Mối liên quan giữa nồng độ homocystein máu với một số yếu tố nguy cơ tim mạch ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2
TÓM TẮT
Biến đổi nồng độ homocystein máu (tHCy - total plasma homocysteine concentration) ở BN ĐTĐ týp 2 liên quan đến một số yếu tố nguy cơ tim mạch.
Mục tiêu: tìm hiểu mối liên quan giữa tHCy với một số yếu tố nguy cơ tim mạch ở
BN ĐTĐ týp 2: chỉ số khối cơ thể (BMI), kiểm soát huyết áp, tăng huyết áp (THA), rối
loạn lipid máu, microabumin niệu (MAU), bệnh thận mạn (BTM).
Kết quả: tHCy tăng cao có ý nghĩa thống kê ở BN có THA, MAU (+), BTM do ĐTĐ.
Khi mức độ BTM nặng dần thì tHCy tăng dần. THA, MAU (+), BTM do ĐTĐ sẽ làm
gia tăng nguy cơ tăng tHCy lên 3,45, 4,14 và 3,87 lần. Nồng độ homocystein máu tương
quan nghịch với mức lọc cầu thận (MLCT) ước tính; tương quan thuận với nồng độ ure,
creatinin, LDL-C máu có ý nghĩa thống kê.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối liên quan giữa nồng độ homocystein máu với một số yếu tố nguy cơ tim mạch ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2
TRAO ĐỔI HỌC TẬP 109 TÓM TẮT Biến đổi nồng độ homocystein máu (tHCy - total plasma homocysteine concentra- tion) ở BN ĐTĐ týp 2 liên quan đến một số yếu tố nguy cơ tim mạch. Mục tiêu: tìm hiểu mối liên quan giữa tHCy với một số yếu tố nguy cơ tim mạch ở BN ĐTĐ týp 2: chỉ số khối cơ thể (BMI), kiểm soát huyết áp, tăng huyết áp (THA), rối loạn lipid máu, microabumin niệu (MAU), bệnh thận mạn (BTM). Kết quả: tHCy tăng cao có ý nghĩa thống kê ở BN có THA, MAU (+), BTM do ĐTĐ. Khi mức độ BTM nặng dần thì tHCy tăng dần. THA, MAU (+), BTM do ĐTĐ sẽ làm gia tăng nguy cơ tăng tHCy lên 3,45, 4,14 và 3,87 lần. Nồng độ homocystein máu tương quan nghịch với mức lọc cầu thận (MLCT) ước tính; tương quan thuận với nồng độ ure, creatinin, LDL-C máu có ý nghĩa thống kê. THE RELATIONSHIP BETWEEN THE ALTERATION OF HOMOCYSTEINE CONCENTRATIONS WITH SOME CARDIAC RISK FACTORS OF TYPAE 2 DIABETES MELLITUS PATIENTS SUMMARY The relationship between the alteration of homocysteine concentrations with some cardiac risk factors of typae 2 diabetes mellitus patients. The alteration of homocysteine concentrations in type 2 diabetes mellitus was associated with some cardiac risk factors. The object of the study was to determine the relationship between the alteration of homocysteine concentrations with body mass index (BMI), blood pressure control, hypertension, microalbuminuria, dyslipidemia, diabetic chronic renal failure. MỐI LIÊN QUAN GIỮA NỒNG ĐỘ HOMOCYSTEIN MÁU VỚI MỘT SỐ YẾU TỐ NGUY CƠ TIM MẠCH Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÝP 2 Phạm Toàn Trung1, Hoàng Trung Vinh1, Trương Đình Cẩm1 (1) Bệnh viện Quân y 175 Người phản hồi (Corresponding): Phạm Toàn Trung (phamtoantrung175@gmail.com) Ngày nhận bài: 6/9/2017. Ngày phản biện đánh giá bài báo: 17/9/2017 Ngày bài báo được đăng: 25/12/2017 TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 12 - 12/2017 110 Results showed that: homocysteine concentrations were significantly higher in patients without blood pressure control, with hypertension, microalbuminuria (+), diabetic chronic kidney disease than those with blood pressure control, without hypertension, microalbuminuria (+), diabetic kidney disease. Hyperhomocysteinemia was inversely associated with stage of diabetic chronic kidney disease and 3,45; 4,14; 3,87 - fold increased in patients with hypertension, microalbuminuria (+), diabetic chronic renal failure respectively. Homocysteine concentrations were significantly reversely correlated with eGFR (estimated glomerular filtraton rate) and inversely correlated with serum urea, creatinine, LDL-C. ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh tim mạch và bệnh thận mạn giai đoạn cuối do ĐTĐ vẫn là những nguyên nhân gây tử vong chính, ngay cả ở những nước phát triển. Bên cạnh những yếu tố nguy cơ (YTNC) đã được xác định (THA, rối loạn lipid máu), có thể có những yếu tố khác liên quan bệnh sinh biến chứng tim mạch ở người ĐTĐ, trong đó nồng độ homocystein máu cao làm gia tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch và tỉ lệ tử vong do mọi nguyên nhân nói chung, do bệnh tim mạch nói riêng [8], [11]. Ở người ĐTĐ týp 2, tăng tHCy còn làm tăng nguy cơ xuất hiện MAU [4], bệnh thận mạn do ĐTĐ [9]. Nhiều nghiên cứu trong nước và trên thế giới cho thấy tăng tHCy ở BN ĐTĐ týp 2 liên quan suy giảm chức năng thận [1], [5], kiểm soát huyết áp kém [10] Mục tiêu: tìm hiểu mối liên quan giữa tHCy với một số YTNC tim mạch như BMI, kiểm soát huyết áp, THA, rối loạn lipid máu, MAU, BTM ở BN ĐTĐ týp 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng 89 người bao gồm 2 nhóm: 61 BN ĐTĐ týp 2 điều trị nội trú tại khoa Khớp - Nội tiết Bệnh viện 103 từ tháng 2/2013 đến tháng 7/2013 thuộc nhóm BN và 28 người khỏe mạnh thuộc nhóm chứng, có độ tuổi trung bình và tỷ lệ giới tương đương nhau, lấy dữ liệu chỉ số tHCy thu được trên nhóm chứng làm chuẩn đánh giá tHCy ở nhóm bệnh. 2. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu: hồi cứu, cắt ngang, mô tả. * Nội dung nghiên cứu: + Khai thác tiền sử bệnh, khám lâm sàng, xét nghiêm cận lâm sàng đối tượng nghiên cứu. + Định lượng nồng độ HCy máu trên máy AxSYM của hãng Abbott (Hoa Kỳ) tại khoa Hoá Sinh - Bệnh viện 103. tHCy được xác định dựa trên nguyên lý miễn dịch huỳnh quang đối lưu. Đơn vị: µmol/l. * Xử lý số liệu: bằng chương trình phần mềm Epi-Info 7.0, Microsoft Excel 2007. 3. Các tiêu chuẩn sử dụng trong nghiên cứu * Chẩn đoán rối loạn lipid máu: Theo khuyến cáo Hội tim mạch Việt Nam (2015) * Chẩn đoán THA: Theo tiêu chuẩn JNC VII (Joint National Committee VII) (2003) * Chẩn đoán tăng tHCy: Khi tHCy TRAO ĐỔI HỌC TẬP 111 của nhóm bệnh lớn hơn tổng giá trị trung bình tHCy và 1 lần độ lệch chuẩn của nhóm chứng. * Đánh giá chỉ số HbA1c: Theo tiêu chuẩn của Hiệp hội Đái tháo đường châu Á - Thái Bình Dương (2002) * Đánh giá chỉ số BMI: Theo tiêu chuẩn WHO (2004) áp dụng trên người châu Á trưởng thành * Đánh giá mục tiêu kiểm soát huyết áp ở BN ĐTĐ: Theo tiêu chuẩn của Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kỳ - ADA (2013) * Chẩn đoán bệnh thận do ĐTĐ: Theo tiêu chuẩn Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kỳ - ADA (2013) khi có MAU (+) (ACR > 30 mg/g) Chẩn đoán và phân loại mức độ suy thận theo KDOQI (Kidney Disease Out- come Quality Initiative) (2002) dựa vào mức lọc cầu thận ước tính độ thanh thải creatinin (eGFR - Estimated Glomerular Filtration Rate) theo công thức MDRD (Modification of Diet in Renal Disease) (1999). Nếu chức năng thận ở giai đoạn 1 hoặc 2, chỉ bị bệnh thận mạn nếu mắc albumin niệu, hồng cầu niệu hoặc cấu trúc thận bất thường trên các xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh hoặc bệnh lý thận di truyền. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Bảng 3.1. Nồng độ tHCy của hai nhóm nghiên cứu tHCy (µmol/l) Đối tượng Min Max X ± SD p Nhóm bệnh (n = 61) 5,87 20,92 11,47 ± 3,01 < 0,01Nhóm chứng (n = 28) 7,02 14,16 9,83 ± 1,73 Nhóm bệnh có tHCy cao hơn so với nhóm chứng có ý nghĩa thống kê (p < 0,01). Bảng 3.2. Liên quan tHCy với một số chỉ số ở nhóm bệnh (n = 61) tHCy (µmol/l) Thông số n X ± SD p tHCy (µmol/l) Thông số n X ± SD p BMI (kg/m 2) < 23 39 11,91 ± 3,08 > 0,05 Rối loạn lip- id máu (+) 54 11,57 ± 3,12 > 0,05 ≥ 23 22 10,70 ± 2,78 (-) 7 10,70 ± 1,97 THA (+) 36 11,79 ± 3,21 > 0,05 MAU (+) 27 12,39 ± 3,06 < 0,05 (-) 25 11,01 ± 2,68 (-) 34 10,74 ± 2,80 KS huyết áp (mmHg) ≤ 130/80 32 10,64 ± 2,16 < 0,05 BTM (+) 28 12,31 ± 3,03 < 0,05 > 130/80 29 12,30 ± 3,54 (-) 33 10,76 ± 2,84 TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 12 - 12/2017 112 - tHCy liên quan không có ý nghĩa thống kê với BMI, tăng huyết áp, rối loạn lipid máu (p > 0,05). - Nhóm bệnh kiểm soát HA > 130/80 mmHg, MAU (+), BTM có tHCy cao hơn có ý nghĩa nhóm bệnh kiểm soát HA ≤ 130/80 mmHg, MAU (-), không BTM (p < 0,05). Bảng 3.4. Liên quan tHCy với giai đoạn BTM ở nhóm bệnh (n = 28) tHCy (µmol/l) Giai đoạn BTM Min Max X ± SD p (ANOVA) 1 (n = 8) (1) 6,22 14,55 10,23 ± 2,41 < 0,05 p3-1 < 0,05 p2-1 < 0,05 2 (n = 12) (2) 9,86 15,43 12,80 ± 1,65* 3 - 4 (n = 8) (3) 6,53 19,32 13,64 ± ,24* tHCy tăng dần có ý nghĩa thống kê theo theo mức độ nặng của BTM (p < 0,05). Bảng 3.5. Liên quan tăng tHCy với THA, mức KS huyết áp, MAU, BTM ở nhóm bệnh (n =61) Tăng tHCy Thông số Có (n = 28) Không (n = 33) Không hiệu chỉnh Hiệu chỉnh (theo tuổi, giới, eGFR) n % n % OR 95%CI OR 95%CI Tăng huyết áp (n = 36) 22 61,1 14 38,9 4,98** 1,60 - 15,50 3,45* 1,06 - 11,24 KS huyết áp > 130/80 (n = 29) 19 65,5 10 34,5 4,86** 1,64 - 14,39 2,44 0,73 - 7,45 Microalbumin niệu (n = 27) 18 66,7 9 33,3 4,80** 1,62 - 14,25 4,14* 1,16 - 14,77 Bệnh thận mạn (n = 28) 18 64,3 10 35,7 4,14ǁ 1,42 - 12,09 3,87* 1,07 - 13,98 * p < 0,05; ** p < 0,005; ǁ p < 0,01 - Tỷ lệ tăng tHCy ở nhóm BN có THA (61,1%) cao hơn so với nhóm BN không THA (38,9%) có ý nghĩa thống kê với OR thô = 4,98 (95%CI = 1,60 - 15,50, p < 0,005) và OR hiệu chỉnh = 3,45 (95%CI = 1,06 - 11,24, p < 0,05). - Tỷ lệ tăng tHCy ở nhóm BN KS huyết áp > 130/80 mmHg (65,5%) cao hơn so với nhóm KS huyết áp ≤ 130/80 mmHg (34,5%) có ý nghĩa thống kê với OR thô = 4,86 (95%CI = 1,64 - 14,39, p < 0,005). - Tỷ lệ tăng tHCy ở nhóm BN MAU (+) (66,7%) cao hơn so với nhóm BN MAU (-) (33,3%) có ý nghĩa thống kê với OR thô = 4,80 (95%CI = 1,62 - 14,25, p < 0,005) và OR hiệu chỉnh = 4,14 (95%CI = 1,16 - 14,77, p < 0,05). TRAO ĐỔI HỌC TẬP 113 - Tỷ lệ tăng tHCy ở nhóm BN có STM (64,3%) cao hơn so với nhóm BN không STM (35,7%) có ý nghĩa thống kê với OR thô = 4,14 (95%CI = 1,42 - 12,09, p < 0,005) và OR hiệu chỉnh = 3,87 (95%CI = 1,07 - 13,98, p < 0,05). Bảng 3.6. Tương quan tHCy với một số chỉ số ở nhóm bệnh (n = 61) tHCy (µmol/l) Thông số Phân tích hồi quy tuyến tính đơn biến Phân tích hồi quy tuyến tính đa biến (hiệu chỉnh theo tuổi, giới, nồng độ creatinin máu) r p r p Ure (mmol/l) 0,41 0,05 Creatinin (µmol/l) 0,40 < 0,01 0,53 < 0,001 eGFR (ml/ph/1,73 m2) -0,30 < 0,05 -0,41 < 0,01 Cholesterol (mmol/l) 0,17 > 0,05 0,53 > 0,05 LDL-C (mmol/l) 0,28 < 0,05 0,57 < 0,05 Triglyceride (mmol/l) -0,22 > 0,05 -0,54 > 0,05 - tHCy tương quan thuận mức độ vừa (r = 0,41, p < 0,001) với nồng độ ure máu, tương quan thuận mức độ vừa (r = -0,40, p < 0,01) với nồng độ creatinin máu, tương quan nghịch mức độ vừa (r = -0,30, p < 0,05) với eGFR khi chưa hiệu chỉnh. Sau khi hiệu chỉnh, không có tương quan có ý nghĩa thống kê giữa tHCy với nồng độ ure máu (p > 0,05).tHCy tương quan thuận chặt chẽ với nồng độ creatinin máu (r = 0,53, p < 0,001), tương quan nghịch mức độ vừa với eGFR (r = -0,41, p < 0,01). - tHCy tương quan thuận mức độ ít (r = 0,28, p < 0,05) với nồng độ LDL-C máu khi chưa hiệu chỉnh. tHCy tương quan thuận chặt chẽ với nồng độ LDL-C máu sau khi hiệu chỉnh (r = 0,57, p < 0,05). BÀN LUẬN * Liên quan nồng độ homocystein máu với BMI: Qua kết quả tHCy ở nhóm bệnh có thừa cân (BMI > 23) và không thừa cân (BMI < 23), sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Phạm Quang Thanh (2008) khi so sánh tHCy ở 11 BN ĐTĐ týp 2 có BMI > 23 và 45 BN ĐTĐ týp 2 có BMI < 23 cũng rút ra kết luận tương tự [1]. Một số tác giả ngoài nước như Hoogeven EK (1998) [8], Emo- to M (2001) [7], Russo GT (2004) [91] cũng thấy không có tương quan ý nghĩa thống kê giữa tHCy với BMI (tương ứng là r = -0,02, p = 0,8; r = 0,221, p = 0,057 và r = 0,068, p > 0,05) [11]. Tuy vậy, một số nghiên cứu khác lại chỉ ra tHCy có tương quan nghịch có ý nghĩa thống kê với BMI ở BN ĐTĐ týp 2: The NHANES 1999 - 2002 (2005) với r = -0,19, p < 0,05 [6], Looker HC (2003) với r = -0,23, p < 0,0001 [9]. Có lẽ BMI không phản ánh chính xác hoàn toàn khối lượng cơ của cơ thể mà khối lượng cơ lại tỷ lệ với nồng độ creatin/creatinin máu và do vậy cũng có tương quan nhất định với tHCy khi giá trị BMI đủ lớn, trong khi BN ĐTĐ trong nghiên cứu của chúng tôi lại có BMI trung bình là chủ yếu. TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 12 - 12/2017 114 * Liên quan nồng độ homocystein máu với rối loạn lipid máu: Bệnh nhân ĐTĐ có tỷ lệ vữa xơ động mạch gấp 2 - 6 lần so với người không ĐTĐ. Rối loạn lipid máu rất phổ biến ở BN ĐTĐ týp 2, cùng với stress oxy hóa, bất thường chức năng tiểu cầu và rối loạn đông máu (tăng thrombin, yếu tố VII, yếu tố tổ chức, PAI- 1, giảm thrombomodulin, protein C..) là các YTNC góp phần gia tăng vữa xơ động mạch, dẫn đến biến chứng mạch máu lớn ở người ĐTĐ (bệnh ĐMV, bệnh mạch máu não, bệnh động mạch ngoại vi). Tăng tHCy vừa là nguyên nhân, vừa làm tăng tiến triển vữa xơ động mạch thông qua nhiều cơ chế gồm rối loạn chức năng nội mạc, cảm ứng stress oxy hóa, thúc đẩy viêm mạch và huyết khối. Cơ chế phân tử quá trình này có vai trò chủ yếu của sự oxy hóa LDL-C ở thành động mạch bởi các superoxide, hydrogen superoxide hình thành LDL-C có tính oxy hóa cao. Tăng nồng độ LDL-C máu và/hoặc giảm nồng độ HDL-C máu được xác định là YTNC chính của bệnh ĐMV [13]. Kết quả nghiên cứu cho thấy nhóm bệnh có rối loạn lipid máu có tHCy cao hơn nhóm không rối loạn lipid máu nhưng chưa có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Sau hiệu chỉnh, chúng tôi thấy có mối tương quan thuận chặt chẽ giữa tHCy với LDL- C máu. Phạm Quang Thanh (2008) cũng thấy chỉ số tHCy không khác biệt có ý nghĩa ở 33 BN ĐTĐ týp 2 có rối loạn lipid máu và 23 BN ĐTĐ týp 2 không rối loạn lipid máu [8]. Chico A (1998) nghiên cứu 90 BN ĐTĐ týp 2 nhận thấy tương quan thuận yếu có ý nghĩa giữa tHCy với nồng độ LDL-C máu (r = 0,26, p < 0,05), tri- glyceride máu (r = 0,22, p < 0,05) [3]. Emoto M (2001) khảo sát 75 BN ĐTĐ týp 2 thấy có tương quan nghịch yếu có ý nghĩa của tHCy với nồng độ HDL-C máu (r = -0,294, p = 0,01) [7]. Davies L (2001) nghiên cứu 260 BN ĐTĐ týp 2 thấy có tương quan nghịch chặt chẽ giữa tHCy với nồng độ cholesterol máu (r = -0,656, p = 0,02) [5]. Kết quả chúng tôi không giống ng- hiên cứu Shargorodsky M (2009) trên 85 BN ĐTĐ týp 2 không thấy tương quan có ý nghĩa giữa tHCy với các chỉ số lipid máu [12]. Theo chúng tôi, các BN ĐTĐ có thể đã được điều trị chế độ ăn và thuốc hạ lipid máu nên chỉ số lipid cải thiện đáng kể. Vì thế các kết quả không giống nhau giữa các nghiên cứu. Chính vì vậy việc điều chỉnh các chỉ số lipid máu (giảm LDL-C, tăng HDL-C) cần tiến hành đồng thời với giảm tHCy ở BN ĐTĐ. * Liên quan nồng độ homocyste- in máu với tăng huyết áp: Kết quả cho thấy nhóm bệnh có THA có tHCy cao hơn nhưng chưa có ý nghĩa thống kê so với nhóm bệnh không TH. Khi phân nhóm bệnh theo mục tiêu kiểm soát HA, nhóm bệnh kiểm soát HA không đạt mục tiêu có nồng độ HCy cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm bệnh kiểm soát HA đạt mục tiêu. Lý giải kết quả này, chúng tôi cho rằng cả nhóm bệnh THA và kiểm soát HA không đạt mục tiêu đều có chức năng thận phản ánh qua các chỉ số eGFR, nồng độ creatinin máu kém hơn so với nhóm bệnh không THA và kiểm soát HA đạt mục tiêu. THA là bệnh thường gặp đi kèm với ĐTĐ týp 2. Sự kết hợp 2 bệnh trên sẽ làm TRAO ĐỔI HỌC TẬP 115 gia tăng tổn thương thận. THA tác động xấu đến chức năng thận, làm giảm MLCT, tăng creatinin máu, dẫn đến tăng tHCy. Qua nghiên cứu, tỷ lệ tăng tHCy gia tăng 4,98 và 4,86 lần (chưa hiệu chỉnh) khi kèm theo THA và kiểm soát HA không đạt mục tiêu. Kết quả chúng tôi tương tự tác giả Russo GT (2004) thấy 97 BN ĐTĐ týp 2 kèm THA có tHCy cao hơn 214 BN ĐTĐ týp 2 không THA nhưng chưa có ý nghĩa thống kê (12,3 so với 11,7 µmol/l, p > 0,05), có tương quan thuận có ý nghĩa giữa tHCy với huyết áp tâm thu (p < 0,01) [11]. Chico A (1998) nghiên cứu 90 BN ĐTĐ týp 2 thấy nhóm ĐTĐ THA có tHCy cao hơn nhóm không THA có ý nghĩa thống ... ạ HA) ở BN trước khi đưa vào nghiên cứu. Chúng tôi cho rằng cần thiết phải kiểm soát tốt HA song song với giảm tHCy ở BN ĐTĐ týp 2. * Liên quan nồng độ homocystein máu với microalbumin niệu và bệnh thận mạn: Thận đóng vai trò chính trong chuyển hóa HCy, cùng với gan là hai cơ quan có đầy đủ các enzym xúc tác cho chu trình sulfur (chuyển nhóm sulfur) và con đường tái methyl hóa thứ yếu. Con đường chuyển methyl hóa cung cấp nhóm methyl để tổng hợp tiền chất của creatinin là creatin. Chỉ HCy tự do mới qua được cầu thận, 99% được tái hấp thu, phần lớn chuyển hóa ngay tại thận và khoảng 1% bài tiết qua nước tiểu [13]. Các ng- hiên cứu lớn trên thế giới chỉ tương quan nghịch mức độ mạnh giữa tHCy với GFR hoặc eGFR, độ thanh thải creatinin; tương quan thuận với nồng độ creatinin máu như trong dữ liệu nghiên cứu nghiên cứu NHANES [6]. Ở BN ĐTĐ, MAU được coi là dấu ấn chỉ điểm cho sự xuất hiện biến chứng mạch máu nói chung và mạch máu nhỏ nói riêng, đặc biệt là bệnh thận ĐTĐ khi MAU vừa là chỉ dấu sớm tổn thương thận, vừa phản ánh tiến triển suy giảm chức năng thận. Khi chức năng thận kém dần theo các giai đoạn MAU (-) đến MAU (+), protein niệu sẽ làm tHCy tăng dần [7]. Qua kết quả, chúng tôi thấy nhóm bệnh MAU (+) có tHCy cao hơn nhóm ĐTĐ MAU (-) có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Kết quả tương tự được ghi nhận khi so sánh nhóm bệnh có suy thận và không TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 12 - 12/2017 116 suy thận. tHCy tăng dần có ý nghĩa theo giai đoạn suy thận. Có mối tương quan thuận mức độ vừa giữa tHCy với nồng độ ure, creatinin máu, tương quan nghịch mức độ ít giữa tHCy với eGFR. Mức tương quan càng mạnh hơn giữa tHCy với nồng độ creatinin máu, eGFR sau hiệu chỉnh, không còn tương quan giữa nồng độ ure máu với nồng độ HCy sau hiệu chỉnh. Ở BN ĐTĐ có MAU (+) hoặc STM đã làm gia tăng tỷ lệ tăng tHCy tương ứng lên 4,80 và 4,14 lần khi chưa hiệu chỉnh; 4,14 và 3,87 lần sau khi hiệu chỉnh. Shargorodsky M (2009) nghiên cứu 86 BN ĐTĐ týp 2 thấy có tương quan nghịch mức độ vừa giữa tHCy với nồng độ creatinin máu (r = -0,344, p < 0,001), không có tương quan giữa tHCy và nồng độ ure máu (r = 0,205, p = 0,117) [12]. Duncan GE (2005) phân tích 133 BN ĐTĐ týp 2 từ dữ liệu The NHANES 1999 - 2002 nhận thấy tHCy tương quan thuận chặt chẽ với nồng độ creatinin máu (r = 0,55, p < 0,0001) và tương quan nghịch mức độ vừa với eGFR (r = -0,46, p < 0,0001) [6]. Theo chúng tôi, nồng độ ure máu chỉ phản ánh gián tiếp chức năng thận, dễ bị ảnh hưởng bởi chế độ ăn, sử dụng thuốc nên sự tương quan có ý nghĩa với tHCy không còn sau khi hiệu chỉnh theo tuổi, giới, nồng độ creatinin máu. Kết quả này phù hợp nghiên cứu của Russo GT (2004) trên 312 BN ĐTĐ týp 2 thấy tHCy tăng dần có ý nghĩa thống kê theo các khoảng phân vị nồng độ creatinin máu và giảm dần theo các khoảng phân vị hệ số thanh thải creatinin. tHCy tương quan thuận với nồng độ creatinin máu (r = 0,417, p < 0,0001), tương quan nghịch với hệ số thanh thải creatinin nội sinh (p < 0,001) [11]. Kết quả của chúng tôi cũng phù hợp với một số tác giả trong nước. Dương Thị Tuyết (2008) so sánh tHCy ở 20 BN ĐTĐ týp 2 có MAU (+) thấy cao hơn có ý nghĩa thống kê so với 37 BN ĐTĐ có MAU (-) (13,59 so với 11,43 µmol/l, p < 0,05) [2], Phạm Quang Thanh (2008) nghiên cứu 56 BN ĐTĐ týp 2 thấy nhóm MAU (+) có tHCy cũng cao hơn có ý nghĩa so với nhóm MAU (-) (13,09 ± 3,88 so với 9,28 ± 2,98 µmol/l, p < 0,05); có tương quan thuận chặt chẽ giữa tHCy và MAU (r = 0,597, p < 0,05) [1]. Emoto M (2001) nghiên cứu 75 BN ĐTĐ týp 2 đối chứng 54 người bình thường, thấy tHCy tăng dần theo mức độ bệnh thận từ MAU (-) đến MAU (+), albumin niệu đại thể và suy thận; nhóm bệnh suy thận có tHCy cao hơn rõ rệt nhóm bệnh chưa suy thận (p < 0,001) và nhóm chứng (p < 0,001) [7]. Nhận xét tương tự cũng được ghi nhận bởi Chico A (1998), đồng thời có tương quan thuận chặt chẽ giữa tHCy và MAU (r = 0,66, p < 0,001) [3]. Davies L (2001) nghiên cứu 260 BN ĐTĐ týp 2 cũng phát hiện nhóm MAU (+) có tHCy cao hơn nhóm MAU (-) (13,2 ± 7,8 so với 11,3 ± 4,6 µmol/l, p < 0,01) [5]. Looker HC (2003) so sánh 93 ca ĐTĐ týp 2 MAU (+) với 289 ca ĐTĐ týp 2 có MAU (-) thấy tHCy cao hơn có ý nghĩa thống kê (10,88 so với 8,99 µmol/l, p < 0,0001) [9]. Nhìn chung, hầu hết các nghiên cứu mô tả cắt ngang và tiến cứu trên BN ĐTĐ týp 2 đều chỉ ra tăng tHCy là hậu quả chủ yếu của biến chứng tổn thương thận do TRAO ĐỔI HỌC TẬP 117 ĐTĐ, liên quan với chỉ số MAU, MLCT, hệ số thanh thải creatinin và mức độ bệnh thận ĐTĐ [6], [7]. HCy tự do được lọc qua cầu thận, tái hấp thu 99% tại thận và chỉ đào thải một lượng rất nhỏ qua thận < 1%. Suy giảm chức năng thận làm độ thanh thải HCy, rối loạn chuyển hóa HCy tại thận và ngoài thận (suy giảm con đường chuyển nhóm methyl và tái methyl hóa do khiếm khuyết chuyển hóa amino acid chứa nhóm sulfur và/hoặc khiếm khuyết tái methyl hóa HCy thành methionin) gây tích lũy và tăng tHCy [13]. Tuy vậy, tHCy ở người ĐTĐ týp 2 có thể giảm so với người bình thường đã được ghi nhận ở giai đoạn “chớm” tổn thương thận có tăng MLCT [13], [14]. Do đó, một số tác giả xem HCy là 1 marker phản ánh suy giảm chức năng thận ở người ĐTĐ [14]. Cũng có một số tác giả cho rằng tăng tHCy liên quan tăng nguy cơ MAU (+) ở ĐTĐ týp 2, vì thế có thể tHCy có vai trò nguyên nhân trong bệnh sinh bệnh thận ĐTĐ [3], [4], [9]. Kiểm soát tHCy hợp lý ở người ĐTĐ có thể tạo điều kiện ngăn chặn suy giảm chức năng thận. Chico A (1998) cho rằng có mối liên quan giữa tăng tHCy với tăng AER ở BN ĐTĐ, đặc biệt người ĐTĐ týp 2 và đề ra giả thiết liên kết giữa tăng tHCy và sự xuất hiện MAU, bệnh thận ĐTĐ [3]. Looker HC (2003) phân tích tHCy của 396 BN ĐTĐ týp 2 trong nghiên cứu dọc 1982 - 2000 thấy trong 229 ca không có bệnh thận ĐTĐ, 152 ca MAU (-) tại thời điểm ban đầu có 101 ca tiến triển bệnh thận ĐTĐ (ACR ≥ 300 mg/g) sau 8,6 năm, 48 ca xuất hiện MAU (+) sau 9,8 năm. Tác giả kết luận tăng tHCy liên quan tăng tần suất bệnh thận ĐTĐ với IRR = 1,42 (95%CI = 1,09 - 1,84, p = 0,01) và IRR = 1,39 (95%CI = 1,04 - 1,86, p = 0,03); tăng tần suất xuất hiện MAU (+) với IRR = 1,6 (95%CI = 1,01 - 2,54, p < 0,05) và IRR = 1,96 (95%CI = 1,17 - 3,3, p < 0,05) sau hiệu chỉnh tuổi, giới và thời gian mắc ĐTĐ [9]. Cho EH (2008) theo dõi dọc 887 BN ĐTĐ týp 2 có MAU (-) tại thời điểm ban đầu thấy 76 ca xuất hiện MAU (+) sau 36 ± 11,7 tháng, so sánh với 152 ca không có MAU (+) tương đồng về tuổi và giới thấy nhóm xuất hiện MAU (+) có tHCy cao hơn có ý nghĩa thống kê nhóm không có MAU (+) trong thời gian nghiên cứu (11,8 ± 3,7 so với 10,3 ± 3,1 µmol/l, p = 0,003). Tác giả cho rằng tăng tHCy liên quan tăng nguy cơ MAU (+) ở BN ĐTĐ týp 2 với OR = 5,167 (95% CI, 1,898 - 14,067, p = 0,001), tHCy cao có thể đóng vai trò là một nguyên nhân bệnh sinh gây tổn thương thận sớm ở người ĐTĐ [4]. Trong nghiên cứu, nhóm ĐTĐ có MAU (+) hoặc suy thận đều có chỉ số chức năng thận kém hơn (eGFR giảm, nồng độ creatinin máu cao) có ý nghĩa (p < 0,05) so với nhóm ĐTĐ MAU (-), nhóm ĐTĐ không suy thận. Điều này giải thích kết quả nghiên cứu của chúng tôi. Do thiết kế nghiên cứu cắt ngang, chúng tôi cũng không thể xác định mối quan hệ nguyên nhân - kết quả của tăng tHCy và tình trạng tổn thương thận. Chúng tôi cho rằng giữ tHCy ở mức hợp lý cũng có thể góp phần nào dự phòng và làm chậm tiến triển bệnh thận ĐTĐ. TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 12 - 12/2017 118 KẾT LUẬN: Qua nghiên cứu mối liên quan biến đổi tHCy với một số YTNC tim mạch ở 61 BN ĐTĐ týp 2, chúng tôi nhận thấy: - tHCy liên quan không có ý nghĩa thống kê với BMI, THA, rối loạn lipid máu. - Nhóm bệnh kiểm soát HA > 130/80 mmHg, MAU (+), BTM có tHCy cao hơn có ý nghĩa so với nhóm bệnh kiểm soát HA ≤ 130/80 mmHg, MAU (-), không BTM. - tHCy tăng dần có ý nghĩa thống kê theo theo mức độ nặng của BTM. Tỷ lệ tăng homocystein máu gia tăng 3,45 lần khi kèm theo THA. Sự xuất hiện của MAU (+), BTM làm gia tăng nguy cơ tăng homocystein máu lên 4,14 lần và 3,87 lần. tHCy tương quan thuận mức độ vừa có ý nghĩa thống kê với nồng độ ure máu; tương quan thuận chặt chẽ có ý nghĩa thống kê với nồng độ creatinin máu; tương quan nghịch mức độ vừa có ý nghĩa thống kê với mức lọc cầu thận ước tính, tương quan thuận chặt chẽ với nồng độ LDL-C máu. Nói tóm lại, kết quả nghiên cứu cho thấy ở BN ĐTĐ týp 2 kèm theo một số yếu tố nguy cơ tim mạch (kiểm soát huyết áp chưa đạt mục tiêu, microalbumin niệu (+), giảm MLCT do bệnh thận mạn) sẽ góp phần làm tăng nguy cơ tăng nồng độ homocystein máu - một yếu tố nguy cơ tim mạch độc lập đã được chứng minh làm tăng nguy cơ biễn cố tim mạch và tử vong trong dân số nói chung và BN ĐTĐ nói riêng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phạm Quang Thanh (2008), “Đánh giá mối liên quan giữa nồng độ homocysteine máu với microalbumin niệu và độ dày lớp trung mạc động mạch cảnh ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2”, Luận văn tốt nghiệp Bác sỹ chuyên khoa II, Trường Đại học y Hà Nội, 75 trang. 2. Dương Thị Tuyết, Nguyễn Thị Hương, Phạm Thiện Ngọc (2008), “Nồng độ homocystein máu ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2”, Tạp chí Nghiên cứu Y học, Tập 53, Số 1 2008, trang 71-76. 3. Chico A., Pørez A., Córdoba A. et al (1998), “ Plasma homocysteine is related to albumin excretion rate in patients with diabetes mellitus: a new link between diabetic nephropathy and cardiovascular disease ?”, Diabetologia. 1998 Jun; 41(6): pp.684-93. 4. Cho E.H., Kim E.H., Kim W.G. et al (2010), “Homocysteine as a Risk Factor for Development of Microalbuminuria in Type 2 Diabetes”, Korean Diabetes J. 2010 Jun; 34(3): pp.200-6. 5. Davies L., Wilmshurst E.G., Mcelduff A. et al (2001), “The Relationship Among Homocysteine, Creatinine Clearance, and Albuminuria in Patients With Type 2 Diabetes”, Diabetes Care. 2001 Oct; 24(10): pp.1805-9. 6. Duncan G.E., Li S.M. and Zhou X.H. (2005), “Age and kidney function are the primary correlates of fasting plasma total homocysteine levels in non-diabetic and diabetic adults. Results from the 1999–2002 National Health and Nutrition Examination Survey”, Nutr Metab (Lond). 2005 May 26;2:13. TRAO ĐỔI HỌC TẬP 119 7. Emoto M., Kanda H., Shuji T. et al (2001), “Impact of Insulin Resistance and Nephropathy on Homocysteine in Type 2 Diabetes”, Diabetes Care. 2001 Mar; 24(3): pp.533-8 8. Hoogeveen E.K., Kostense P.J., Beks P.J. et al (1998), “Hyperhomocysteinemia is associated with an increased risk of cardiovascular disease, especially in non insulin-dependent diabetes mellitus: a population-based study”, Arterioscler Thromb Vasc Biol. 1998 Jan; 18(1): 133- 8. 9. Looker H.C., Fagot-Campagna A., Gunter E.W. et al (2003), “Homocysteine as a risk factor for nephropathy and retinopathy in Type 2 diabetes”, Diabetologia. 2003 Jun; 46(6): pp.766-72. 10. Passaro A., Calzoni F., Volpato S. et al (2003), “Effect of metabolic control on homocysteine levels in type 2 diabetic patients: a 3-year follow-up”, J Intern Med. 2003 Sep; 254(3): pp.264-71. 11. Russo G.T., Di Benedetto A., Giorda C. et al (2004), “Correlates of total homocysteine plasma concentration in type 2 diabetes”, Eur J Clin Invest. 2004 Mar; 34(3): pp.197-204 12. Shargorodsky M., Boaz M., Pasternak S. et al (2009), “Serum homocysteine, folate, vitamin B12 levels and arterial stiffness in diabetic patients: which of them is really important in atherogenesis?”, Diabetes Metab Res Rev. 2009 Jan; 25(1): pp.70-5. 13. Wijekoon E.P., Brosnan M.E. and Brosnan J.T. (2007), “Homocysteine metabolism in diabetes”, Biochem Soc Trans. 2007 Nov; 35(Pt 5): pp.1175-9 14. Wollesen F., Brattstrom L., Refsun H. et al (1999), “Plasma total homocysteine and cysteine in relation to glomerular filtration rate in diabetes mellitus”, Kidney Int. 1999 Mar; 55(3): TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 12 - 12/2017 120 Tạp chí Y dược thực hành 175 xuất bản 4 số thường kỳ/năm và các chuyên đề, đăng tải các công trình nghiên cứu, các bài tổng quan về Y-Dược học trong nước và Quốc tế, thông tin về nghiên cứu và đào tạo. I. Một số yêu cầu về bài đăng công trình nghiên cứu khoa học: 1. Bài gửi đăng công trình nghiên cứu khoa học chưa đăng ở bất kỳ tạp chí quốc gia nào. 2. Các thuật ngữ thống nhất theo từ điển Bách khoa Việt Nam. 3. Bài gửi đăng bắt buộc phải đánh máy bằng tiếng Việt, rõ ràng, lề trái 3 cm, lề phải 2 cm, lề trên 2 cm, lề dưới 2 cm. Một bài không dài quá 7 trang khổ A4, font Time New Roman cỡ 13. Các danh từ tiếng Việt Nam nếu dịch từ tiếng nước ngoài phải viết kèm theo tiếng nước ngoài. Các chữ viết tắt phải có chú thích các từ gốc của các chữ viết tắt. 4. Trình tự các mục trong bài viết: a. Đầu đề (tiếng Việt và tiếng Anh). b. Họ và tên tác giả: không ghi học hàm, học vị, chức danh. Có ghi chú nơi công tác của tác giả. c. Nội dung: - Tóm tắt tiếng Việt và tiếng Anh (tối đa 200 từ). - Đặt vấn đề, bao gồm cả phần mục tiêu nghiên cứu của đề tài. - Đối tượng và phương pháp nghiên cứu. - Kết quả. - Bàn luận. - Kết luận. Chỉ sử dụng những bảng biểu, ảnh cần thiết và phải ghi chú thích rõ yêu cầu in vào đoạn nào trong bài, mỗi bài không quá 5 hình. d. Tài liệu tham khảo (không qua 10 tài liệu): Tài liệu tiếng Việt ghi trước, sau đó tài liệu tiếng nước ngoài. Tài liệu tham khảo ghi theo thứ tự: họ tên tác giả, năm xuất bản, tên cuốn sách, bài báo, tạp chí, số trang và trang tham khảo. 5. Mỗi tác giả đứng tên đầu của bài báo chỉ được đăng tối đa một bài trong một số. Bài gửi đăng không trả lại bản thảo. Tác giả ghi số điện thoại và địa chỉ email vào cuối bài. II. Đối với các bài tổng quan, trao đổi học tập, thông tin, bài dịch, kiến thức thường thức: Đối với các bài tổng quan cần có đầy đủ các tài liệu tham khảo và nguồn số liệu đã được trích dẫn trong bài. Tác giả bài tổng quan ghi rõ chức danh, học hàm, học vị, chuyên ngành, cơ quan hoặc Hội chuyên khoa ở phần ghi chú cuối trang đầu tiên của bài viết. Bài tổng quan được đánh bằng tiếng Việt, dài không quá 7 trang khổ A4 (kể cả bảng biểu và tài liệu tham khảo). Các thông tin, bài dịch, kiến thức thường thức cần ghi rõ xuất xứ của nguồn tài liệu. Đối với bài dịch cần chụp toàn văn bản bài báo tiếng nước ngoài gửi kèm bài dịch. *Bài viết xin gửi về: Tòa soạn Tạp chí Y Dược thực hành 175, Bệnh viện Quân y 175 – Số 786 Nguyễn Kiệm, Phường 3, Quận Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh. Điện thoại: 069.641192 hoặc gửi qua email: tap- chiyduocthuchanh175@gmail.com THỂ LỆ BÀI ĐĂNG TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175
File đính kèm:
- moi_lien_quan_giua_nong_do_homocystein_mau_voi_mot_so_yeu_to.pdf