Mối liên quan giữa các biểu hiện tim mạch và đường kính cầu nối động tĩnh mạch trên bệnh nhân suy thận mạn lọc máu chu kỳ

Tóm tắt

Đặt vấn đề: Biến chứng tim mạch là nguyên nhân thường gây tử vong trên bệnh nhân suy thận mạn giai

đoạn cuối. Khi bệnh nhân tiến hành lọc máu chu kỳ việc làm cầu nối thông động tĩnh mạch gây ra các biểu

hiện về tim mạch. Sự hiểu biết về mối liên quan giữa các biến chứng: tăng huyết áp, suy tim, với yếu tố cầu nối

động tĩnh mạch (thời gian tạo, vị trí, đường kính) giúp cho chúng ta theo dõi, phát hiện, ngăn ngừa và điều trị

tích cực các biến chứng nhằm làm hạn chế những nguy cơ gây tử vong cho bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn

cuối lọc máu chu kỳ. Mục tiêu: khảo sát liên quan giữa các biểu hiện tim mạch và đường kính cầu nối động

tĩnh mạch trên bệnh nhân suy thận mạn lọc máu chu kỳ. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu và

mô tả cắt ngang được thực hiện trên 303 bệnh nhân bệnh thận mạn đang lọc máu chu kỳ tại tại khoa Thận

Nhân Tạo bệnh viện Chợ Rẫy từ năm 2015 đến năm 2016. Việc khảo sát một số biểu hiện tim mạch được thực

hiện bằng khám lâm sàng, các xét nghiệm về chẩn đoán hình ảnh như: X quang, đo điện tâm đồ và siêu âm:

tim, đo đường kính cầu nối động tĩnh mạch. Kết quả: Dân số nghiên cứu bao gồm 303 bệnh nhân suy thận

mạn đang lọc máu chu kỳ. Trong đó, tuổi bệnh nhân từ 25 - 45 chiếm tỷ lệ cao nhất (43,9%). Tỷ lệ bệnh nhân

nam và nữ tương đương nhau (48,5% và 51,5%). HATT trung bình ở nhóm tạo AVF, AVG dưới 12 tháng cao

hơn nhóm trên 12 tháng, có mối tương quan nghịch không chặt chẽ (r = - 0,43) giữa đường kính AVF, AVG và

HATT (p<0,05). hattr="" trung="" bình="" ở="" nhóm="" tạo="" avf,="" avg="" dưới="" 12="" tháng="" thấp="" hơn="" nhóm="" trên="" 12="" tháng,="" có="">

tương quan thuận không chặt chẽ (r = 0,352) giữa đường kính AVF, AVG và HATTr (p<0,05). tỷ="" lệ="" bệnh="">

có suy tim ở nhóm tạo có thời gian tạo AVF, AVG trên 12 tháng cao hơn nhóm dưới 12 tháng, có mối tương

quan nghịch không chặt chẽ (r = - 0,43) giữa đường kính AVF, AVG và chỉ số EF (p<0,05). kết="" luận:="" cần="" lưu="">

về đường kính khi tiến hành mổ tạo cầu nối động tĩnh mạch ở bệnh nhân suy thận mạn lọc máu chu kỳ nhằm

làm hạn chế các biến chứng về tim mạch, đặc biệt biến chứng suy tim

pdf 5 trang phuongnguyen 10580
Bạn đang xem tài liệu "Mối liên quan giữa các biểu hiện tim mạch và đường kính cầu nối động tĩnh mạch trên bệnh nhân suy thận mạn lọc máu chu kỳ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối liên quan giữa các biểu hiện tim mạch và đường kính cầu nối động tĩnh mạch trên bệnh nhân suy thận mạn lọc máu chu kỳ

Mối liên quan giữa các biểu hiện tim mạch và đường kính cầu nối động tĩnh mạch trên bệnh nhân suy thận mạn lọc máu chu kỳ
88
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 3 - tháng 6/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
- Địa chỉ liên hệ: Võ Tam, email: votamydh@yahoo.com
- Ngày nhận bài: 9/3/2017; Ngày đồng ý đăng: 12/6/2017; Ngày xuất bản: 18/7/2017
MỐI LIÊN QUAN GIỮA CÁC BIỂU HIỆN TIM MẠCH VÀ 
ĐƯỜNG KÍNH CẦU NỐI ĐỘNG TĨNH MẠCH TRÊN BỆNH NHÂN 
SUY THẬN MẠN LỌC MÁU CHU KỲ
 Phạm Văn Hiền1, Võ Tam2, Nguyễn Hữu Vũ Quang2
(1) Bệnh viện Chợ Rẫy; (2) Trường Đại học Y Dược – Đại học Huế
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Biến chứng tim mạch là nguyên nhân thường gây tử vong trên bệnh nhân suy thận mạn giai 
đoạn cuối. Khi bệnh nhân tiến hành lọc máu chu kỳ việc làm cầu nối thông động tĩnh mạch gây ra các biểu 
hiện về tim mạch. Sự hiểu biết về mối liên quan giữa các biến chứng: tăng huyết áp, suy tim, với yếu tố cầu nối 
động tĩnh mạch (thời gian tạo, vị trí, đường kính) giúp cho chúng ta theo dõi, phát hiện, ngăn ngừa và điều trị 
tích cực các biến chứng nhằm làm hạn chế những nguy cơ gây tử vong cho bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn 
cuối lọc máu chu kỳ. Mục tiêu: khảo sát liên quan giữa các biểu hiện tim mạch và đường kính cầu nối động 
tĩnh mạch trên bệnh nhân suy thận mạn lọc máu chu kỳ. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu và 
mô tả cắt ngang được thực hiện trên 303 bệnh nhân bệnh thận mạn đang lọc máu chu kỳ tại tại khoa Thận 
Nhân Tạo bệnh viện Chợ Rẫy từ năm 2015 đến năm 2016. Việc khảo sát một số biểu hiện tim mạch được thực 
hiện bằng khám lâm sàng, các xét nghiệm về chẩn đoán hình ảnh như: X quang, đo điện tâm đồ và siêu âm: 
tim, đo đường kính cầu nối động tĩnh mạch. Kết quả: Dân số nghiên cứu bao gồm 303 bệnh nhân suy thận 
mạn đang lọc máu chu kỳ. Trong đó, tuổi bệnh nhân từ 25 - 45 chiếm tỷ lệ cao nhất (43,9%). Tỷ lệ bệnh nhân 
nam và nữ tương đương nhau (48,5% và 51,5%). HATT trung bình ở nhóm tạo AVF, AVG dưới 12 tháng cao 
hơn nhóm trên 12 tháng, có mối tương quan nghịch không chặt chẽ (r = - 0,43) giữa đường kính AVF, AVG và 
HATT (p<0,05). HATTr trung bình ở nhóm tạo AVF, AVG dưới 12 tháng thấp hơn nhóm trên 12 tháng, có mối 
tương quan thuận không chặt chẽ (r = 0,352) giữa đường kính AVF, AVG và HATTr (p<0,05). Tỷ lệ bệnh nhân 
có suy tim ở nhóm tạo có thời gian tạo AVF, AVG trên 12 tháng cao hơn nhóm dưới 12 tháng, có mối tương 
quan nghịch không chặt chẽ (r = - 0,43) giữa đường kính AVF, AVG và chỉ số EF (p<0,05). Kết luận: Cần lưu ý 
về đường kính khi tiến hành mổ tạo cầu nối động tĩnh mạch ở bệnh nhân suy thận mạn lọc máu chu kỳ nhằm 
làm hạn chế các biến chứng về tim mạch, đặc biệt biến chứng suy tim.
Từ khóa: bệnh thận mạn, lọc máu chu kỳ.
Abstract
RELATIONSHIP BETWEEN CARDIOVASCULAR DISEASES AND 
ANATOMOSIS OF ARTERIOVENOUS FISTULAR 
IN PATIENTS WITH REGULARLY HEMODIALYSIS 
Pham Van Hien1, Nguyen Huu Vu Quang2 , Vo Tam2
(1) Cho Ray Hospital; (2) Hue University of Medicine and Pharmacy - Hue University
Background: Cardiovascular diseases are the leading cause of death in patients with chronic renal failure. 
When a patient undergoes dialysis, making AVF or AVG causes cardiovascular events. Understanding the 
relationship between complications: hypertension, heart failure, AVF or AVG (formation time, position, 
diameter) helps us monitor, detect, prevent and treatment of complications to limit the risk of death in patients 
with dialysis. Objective: Relationship between cardiovascular diseases and anatomosis of arteriovenous 
fistular in patients with regularly hemodialysis at Cho Ray Hospital. Methods: A cross-sectional study was 
conducted at Cho Ray Hospital from 2015 to 2016. The survey some cardiovascular diseases are done by 
clinical examination, tests for diagnostic imaging such as X-ray, electrocardiogram and echocardiogram: heart 
and diameter of anastomosis AVF, AVG. Results: The study population included 303 patients with chronic 
renal failure who were dialysis. Of which, patients aged 25-45 accounted for the highest proportion (43.9%). 
The proportion of male and female patients was similar (48.5% and 51.5% respectively). The mean value of 
systolic blood pressure on patients made AVF, AVG less than 12 months is higher than patients made AVF, AVG 
89
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 3 - tháng 6/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
over 12 months, and there is negative correlation (r = -0.43) between AVF, AVG and systolic blood pressure (p 
<0.05). The mean value of diastolic blood pressure on patients made AVF, AVG less than 12 months is lower 
than patients made AVF, AVG over 12 months, and and there is positive correlation (r = -0.43) between AVF, 
AVG and diastolic blood pressure (p <0.05) (p <0.05). The prevalence of patients with heart failure made AVF, 
AVG over 12 months is higher than that of the under 12 months group, there is a negative correlation (r = - 
0.43) between AVF, AVG diameter and EF index (p <0.05). Conclusion: It is important to note the diameter 
of anastomosis AVF, AVG in patients with chronic renal failure dialysis to limit cardiovascular complications, 
especially heart failure.
Keywords: Chronic kidney disease, hemodialysis.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Biến chứng tim mạch là nguyên nhân thường 
gây tử vong trên bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn 
cuối. Biến chứng có thể đã xuất hiện trước khi bệnh 
nhân được lọc máu hay là hậu quả của quá trình lọc 
máu như tình trạng rối loạn điện giải thường xuyên, 
quá tải dịch do lượng nước tiểu ít, rối loạn chuyển 
hóa Canxi – phospho, tình trạng ứ đọng beta 2 
microglobulin gây biến chứng amyloidosis, việc tạo 
cầu nối động tĩnh mạch làm tăng gánh cho tim ... 
Biến chứng tim mạch là nguyên nhân gây tử vong 
gấp 10-20 lần trong nhóm bệnh nhân lọc máu.
Khi bệnh nhân tiến hành lọc máu chu kỳ việc 
làm cầu nối thông động tĩnh mạch gây ra các biểu 
hiện về tim mạch như: X quang tim phổi thẳng có tỷ 
lệ đường kính ngang tim/ngực tăng rõ sau 3 tháng 
và tiếp tục tăng sau 6 tháng, trên siêu âm tim kích 
thước các buồng tim trái giãn sớm, sự phì đại của 
thất trái tăng rõ rệt, phì đại thất trái là một biến 
chứng tim mạch thường gặp và là yếu tố phụ thuộc 
đến sự sống còn của bệnh nhân [4].
Ở Việt Nam, đã có nhiều tác giả nghiên cứu các 
biến chứng tim mạch, chủ yếu trên bệnh nhân suy 
thận mạn điều trị bảo tồn nhưng ít tác giả nghiên 
cứu về các biến chứng tim mạch do việc tạo cầu nối 
động tĩnh mạch trên bệnh nhân suy thận mạn đang 
lọc máu chu kỳ.
Sự hiểu biết về mối liên quan này giúp cho chúng 
ta theo dõi, phát hiện, ngăn ngừa và điều trị tích cực 
các biến chứng nhằm làm hạn chế những nguy cơ 
gây tử vong cho bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn 
cuối lọc máu chu kỳ. Điều đó thúc đẩy chúng tôi tiến 
hành nghiên cứu này nhằm đánh giá mối liên quan 
giữa các biến chứng: tăng huyết áp, suy tim, với yếu 
cầu nối động tĩnh mạch (thời gian tạo, vị trí, đường 
kính).
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu, mô 
tả cắt ngang.
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chí chọn bệnh: Bệnh nhân điều trị tại Khoa 
Thận Nhân Tạo Bệnh viện Chợ Rẫy được chẩn đoán 
xác định suy thận mạn có lọc máu chu kỳ của Hội 
Thận học Quốc gia Hoa Kỳ - 2012 (NKF/KDIGO-2012) 
[2]. 
Tiêu chí loại trừ: Suy thận cấp có lọc máu, đợt 
cấp suy thận mạn, suy thận mạn nhưng điều trị bảo 
tồn, bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu: 
Khảo sát một số biểu hiện tim mạch bằng các 
phương pháp sau:
1. Huyết áp động mạch:
Đơn vị biểu thị mmHg.
- Dụng cụ đo đo huyết áp đồng hồ hiệu ALPKA 
2 (Nhật) đã được chuẩn hóa máy đo huyết áp thủy 
ngân.
- Các bước tiến hành đo: đo theo tư thế ngồi.
+ Đo huyết áp bệnh nhân trước vào lọc máu.
+ Bệnh nhân ngồi 5 phút trong một phòng yên 
tĩnh trước khi đo.
+ Đo ít nhất 2 lần cách nhau 1-2 phút, nếu 2 lần 
đo này quá khác biệt thì tiếp tục đo thêm vài lần 
nữa.
+ Dùng băng quấn tay đạt tiêu chuẩn.
+ Băng quấn đặt ngang mức tim dù bệnh nhân 
ở tư thế nào. Mép dưới băng quấn trên lằn khuỷu 
tay 3cm.
+ Sau khi áp lực hơi trong băng quấn làm mất 
mạch quay, bơm hơi lên tiếp 30mmHg nữa và sau đó 
hạ cột thủy ngân từ từ (2mm/giây).
+ Sử dụng âm thanh pha I và pha V của Korotkoff 
để xác định huyết áp tâm thu.
+ Chọn huyết áp tâm trương thời điểm tiếng 
biến mất (pha V).
+ Đo huyết áp cả 2 tay trong lần đo đầu tiên để 
phát hiện sự khác biệt do bệnh lý mạch máu ngoại 
biên. Khi đó giá trị bên cao hơn được theo dõi sử 
dụng lâu dài sau này.
+ Tính huyết áp dựa trên số trung bình 2 lần đo. 
Nếu 2 lần đo này có số đo chênh nhau > 5mmHg thì 
nên đo thêm lần nữa.
+ Không bao giờ điều trị tăng huyết áp chỉ dựa vào 
kết quả 1 lần đo huyết áp.
- Chúng tôi phân độ tăng huyết áp dựa theo 
90
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 3 - tháng 6/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
phân độ tăng huyết áp theo Tổ chức Y tế thế giới, 
Hội Tăng huyết áp thế giới và Hội Tăng huyết áp Việt 
Nam 2008 [1].
2. Thăm dò siêu âm tim
- Sử dụng máy siêu âm doppler màu Aloka 
Prosound SSD 4000 của Nhật với đầu dò sector 
3,5MH đa tần số. Các thông số đều được đo 3 chu 
chuyển tim và lấy trị số trung bình. 
- Van tim: hẹp/hở van
- Kích thước thất trái: bề dày vách liên thất cuối 
tâm trương (IVSd), kích thước thất trái tâm trương 
(LVd), bề dày thành sau thất trái cuối tâm trương 
(PWd), kích thước thất trái cuối tâm thu (LVs), tỷ lệ 
IVS/PW.
- Chức năng thất trái:
+ Chức năng tâm thu: phân suất tống máu, khối 
lượng cơ thất trái.
+ Khối lượng cơ thất trái: LVM:
LVM (theo thoả ước Penn) = 1,04 × {(Dtd + IVS + 
PW) 3 - Dtd 3} - 13,6
LVM (theo ASE) = 0,8 × 1,4 × {(Dtd + IVS + PW) 
3 - Dtd 3} + 0,6 [17].
+ Chức năng tâm trương: E/A
Bảng 1. Phân loại chức năng tâm thu thất trái (LV) 
bằng phấn suất tống máu (EF) [8]
Bình thường Giảm nhẹ Giảm vừa Giảm nặng
≥ 55% 45 - 55% 30 - 44% < 30%
3. Cầu nối động tĩnh - mạch (AVF, AVG)
Đơn vị biểu thị mm
+ Dụng cụ đo: Máy siêu âm hiệu 2D ALOKA SSD - 1000 với đầu dò siêu âm mạch máu Linear 7,5MHZ.
+ Các bước tiến hành đo:
Bệnh tư thế ngồi.
Bệnh nhân ngồi 5 phút trong một phòng yên tĩnh trước khi đo.
Ga rô nhẹ vùng 1/3 trên cánh tay.
Dùng đầu dò Linear 7,5MHZ cắt mặt cắt ngang AVF, AVG đi dọc dần hướng về cầu nối động tĩnh - mạch.
Khi đã xác định cắt ngang cầu nối động tĩnh - mạch (chỗ tĩnh mạch hay mạch máu nhân tạo nối vào động 
mạch), đóng băng (Frozen) đo đường kính miệng nối.
Hình 1. Đo đường kính cầu nối động tĩnh - mạch
Tổng kết xử lý số liệu: Các số liệu được khảo sát tính chuẩn, được trình bài giá trị trung bình và độ lệch 
chuẩn nếu có phân phối chuẩn. Kết quả được xử lý bằng phần mềm SPSS 16.0, giá trị p được xem là có ý nghĩa 
thống kê nếu p < 0,05.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm về nhân trắc học của mẫu nghiên cứu
Dân số nghiên cứu bao gồm 303 bệnh nhân suy thận mạn đang lọc máu chu kỳ. Trong đó, tuổi bệnh nhân 
từ 25 - 45 chiếm tỷ lệ cao nhất (43,9%). Tỷ lệ bệnh nhân nam và nữ tương đương nhau (48,5% và 51,5%).
3.2. Mối liên quan giữa biến chứng tăng huyết áp với thời gian tạo AVF, AVG
91
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 3 - tháng 6/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Bảng 2. Mối liên quan giữa biến chứng tăng huyết áp với thời gian tạo AVF, AVG
Thời gian tạo 
AVF, AVG
< 12 tháng
(n = 273)
≥ 12 tháng
 (n=30)
P
 HATT (mmHg) 138,5 ± 17,7 130,0 ± 17,6 < 0,05
 HATTr (mmHg) 82,7 ± 11,5 87,5 ± 12,6 < 0,05
Nhận xét:
HATT trung bình ở nhóm tạo AVF, AVG dưới 12 tháng là 138,5 ± 17,7 mmHg cao hơn nhóm trên 12 tháng 
(130,0 ± 17,6 mmHg), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
HATTr trung bình ở nhóm tạo AVF, AVG dưới 12 tháng là 82,7 ± 11,5 mmHg thấp hơn nhóm trên 12 tháng 
(87,5 ± 12,6 mmHg), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
Có mối tương quan nghịch không chặt chẽ (r = - 0,43) giữa đường kính AVF, AVG và HATT theo phương 
trình tương quan: y = 1,64E2+-5,46*x với r = - 0,43, p < 0,05.
Có mối tương quan thuận không chặt chẽ (r = 0,352) giữa đường kính AVF, AVG và HATTr theo phương 
trình tương quan: y = 68,99+2,92*x với r = 0,352, p < 0,05.
3.3. Mối liên quan giữa biến chứng suy tim với thời gian tạo AVF, AVG
Bảng 3. Mối liên quan giữa biến chứng suy tim với thời gian tạo AVF, AVG
Suy tim
Thời gian 
tạo AVF, AVG
Có Không
p
n % n %
≥ 12 tháng 26 86,7 4 13,3
< 0,05
> 12 tháng 143 52,4 130 47,6
Tổng 169 55,8 134 44,2
Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân có suy tim ở nhóm tạo có thời gian tạo AVF, AVG trên 12 tháng là 86,7% cao 
hơn nhóm dưới 12 tháng (13,3%). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
Có mối tương quan nghịch không chặt chẽ (r = - 0,43) giữa đường kính AVF, AVG và chỉ số EF theo phương 
trình tương quan: y = 64,51+-2,46*x với r = - 0,447, p < 0,05.
4. BÀN LUẬN
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy HATT 
trung bình ở nhóm tạo AVF, AVG dưới 12 tháng cao 
hơn nhóm trên 12 tháng (p<0,05). HATTr trung bình 
ở nhóm tạo AVF, AVG dưới 12 tháng thấp hơn nhóm 
trên 12 tháng (p<0,05). Nhìn chung có sự khác biệt 
về HATT và HATTr trước và sau khi tạo cầu nối động 
tĩnh mạch kết quả này phù hợp với nghiên cứu của 
Korsheed S năm 2011 cho thấy có sự khác biệt chỉ số 
huyết áp sau thời gian tạo AVF 3 tháng [6] và nghiên 
cứu của Iwashima Y cho thấy HATT trung bình trước 
tạo AVF là 159 ± 4 mmHg cao hơn so với sau tạo 
14 ngày (147 ± 4 mmHg) và chỉ số HATTr trung bình 
trước tạo AVF là 83 ± 3 mmHg và sau khi tạo là 78 ± 
3 mmHg, sự chênh lệch có ý nghĩa thống kê về chỉ 
số huyết áp trước tạo AVF và sau tạo AVF [5]. Tuy 
nhiên nghiên cứu của chúng tôi khác với nghiên cứu 
của Unal A và cộng sự [9] và nghiên cứu của Ori Y [7] 
cho thấy HATT và HATTr không có sự khác biệt chỉ số 
huyết áp trước và sau khi tạo AVF. 
Sự liên quan của AVF, AVG với suy tim ở bệnh 
nhân lọc máu chu kỳ trước đây được coi là một sự 
trùng hợp ngẫu nhiên. Về mặt sinh lý bệnh việc tạo 
ra một AVF, AVG sẽ làm thay đổi về huyết động dẫn 
tới thúc đẩy các yếu tố thuận lợi của suy tim. Những 
thay đổi này bao gồm tăng lưu lượng máu về tim, 
tăng nhịp tim, giảm sức cản ngoại vi Trong nghiên 
cứu của chúng tôi tỷ lệ bệnh nhân có suy tim ở nhóm 
tạo có thời gian tạo AVF, AVG trên 12 tháng là 86,7% 
cao hơn nhóm dưới 12 tháng (13,3%), sự khác biệt 
có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Có mối tương quan 
nghịch không chặt chẽ (r = - 0,447) giữa đường kính 
AVF, AVG và chỉ số EF theo phương trình tương 
quan: y = 64,51+-2,46*x với r = - 0,447, p < 0,05.
5. KẾT LUẬN
Cần lưu ý về đường kính khi tiến hành mổ tạo 
cầu nối động tĩnh mạch ở bệnh nhân suy thận mạn 
lọc máu chu kỳ nhằm làm hạn chế các biến chứng về 
tim mạch, đặc biệt biến chứng suy tim.
92
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 3 - tháng 6/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Huỳnh Văn Minh (2008), “Khuyến cáo 2008 của Hội 
Tim mạch học Việt Nam về chẩn đoán, điều trị tăng huyết 
áp ở người lớn”, Khuyến cáo 2008 về các bệnh lý Tim mạch 
và chuyển hóa, Nxb Y học, tr. 235-295.
2. Võ Phụng, Võ Tam (2012), “Suy thận mạn”, Giáo 
trình Nội khoa sau đại học Bệnh thận - tiết niệu, Nxb Đại 
học Huế, tr. 298-317.
3. Al-Ghonaim M., Manns B.J., Hirsch D.J., et al (2008) 
“Relation between access blood flow and mortality in 
chronic hemodialysis patients”, Clin J Am Soc Nephrol, 
3(2), pp. 387-391.
4. Frank H., Heusser K., Höffken B., et al (2004), “Effect 
of erythropoietin on cardiovascular prognosis parameters 
in hemodialysis patients”, Kidney International, 66(2), pp. 
832-840.
5. Iwashima Y., Horio T., Takami Y., et al (2002), “Effects 
of the creation of arteriovenous fistula for hemodialysis 
on cardiac function and natriuretic peptide levels in CRF”, 
Am J Kidney Dis, 40(5), pp. 974-982.
6. Korsheed S., Eldehni M.T., John S.G., et al (2011), 
“Effects of arteriovenous fistula formation on arterial 
stiffness and cardiovascular performance and function”, 
Nephrol Dial Transplant, 26(10), pp. 3296-3302.
7. Ori Y., Korzets A., Katz M., et al (2002), “The 
contribution of an arteriovenous access for hemodialysis 
to left ventricular hypertrophy”, Am J Kidney Dis, 40(4), 
pp. 745-752.
8. Simonson J.S., Schiller N.B. (1989), “Descent of the 
base of the left ventricle: An echocardiographic index of 
left ventricular function”, J Am Soc Echocardiogr, 2, pp. 
25-35.
9. Unal A., Tasdemir K., Oymak S., et al (2010), “The 
long-term effects of arteriovenous fistula creation on the 
development of pulmonary hypertension in hemodialysis 
patients”, Hemodialysis International, 14(4), pp. 398-402.

File đính kèm:

  • pdfmoi_lien_quan_giua_cac_bieu_hien_tim_mach_va_duong_kinh_cau.pdf