Mối tương quan giữa nồng độ GLP-1 sau ăn 2 giờ với triglycerid 
Nhận xét: Có mối tương quan thuận mức độ chặt giữa nồng độ GLP-1 với triglycerid 
(r=0,647, p<0,001). 
Biểu đồ 3. Mối tương quan giữa nồng độ GLP-1 với LDL-C 
Nhận xét:Có mối tương quan nghịch mức độ vừa giữa nồng độ GLP-1 với triglycerid (r=-
0,312, p<0,01). 
4. BÀN LUẬN 
Các nghiên cứu cho thấy rối loạn lippid 
máu ở BN ĐTĐ týp 2 làm tăng nguy cơ xơ 
vữa mạch máu, gây nhồi máu cơ tim và đột 
quỵ. Theo Trung tâm phòng ngừa và kiểm 
soát bệnh tật Hoa Kỳ cho thấy khoảng 70 - 
90% BN ĐTĐ týp 2 có rối loạn lipid máu, rối 
loạn lipid máu làm tăng nguy cơ bệnh mạch 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 38 - Năm 2020 
58 
vành từ 2-4 lần, trong thử nghiệm can thiệp 
đa yếu tố nguy cơ cho thấy tăng cholesterol, 
hút thuốc lá, tăng huyết áp là yếu tố nguy cơ 
cao bệnh tim mạch ở người ĐTĐ, nhất là tăng 
triglycerid và giảm HDL-C được xem là dấu 
hiệu chỉ điểm quan trọng bệnh mạch vành ở 
BN ĐTĐ týp 2 [4]. Trong nghiên cứu của 
chúng tôi tỷ lệ BN ĐTĐ týp 2 có thừa cân béo 
phì tỷ lệ BN tăng triglyceride cao nhất 
(69,7%), tăng cholesterol 60,6%, tăng LDL-C 
là 43,9%, giảm HDL-C thấp nhất (16,7%), tỷ 
lệ rối loạn lipid máu nói chung cao (84,8%). 
Các nghiên cứu đã chỉ rằng, rối loạn chuyển 
hóa glucose hay đi song hành với rối loạn 
lipid, hai quá trình này tạo nên vòng xoắn 
bệnh lý rối loạn chuyển hóa ở BN ĐTĐ sản 
sinh các stress oxi hóa là xuất hiện và tăng sự 
tiến triển của các biến chứng mạn tính. Theo 
Trần Đức Thọ trong các công trình nghiên 
cứu của mình từ 1996 - 1998 cho thấy 100% 
bệnh nhân ĐTĐ týp 2 có rối loạn lipid máu 
trong đó tăng tỷ số CT/HDL-C gặp nhiều nhất 
chiếm 94,59%, sau đó đến giảm HDL-C và 
tăng triglyceride lần lượt 91,89% và 81,82%. 
Nguyễn Thị Phi Nga [2] thấy tỷ lệ rối loạn 
lipid máu chung là 81,2%, tăng cholesterol 
(54,7%), tăng LDL-C (50,4%), tăng 
triglycerid (42,7%), giảm HDL-C (9,4%). 
Nguyễn Thị Thu Thảo [3] thấy tỷ lệ rối loạn 
lipid máu chiếm 86,8%, tăng cholesterol 
(60,4%) và tăng triglycerid (51,3%). 
Teimoury A và cộng sự [4] thấy rối loạn lipid 
máu ở BN ĐTĐ týp 2 xuất hiện sớm, nghiên 
cứu trên 310 BN ĐTĐ týp 2 mới phát hiện 
thấy tăng cholesterol chiếm 61,3%, tăng 
triglycerid chiếm 61,6%, tăng LDL-C chiếm 
77,3% và giảm HDL-C là 67,8%, vì thế bắt 
buộc phải kiểm tra lipid máu cho BN ĐTĐ 
týp 2 ngay khi mới được chẩn đoán. 
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy có mối 
tương quan thuận giữa nồng độ GLP-1 cả lúc 
đói và sau ăn với triglycerid (p<0,01), nồng 
độ GLP-1 trung bình ở nhóm có LDL-C bình 
thường cao hơn có ý nghĩa thống kê so với 
nhóm tăng LDL-C (p<0,05). Nghiên cứu của 
nhiều tác giả có kết quả khác nhau: nghiên 
cứu của Minako Yamaoka-Tojo và cs [10] 
nhận thấy nồng độ GLP-1 có tương quan 
thuận với LDL-C ở đối tượng BN tiền hội 
chứng chuyển hóa (r=0,243, p<0,05), tương 
quan nghịch với HDL-C (r=-0,229, p<0,05), 
không có tương quan với LDL-C (r=0,204, 
p<0,05). Tác giả Marian Alssema và cs 
(2013) [7] nghiên cứu trên 163 đối tượng có 
dung nạp GM bình thường, 20 BN có tăng 
GM và 20 BN ĐTĐ týp 2, kết quả nghiên cứu 
cho thấy không thấy có mối liên quan giữa 
nồng độ GLP-1 khi đói với triglyceride. Tuy 
nhiên có mối tương quan giữa sự biến thiên 
nồng độ GLP-1 theo thời gian sau khi sử dụng 
glucose bằng đường uống với triglycerid lúc 
đói và cả sau ăn. Kirsten Vollmer và cs [8] 
thấy nồng độ GLP-1 có mối tương quan thuận 
mức độ vừa với nồng độ acid béo tự do máu 
khi đói (r=0,39, p=0,006). 
Katja Piotrowski và cs (2013) [9] thấy có 
mối tương quan thuận giữa GLP-1 với nồng 
độ triglycerid máu (r=0,35, 95%CI (0,18 - 
0,52)). Nghiên cứu của Fang Zhang và cs 
(2012) [6], thực hiện trên 531 đối tượng 
(người bình thường, người có rối loạn dung 
nạp glucose và BN ĐTĐ týp 2 mới chẩn 
đoán) thấy nồng độ GLP-1 khi đói có mối 
tương quan thuận với HDL-C (p=0,037). 
Bethany P. Cummings và cs (2010), nghiên 
cứu đã sử dụng liraglutide để điều trị BN 
ĐTĐ týp 2 kết quả thấy, sử dụng liraglutide là 
tăng nồng độ GLP-1 máu, làm giảm 
triglyceride máu, và giảm tình trạng gan 
nhiễm mỡ. 
Như vậy, qua các nghiên cứu thấy 
triglycerid là một yếu tố kích thích bài tiết 
GLP-1 khi đói, điều này phù hợp với lý 
thuyết và trong thực tế nồng độ GLP-1 tăng 
nhanh sau các bữa ăn giàu lipid [5]. Bên cạnh 
đó, khi phân tích mối liên quan với HDL-C và 
LDL-C thì thấy giảm ở các đối tượng có rối 
loạn chuyển hóa 2 yếu tố này, điều này có thể 
cho thấy, HDL-C, LDL-C không tham gia vào 
cơ kích thích bài tiết GLP-1 mà nhiều hơn là 
hậu quả song song với tình trạng giảm GLP-
1. Như vậy, mối liên quan giữa tình trạng lipd 
máu với nồng độ GLP-1 có sự khác nhau ở 
các nghiên cứu. Sự khác nhau này có thể do 
sự khác nhau trong cách lựa chọn đối tượng 
nghiên cứu. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu đã 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 38 - Năm 2020. 
59 
thừa nhận GLP-1 có vai trò quan trọng trong 
điều chỉnh lipid máu ở BN ĐTĐ... 
5. KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu kháng insulin ở 66 BN 
ĐTĐ týp 2 chẩn đoán lần đầu có thừa cân béo 
phì chúng tôi rút ra một số kết luận: 
 Tình trạng rối loạn lipid máu 
Nồng độ trung bình và tỷ lệ BN rối loạn 
các thành phần lipid máu lần lượt là: 
triglyceride (3,01 ± 2,18 mmol/l, tăng là 
69,7%), cholesterol (5,49 ± 1,34 mmol/l, tăng 
là 60,6%), LDL-C (3,27 ± 1,03, tăng là 
43,9%), HDL-C (1,20 ± 0,33, giảm 16,7%), tỷ 
lệ rối loạn lipid máu nói chung là 84,8%. 
 Mối liên quan giữa lipid máu với 
GLP-1 
Nồng độ GLP-1 trung bình ở nhóm có 
LDL-C bình thường (7,43 ± 3,1 pmol/l) cao 
hơn so với nhóm tăng LDL-C (5,32 ± 1,79 
pmol/l), (p<0,05. Có mối tương quan thuận 
mức độ vừa giữa nồng độ GLP-1 khi đói với 
triglyceride (r=0,367), tương quan nghịch 
mức độ vừa với LDL-C (r=-0,312). Có mối 
tương quan thuận mức độ chặt giữa nồng độ 
GLP-1 với triglycerid (r=0,647). 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Hội Tim mạch học Việt Nam (2008), 
“Khuyến cáo 2008 của hội tim mạch học 
Việt Nam về chẩn đoán, điều trị tăng 
huyết áp ở người lớn”,Khuyến cáo về các 
bệnh lí tim mạch và chuyển hóa giai 
đoạn 2006-2010, tr. 1-62. 
2. Nguyễn Thị Phi Nga (2009), Nghiên 
cứu nồng độ TNFα, CRP huyết thanh và 
liên quan với hình thái, chức năng động 
mạch cảnh gốc bằng siêu âm doppler 
mạch ở BN ĐTĐ týp 2, Luận án Tiến sỹ 
Y học, Học viện Quân Y. 
3. Nguyễn Thị Thu Thảo (2012), Nghiên 
cứu đặc điểm lâm sàng và tình trạng 
kháng insulin trên bệnh nhân đái tháo 
đường týp 2 mới chẩn đoán, Luận án 
Tiến sĩ Y học, Học viện Quân Y. 
4. ADA. (2012), “Standards of Medical 
Care in Diabetes - 2012” Diabetes Care 
35(Suppl. 1): pp.S11 - S63. 
5. Diva De Leon, Michael Crutchlow et 
al (2006), “Role of GLP-1 in the 
pathogenthesis and treatment of diabetes 
mellitus”,The International Journal of 
Biochemistry and Cell Biology, 38, pp. 
845-859. 
6. Fang Zhang, Xialian Tang, Hongyl 
Cao et al (2012), “Impaired secretion of 
total GLP-1 in people with impaired 
fasting glucose combined impaired 
glucose tolerance”,Medical Sciences, 
9(7), pp. 574-581. 
7. Marjan Alssema, et al. (2013), 
“Preserved GLP-1 and exaggerated GIP 
in type 2 diabetes and relationships with 
triglycerides and ALT”, Endocrinology 
169, pp. 421-430. 
8. Kristen Vollmer, et al. (2008), 
“Predictors of incretin concentrations in 
subjects with normal, impaired, and 
diabetic glucose tolerance”, Diabetes 57, 
pp. 678-686. 
9. Katia Piotrowski, et al. (2013), 
“Circulating concentration of GLP-1 are 
associated with coronary atherosclerosis 
in humans”, Cardiovascular Diabetology 
12(117), pp. 1-7. 
10. Tojo M.Y., Tojo T., and Takahira N. 
(2010), “Elevated circulating levels of an 
incretin hormone, GLP-1, are associated 
with metabolic components in high - risk 
patients with cardiovascular disease”, 
Cardiovascular Diabetology. 9(17): 
pp.1- 10. 

File đính kèm:

  • pdfmoi_lien_quan_giua_roi_loan_lipid_mau_va_glucagon_like_pepti.pdf