Mối liên quan giữa rối loạn lipid máu và glucagon-like peptide-1 ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 chẩn đoán lần đầu có thừa cân béo phì
Mục tiêu: Nhằm xác định tỷ lệ rối loạn lipid máu và mối liên quan của nó với nồng độ glucagon-Like peptid-1 ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 chẩn đoán lần đầu có thừa cân béo phì. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 66 bệnh nhân đái tháo đường týp 2 chẩn đoán lần đầu có thừa cân béo phì điều trị nội trú tại Bệnh viện Nội tiết Trung ương. Kết quả: Nồng độ trung bình và tỷ lệ BN rối loạn các thành phần lipid máu lần lượt là: triglyceride (3,01 ± 2,18 mmol/l, tăng là 69,7%), cholesterol (5,49 ± 1,34 mmol/l, tăng là 60,6%), LDL-C (3,27 ± 1,03, tăng là 43,9%), HDL-C (1,20 ± 0,33, giảm là 16,7%), tỷ lệ rối loạn lipid máu nói chung là 84,8%. Có mối tương quan thuận mức độ vừa giữa nồng độ GLP-1 khi đói với triglyceride (r=0,367), tương quan nghịch mức độ vừa với LDL-C (r=-0,312). Có mối tương quan thuận mức độ chặt giữa nồng độ GLP-1 với triglycerid (r=0,647). Kết luận: Bệnh nhân đái tháo đường týp 2 có thừa cân béo phì, tỷ lệ rối loạn lipid máu nói chung cao 84,8%, chủ yếu tăng triglycerid (69,7%). Có mối tương quan thuận giữa nồng độ GLP-1 với triglycerid và tương quan nghịch với LDL-C
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối liên quan giữa rối loạn lipid máu và glucagon-like peptide-1 ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 chẩn đoán lần đầu có thừa cân béo phì
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 38 - Năm 2020. 53 MỐI LIÊN QUAN GIỮA RỐI LOẠN LIPID MÁU VÀ GLUCAGON-LIKE PEPTIDE-1 Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÝP 2 CHẨN ĐOÁN LẦN ĐẦU CÓ THỪA CÂN BÉO PHÌ Lê Đình Tuân1, Trần Thị Thanh Hóa2, Nguyễn Thị Phi Nga3, Nguyễn Tiến Sơn3, Nguyễn Thị Hồ Lan2 1. Đại học Y Dược Thái Bình 2. Bệnh viện Nội tiết Trung ương; 3. Học viện Quân Y DOI: 10.47122/vjde.2020.38.8 ABSTRACT The correlation between lipid disorder and serum glucagon like peptide-1 in newly- diagnosed type 2 diabetes mellitus patients with either overweight or obesity Objective:To measure the percentage of lipid disorders and the relation between it and serum glucagon like peptide-1 levels among newly-diagnosed type 2 diabetes mellitus patients with either comorbid overweight or obesity.Study population and methods: A descriptional and cross-sectional study on 66 newly-diagnosed inpatients with type 2 diabetes mellitus and either comorbid overweight or obesity in the National Endocrinology Hospital. Results: Mean levels and the proportion of patients for each lipid disorder features were as follows: 3.01 ± 2.18 mmol/l and 69.7% for triglyceride, 5.49 ± 1.34 mmol/l and 60.6% for cholesterol, 3.27 ± 1.03 and 43.9% for LDL-C, and 1.20 ± 0.33 and 16.7% for HDL-C; the overall proportion of patients with lipid disorders regardless to specified features was 84.8%.There was a moderate positive correlation between fasting serum GLP-1 and triglyceride levels (r=0.367), and a moderate negative correlation with LDL- C (r=-0.312). There was a strong positive correlation between serum GLP-1 and triglyceride (r=0.647). Conclusions: Type 2 diabetes mellitus patients with either overweight or obesity suffered from a high percentage of overall lipid disorders (84.8%) which mostly due to hypertriglyceridemia (69.7%). There was a significant positive linear relationship between serum GLP-1 levels and triglyceride and a negative linear relationship with LDL-C. Keywords: newly-diagnosed patients with type 2 diabetes mellitus, glucagon-like peptide- 1, lipid disorders, overweight, and obesity. TÓM TẮT Mục tiêu: Nhằm xác định tỷ lệ rối loạn lipid máu và mối liên quan của nó với nồng độ glucagon-like peptid-1 ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 chẩn đoán lần đầu có thừa cân béo phì. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 66 bệnh nhân đái tháo đường týp 2 chẩn đoán lần đầu có thừa cân béo phì điều trị nội trú tại Bệnh viện Nội tiết Trung ương. Kết quả: Nồng độ trung bình và tỷ lệ BN rối loạn các thành phần lipid máu lần lượt là: triglyceride (3,01 ± 2,18 mmol/l, tăng là 69,7%), cholesterol (5,49 ± 1,34 mmol/l, tăng là 60,6%), LDL-C (3,27 ± 1,03, tăng là 43,9%), HDL-C (1,20 ± 0,33, giảm là 16,7%), tỷ lệ rối loạn lipid máu nói chung là 84,8%. Có mối tương quan thuận mức độ vừa giữa nồng độ GLP-1 khi đói với triglyceride (r=0,367), tương quan nghịch mức độ vừa với LDL-C (r=-0,312). Có mối tương quan thuận mức độ chặt giữa nồng độ GLP-1 với triglycerid (r=0,647). Kết luận: Bệnh nhân đái tháo đường týp 2 có thừa cân béo phì, tỷ lệ rối loạn lipid máu nói chung cao 84,8%, chủ yếu tăng triglycerid (69,7%). Có mối tương quan thuận giữa nồng độ GLP-1 với triglycerid và tương quan nghịch với LDL-C. Từ khóa: đái tháo đường týp 2 chẩn đoán lần đầu, glucagon-like peptid-1 rối loạn lipid máu, thừa cân béo phì, Chịu trách nhiệm chính: Lê Đình Tuân Ngày nhận bài: 04/01/2020 Ngày phản biện khoa học: 13/01/2020 Ngày duyệt bài: 27/02/2020 Email: [email protected] Điện thoại: 0388166078 Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 38 - Năm 2020 54 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Rối loạn chuyển hóa lipid ở bệnh nhân ĐTĐ týp 2 là bệnh lý rất hay gặp, xuất hiện từ sớm, gây nên một số các bệnh như tổn thương mạch vành, tổn thương cơ tim, bệnh lý mạch máu não, bệnh lý mạch máu ngoại vi, tổn thương võng mạc, tổn thương thận, tăng huyết áp [4] Béo phì nhất là béo phì vùng bụng là yếu tố nguy cơ độc lập của tăng huyết áp, các bệnh tim mạch, các rối loạn chuyển hóa và sau cùng là đái tháo đường. Béo phì làm tăng nguy cơ tim mạch thông qua các yếu tố nguy cơ như tăng triglyceride huyết tương lúc đói, LDL-C, HDL-C, tăng nồng độ glucose máu, tăng insulin. Incretin là những hormone dạng peptide chúng được tiết vào máu chỉ vài phút sau khi thức ăn tác động vào niêm mạc ruột [2], [4]. Ở người, các Incretin chính bao gồm glucagon - like peptide -1 và glucose - dependent insulinotroic polypeptide. GLP-1 được tạo thành ở ruột non và đại tràng nó kích thích tiết insulin phụ thuộc vào glucose. Incretin có ảnh hưởng đến chuyển hóa lipid, tăng cường kết nối thụ thể GLP-1 với ức chế DPP-4 làm giảm hấp thu Apolipoprotein B-48 giàu triglycerid. GLP-1 kiểm soát chuyển hóa lipid ở gan, nó làm giảm lượng lipid trong gan, đồng thời thúc đẩy sự bộc lộ của các gen tham gia điều hòa oxi hóa acid béo [5], [7]... Hiện nay, cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, tỷ lệ bệnh đái tháo đường týp 2 có thừa cân béo phì ngày càng tăng cao song song với tình trạng rối loạn lipid máu, tuy nhiên, còn ít nghiên cứu đề cập đến vấn đề này đặc biệt là ở đối tượng bệnh nhân mới được chẩn đoán đường týp 2 lần đầu. Vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài này với mục tiêu: Khảo sát tỷ lệ rối loạn lipid máu và mối liên quan của nó với nồng độ glucagon-like peptid-1 ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 chẩn đoán lần đầu có thừa cân béo phì. 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu Gồm 66 bệnh nhân (BN) đái tháo đường (ĐTĐ) týp 2 có thừa cân béo phì), tại Bệnh viện Nội tiết Trung ương từ 01/2016 đến 08/2017. * Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng nghiên cứu: - BN ĐTĐ týp 2 phát hiện lần đầu, chưa điều trị bằng thuốc hạ glucose máu. - Chẩn đoán ĐTĐ theo khuyến cáo của ADA năm 2012 [4]. - Chẩn đoán ĐTĐ týp 2: theo IDF 2005 vận dụng phù hợp với Việt Nam [3]. - Chẩn đoán thừa cân, béo phì: BN có BMI ≥ 23 kg/m2 (theo tiêu chuẩn phân loại của Hiệp hội ĐTĐ Châu Á - Thái Bình Dương 2000) [3]. * Tiêu chuẩn loại khỏi nghiên cứu - BN ĐTĐ týp 1, ĐTĐ có nguyên nhân: sỏi tụy, viêm tụy mạn... - BN ĐTĐ týp 2 đã điều trị bằng thuốc uống hoặc insulin. - BN có biến chứng cấp tính hoặc các bệnh cấp tính khác, có nhiễm trùng. - Viêm gan, suy gan, suy tim, suy thận nặng, thiếu máu nặng, ung thư. - Phụ nữ có thai, BN già yếu, suy kiệt nặng, rối loạn tâm thần. - BN không hợp tác, không thu thập đủ chỉ tiêu nghiên cứu. 2.2. Phương pháp nghiên cứu - Thiết kế nghiên cứu:tiến cứu, mô tả cắt ngang. - Nội dung nghiên cứu: tất cả đối tượng nghiên cứu được hỏi, thăm khám lâm sàng tỉ mỉ, làm các xét nghiệm cận lâm sàng. - Hỏi bệnh sử, thăm khám tổng quát cơ quan: hô hấp, tuần hoàn, tiết niệu - Phân loại tăng huyết áp dựa vào tiêu chuẩn JNC VII (2003) [1]. - Định lượng các thành phần lipid máu: + Các thành phần: cholesterol toàn phần, triglyceride, hight density lipoprotein cholesterol: HDL-C, low density lipoprotein cholesterol: LDL-C. + Định lượng trên máy AU 680 của Mỹ, bằng phương pháp enzym so màu. + Phân loại rối loạn lipid máu theo khuyến cáo của Hội Tim Mạch học Việt Nam (2008) [1]: tăng cholesterol khi ≥ 5,2 mmol/l; tăng triglyceride khi ≥ 1,7; tăng LDL-C khi ≥ 3,1 Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 38 - Năm 2020. 55 mmol/l; giảm DHL-C khi ≤ 0,9 mmol/l. + Rối loạn lipid máu: được xác định khi có rối loạn 1 trong 4 thành phần lipid máu: cholesterol toàn phần, triglyceride, HDL-C và LDL-C. - Định lượng GLP-1: Nguyên lý: dựa trên phản ứng đặc hiệu giữa kháng thể được gắn ở đáy giếng ELISA với kháng nguyên GLP-1 có trong huyết thanh, kết hợp với sự chuyển màu của cơ chất đặc hiệu trong phản ứng ELISA, đo màu ở máy phổ quang kế có bước sóng 450nm. Nơi tiến hành tại trung tâm Sinh học Phân tử Học viện Quân y. Bệnh nhân được lấy máu tĩnh mạch khi đói, nhịn ăn ít nhất 8h (nhịn ăn qua 1 đêm) và sau bữa ăn sáng 2 giờ để định lượng GLP-1, đơn vị tính pmol/l. 2.3. Xử lý số liệu: Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0. 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Bảng 1. Đặc điểm về tuổi, giới và chỉ số nhân trắc Chỉ tiêu Số lượng (n = 66) Tỷ lệ (%) Tuổi (năm) <60 [n;(%)] 40 60,6 ≥60 [n;(%)] 26 39,4 Trung bình 57,1 ± 11,1 Giới Nam [n;(%)] 34 51,5 Nữ [n;(%)] 32 48,5 BMI Thừa cân 36 54,5 Béo phì 30 45,5 Trung bình 25,07 ± 1,77 Tăng huyết áp 27 40,9 Glucose (mmol/l) 11,39 ± 4,20 HbA1c (%) 9,12 ± 2,32 GLP-1 lúc đói (pmol/l) 6,48 ± 2,98 GLP-1 sau ăn 2 giờ (pmol/l) (n=11) 13,71 ± 5,08 Nhận xét: Chủ yếu BN dưới 60 tuổi (60,6%), nam nữ tương đương nhau, tỷ lệ BN thừa cân cao (54,5%). Bảng 2. Đặc điểm về nghiện rượu, tăng huyết áp và rối loạn lipid máu Chỉ tiêu Số lượng (n = 66) Tỷ lệ (%) Cholesterol (mmol/l) Tăng 40 60,6 Trung bình 5,49 ± 1,34 Triglyceride (mmol/l) Tăng 46 69,7 Trung bình 3,01 ± 2,18 HDL-C Giảm 11 16,7 Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 38 - Năm 2020 56 (mmol/l) Trung bình 1,20 ± 0,33 LDL-C (mmol/l) Tăng 29 43,9 Trung bình 3,27 ± 1,03 Rối loạn lipid máu chung 56 84,8 Nhận xét: Tỷ lệ BN tăng triglyceride cao nhất (69,7%), tăng cholesterol 60,6%, tăng LDL-C là 43,9%, giảm HDL-C thấp nhất (16,7%), tỷ lệ rối loạn lipid máu nói chung cao (84,8%). Bảng 3. Liên quan giữa GLP-1 với các thành phần lipid máu Các thành phần lipid máu GLP-1 (pmol/l) p Cholesterol Bình thường (n=26) 6,36 ± 3,26 >0,05 Tăng (n=40) 6,56 ± 2,81 Triglycerid Bình thường (n=18) 5,81 ± 3,01 >0,05 Tăng (n=46) 6,78 ± 2,85 HDL-C Giảm (n=20) 5,25 ± 2,49 >0,05 Bình thường (n=52) 6,66 ± 2,92 LDL-C Tăng (n=24) 5,32 ± 1,79 <0,01 Bình thường (n=29) 7,43 ± 3,16 Rối loạn lipid Có (n=24) 6,54 ± 2,98 >0,05 Không (n=8) 6,15 ± 3,11 Nhận xét: Nồng độ GLP-1 trung bình ở nhóm có LDL-C bình thường là 7,43 ± 3,1 (pmol/l) cao hơn so với nhóm tăng LDL-C là 5,32 ± 1,79 (pmol/l) p<0,05. Biểu đồ 1. Mối tương quan giữa nồng độ GLP-1 khi đói với triglycerid Nhận xét: Có mối tương quan thuận mức độ vừa giữa nồng độ GLP-1 với triglycerid Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 38 - Năm 2020. 57 (r=0,367, p<0,01). Biểu đồ 2. Mối tương quan giữa nồng độ GLP-1 sau ăn 2 giờ với triglycerid Nhận xét: Có mối tương quan thuận mức độ chặt giữa nồng độ GLP-1 với triglycerid (r=0,647, p<0,001). Biểu đồ 3. Mối tương quan giữa nồng độ GLP-1 với LDL-C Nhận xét:Có mối tương quan nghịch mức độ vừa giữa nồng độ GLP-1 với triglycerid (r=- 0,312, p<0,01). 4. BÀN LUẬN Các nghiên cứu cho thấy rối loạn lippid máu ở BN ĐTĐ týp 2 làm tăng nguy cơ xơ vữa mạch máu, gây nhồi máu cơ tim và đột quỵ. Theo Trung tâm phòng ngừa và kiểm soát bệnh tật Hoa Kỳ cho thấy khoảng 70 - 90% BN ĐTĐ týp 2 có rối loạn lipid máu, rối loạn lipid máu làm tăng nguy cơ bệnh mạch Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 38 - Năm 2020 58 vành từ 2-4 lần, trong thử nghiệm can thiệp đa yếu tố nguy cơ cho thấy tăng cholesterol, hút thuốc lá, tăng huyết áp là yếu tố nguy cơ cao bệnh tim mạch ở người ĐTĐ, nhất là tăng triglycerid và giảm HDL-C được xem là dấu hiệu chỉ điểm quan trọng bệnh mạch vành ở BN ĐTĐ týp 2 [4]. Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ BN ĐTĐ týp 2 có thừa cân béo phì tỷ lệ BN tăng triglyceride cao nhất (69,7%), tăng cholesterol 60,6%, tăng LDL-C là 43,9%, giảm HDL-C thấp nhất (16,7%), tỷ lệ rối loạn lipid máu nói chung cao (84,8%). Các nghiên cứu đã chỉ rằng, rối loạn chuyển hóa glucose hay đi song hành với rối loạn lipid, hai quá trình này tạo nên vòng xoắn bệnh lý rối loạn chuyển hóa ở BN ĐTĐ sản sinh các stress oxi hóa là xuất hiện và tăng sự tiến triển của các biến chứng mạn tính. Theo Trần Đức Thọ trong các công trình nghiên cứu của mình từ 1996 - 1998 cho thấy 100% bệnh nhân ĐTĐ týp 2 có rối loạn lipid máu trong đó tăng tỷ số CT/HDL-C gặp nhiều nhất chiếm 94,59%, sau đó đến giảm HDL-C và tăng triglyceride lần lượt 91,89% và 81,82%. Nguyễn Thị Phi Nga [2] thấy tỷ lệ rối loạn lipid máu chung là 81,2%, tăng cholesterol (54,7%), tăng LDL-C (50,4%), tăng triglycerid (42,7%), giảm HDL-C (9,4%). Nguyễn Thị Thu Thảo [3] thấy tỷ lệ rối loạn lipid máu chiếm 86,8%, tăng cholesterol (60,4%) và tăng triglycerid (51,3%). Teimoury A và cộng sự [4] thấy rối loạn lipid máu ở BN ĐTĐ týp 2 xuất hiện sớm, nghiên cứu trên 310 BN ĐTĐ týp 2 mới phát hiện thấy tăng cholesterol chiếm 61,3%, tăng triglycerid chiếm 61,6%, tăng LDL-C chiếm 77,3% và giảm HDL-C là 67,8%, vì thế bắt buộc phải kiểm tra lipid máu cho BN ĐTĐ týp 2 ngay khi mới được chẩn đoán. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy có mối tương quan thuận giữa nồng độ GLP-1 cả lúc đói và sau ăn với triglycerid (p<0,01), nồng độ GLP-1 trung bình ở nhóm có LDL-C bình thường cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm tăng LDL-C (p<0,05). Nghiên cứu của nhiều tác giả có kết quả khác nhau: nghiên cứu của Minako Yamaoka-Tojo và cs [10] nhận thấy nồng độ GLP-1 có tương quan thuận với LDL-C ở đối tượng BN tiền hội chứng chuyển hóa (r=0,243, p<0,05), tương quan nghịch với HDL-C (r=-0,229, p<0,05), không có tương quan với LDL-C (r=0,204, p<0,05). Tác giả Marian Alssema và cs (2013) [7] nghiên cứu trên 163 đối tượng có dung nạp GM bình thường, 20 BN có tăng GM và 20 BN ĐTĐ týp 2, kết quả nghiên cứu cho thấy không thấy có mối liên quan giữa nồng độ GLP-1 khi đói với triglyceride. Tuy nhiên có mối tương quan giữa sự biến thiên nồng độ GLP-1 theo thời gian sau khi sử dụng glucose bằng đường uống với triglycerid lúc đói và cả sau ăn. Kirsten Vollmer và cs [8] thấy nồng độ GLP-1 có mối tương quan thuận mức độ vừa với nồng độ acid béo tự do máu khi đói (r=0,39, p=0,006). Katja Piotrowski và cs (2013) [9] thấy có mối tương quan thuận giữa GLP-1 với nồng độ triglycerid máu (r=0,35, 95%CI (0,18 - 0,52)). Nghiên cứu của Fang Zhang và cs (2012) [6], thực hiện trên 531 đối tượng (người bình thường, người có rối loạn dung nạp glucose và BN ĐTĐ týp 2 mới chẩn đoán) thấy nồng độ GLP-1 khi đói có mối tương quan thuận với HDL-C (p=0,037). Bethany P. Cummings và cs (2010), nghiên cứu đã sử dụng liraglutide để điều trị BN ĐTĐ týp 2 kết quả thấy, sử dụng liraglutide là tăng nồng độ GLP-1 máu, làm giảm triglyceride máu, và giảm tình trạng gan nhiễm mỡ. Như vậy, qua các nghiên cứu thấy triglycerid là một yếu tố kích thích bài tiết GLP-1 khi đói, điều này phù hợp với lý thuyết và trong thực tế nồng độ GLP-1 tăng nhanh sau các bữa ăn giàu lipid [5]. Bên cạnh đó, khi phân tích mối liên quan với HDL-C và LDL-C thì thấy giảm ở các đối tượng có rối loạn chuyển hóa 2 yếu tố này, điều này có thể cho thấy, HDL-C, LDL-C không tham gia vào cơ kích thích bài tiết GLP-1 mà nhiều hơn là hậu quả song song với tình trạng giảm GLP- 1. Như vậy, mối liên quan giữa tình trạng lipd máu với nồng độ GLP-1 có sự khác nhau ở các nghiên cứu. Sự khác nhau này có thể do sự khác nhau trong cách lựa chọn đối tượng nghiên cứu. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu đã Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 38 - Năm 2020. 59 thừa nhận GLP-1 có vai trò quan trọng trong điều chỉnh lipid máu ở BN ĐTĐ... 5. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu kháng insulin ở 66 BN ĐTĐ týp 2 chẩn đoán lần đầu có thừa cân béo phì chúng tôi rút ra một số kết luận: Tình trạng rối loạn lipid máu Nồng độ trung bình và tỷ lệ BN rối loạn các thành phần lipid máu lần lượt là: triglyceride (3,01 ± 2,18 mmol/l, tăng là 69,7%), cholesterol (5,49 ± 1,34 mmol/l, tăng là 60,6%), LDL-C (3,27 ± 1,03, tăng là 43,9%), HDL-C (1,20 ± 0,33, giảm 16,7%), tỷ lệ rối loạn lipid máu nói chung là 84,8%. Mối liên quan giữa lipid máu với GLP-1 Nồng độ GLP-1 trung bình ở nhóm có LDL-C bình thường (7,43 ± 3,1 pmol/l) cao hơn so với nhóm tăng LDL-C (5,32 ± 1,79 pmol/l), (p<0,05. Có mối tương quan thuận mức độ vừa giữa nồng độ GLP-1 khi đói với triglyceride (r=0,367), tương quan nghịch mức độ vừa với LDL-C (r=-0,312). Có mối tương quan thuận mức độ chặt giữa nồng độ GLP-1 với triglycerid (r=0,647). TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hội Tim mạch học Việt Nam (2008), “Khuyến cáo 2008 của hội tim mạch học Việt Nam về chẩn đoán, điều trị tăng huyết áp ở người lớn”,Khuyến cáo về các bệnh lí tim mạch và chuyển hóa giai đoạn 2006-2010, tr. 1-62. 2. Nguyễn Thị Phi Nga (2009), Nghiên cứu nồng độ TNFα, CRP huyết thanh và liên quan với hình thái, chức năng động mạch cảnh gốc bằng siêu âm doppler mạch ở BN ĐTĐ týp 2, Luận án Tiến sỹ Y học, Học viện Quân Y. 3. Nguyễn Thị Thu Thảo (2012), Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và tình trạng kháng insulin trên bệnh nhân đái tháo đường týp 2 mới chẩn đoán, Luận án Tiến sĩ Y học, Học viện Quân Y. 4. ADA. (2012), “Standards of Medical Care in Diabetes - 2012” Diabetes Care 35(Suppl. 1): pp.S11 - S63. 5. Diva De Leon, Michael Crutchlow et al (2006), “Role of GLP-1 in the pathogenthesis and treatment of diabetes mellitus”,The International Journal of Biochemistry and Cell Biology, 38, pp. 845-859. 6. Fang Zhang, Xialian Tang, Hongyl Cao et al (2012), “Impaired secretion of total GLP-1 in people with impaired fasting glucose combined impaired glucose tolerance”,Medical Sciences, 9(7), pp. 574-581. 7. Marjan Alssema, et al. (2013), “Preserved GLP-1 and exaggerated GIP in type 2 diabetes and relationships with triglycerides and ALT”, Endocrinology 169, pp. 421-430. 8. Kristen Vollmer, et al. (2008), “Predictors of incretin concentrations in subjects with normal, impaired, and diabetic glucose tolerance”, Diabetes 57, pp. 678-686. 9. Katia Piotrowski, et al. (2013), “Circulating concentration of GLP-1 are associated with coronary atherosclerosis in humans”, Cardiovascular Diabetology 12(117), pp. 1-7. 10. Tojo M.Y., Tojo T., and Takahira N. (2010), “Elevated circulating levels of an incretin hormone, GLP-1, are associated with metabolic components in high - risk patients with cardiovascular disease”, Cardiovascular Diabetology. 9(17): pp.1- 10.
File đính kèm:
moi_lien_quan_giua_roi_loan_lipid_mau_va_glucagon_like_pepti.pdf

