Mối liên quan giữa áp lực hậu môn trực tràng với kết quả điều trị táo bón chức năng ở trẻ em

Táo bón thường gặp ở trẻ em, với phần lớn các trường hợp là táo bón chức năng. Nghiên cứu theo dõi

dọc 41 trẻ ≥ 6 tuổi bị táo bón mạn tính chức năng theo tiêu chuẩn Rome IV. 32 trẻ đáp ứng điều trị tốt (78%)

và 9 trẻ đáp ứng không tốt (22%). Áp lực nghỉ trung bình của hậu môn trước điều trị là 66,1 ± 16,7 mmHg,

giảm xuống 59,4 ± 13,3 mmHg sau điều trị (p < 0,001).="" nhóm="" có="" kết="" quả="" điều="" trị="" không="" tốt="" có="" áp="" lực="">

của hậu môn cao hơn so với nhóm có kết quả điều trị tốt (p < 0,001).="" áp="" lực="" nghỉ="" hậu="" môn="" không="" có="">

trị tiên lượng kết quả điều trị táo bón chức năng với diện tích dưới đường cong ROC (AUC) là 0,073 (95%

CI: 0,0001 – 0,21). Áp lực hậu môn trung bình khi rặn trước điều trị là 50,1 ± 21,2 mmHg, giảm xuống 44,1

± 20,9 mmHg sau điều trị; áp lực trực tràng trung bình khi rặn trước điều trị là 71 ± 13,5 mmHg, tăng lên

74,1 ± 13,5 mmHg sau điều trị (p > 0,05). Áp lực trực tràng khi rặn có giá trị tiên lượng đối với kết quả điều

trị táo bón chức năng với điểm ngưỡng để phân tách giữa nhóm có kết quả điều trị tốt và không tốt là 61

mmHg. Cần có thêm các nghiên cứu có cỡ mẫu lớn hơn về mối liên quan giữa áp lực hậu môn trực tràng

với kết quả điều trị táo bón chức năng ở trẻ em, từ đó giúp đưa ra các biện pháp điều trị thích hợp cho trẻ

pdf 7 trang phuongnguyen 40
Bạn đang xem tài liệu "Mối liên quan giữa áp lực hậu môn trực tràng với kết quả điều trị táo bón chức năng ở trẻ em", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối liên quan giữa áp lực hậu môn trực tràng với kết quả điều trị táo bón chức năng ở trẻ em

Mối liên quan giữa áp lực hậu môn trực tràng với kết quả điều trị táo bón chức năng ở trẻ em
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
113TCNCYH 131 (7) - 2020
Tác giả liên hệ: Chu Thị Phương Mai, 
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 09/03/2020
Ngày được chấp nhận: 10/07/2020
MỐI LIÊN QUAN GIỮA ÁP LỰC HẬU MÔN TRỰC TRÀNG VỚI 
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ TÁO BÓN CHỨC NĂNG Ở TRẺ EM
Lương Thị Minh1, Nguyễn Thị Việt Hà1,2 và Chu Thị Phương Mai1,2,
1Bệnh viện Nhi Trung ương,
2Trường Đại học Y Hà Nội
Táo bón thường gặp ở trẻ em, với phần lớn các trường hợp là táo bón chức năng. Nghiên cứu theo dõi 
dọc 41 trẻ ≥ 6 tuổi bị táo bón mạn tính chức năng theo tiêu chuẩn Rome IV. 32 trẻ đáp ứng điều trị tốt (78%) 
và 9 trẻ đáp ứng không tốt (22%). Áp lực nghỉ trung bình của hậu môn trước điều trị là 66,1 ± 16,7 mmHg, 
giảm xuống 59,4 ± 13,3 mmHg sau điều trị (p < 0,001). Nhóm có kết quả điều trị không tốt có áp lực nghỉ 
của hậu môn cao hơn so với nhóm có kết quả điều trị tốt (p < 0,001). Áp lực nghỉ hậu môn không có giá 
trị tiên lượng kết quả điều trị táo bón chức năng với diện tích dưới đường cong ROC (AUC) là 0,073 (95% 
CI: 0,0001 – 0,21). Áp lực hậu môn trung bình khi rặn trước điều trị là 50,1 ± 21,2 mmHg, giảm xuống 44,1 
± 20,9 mmHg sau điều trị; áp lực trực tràng trung bình khi rặn trước điều trị là 71 ± 13,5 mmHg, tăng lên 
74,1 ± 13,5 mmHg sau điều trị (p > 0,05). Áp lực trực tràng khi rặn có giá trị tiên lượng đối với kết quả điều 
trị táo bón chức năng với điểm ngưỡng để phân tách giữa nhóm có kết quả điều trị tốt và không tốt là 61 
mmHg. Cần có thêm các nghiên cứu có cỡ mẫu lớn hơn về mối liên quan giữa áp lực hậu môn trực tràng 
với kết quả điều trị táo bón chức năng ở trẻ em, từ đó giúp đưa ra các biện pháp điều trị thích hợp cho trẻ.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Táo bón là một trong những vần đề tiêu hóa 
thường gặp nhất ở trẻ em. 90 − 95% các trường 
hợp táo bón ở trẻ em là táo bón chức năng liên 
quan với việc huấn luyện hành vi đại tiện không 
đúng cách, chế độ ăn uống không hợp lý hoặc 
các vấn đề tâm lý trong đời sống.1 Đo áp lực 
hậu môn trực tràng cung cấp thông tin hữu ích 
về sinh lý bệnh của các rối loạn ảnh hưởng đến 
sự kiểm soát đại tiện và quá trình đại tiện hoặc 
các rối loạn gây đau hậu môn trực tràng. Từ đó, 
nó có vai trò trong xác định các rối loạn hình 
thái và chức năng của đại tràng ở các bệnh 
nhân táo bón, giúp đưa ra các biện pháp điều 
trị thích hợp trên từng bệnh nhân, theo dõi cũng 
như tiên lượng điều trị. Tại Việt Nam, đo áp lực 
hậu môn trực tràng bắt đầu được áp dụng trên 
người lớn trong vài năm trở lại đây, và hiện có 
rất ít nghiên cứu trên trẻ em. Tại Bệnh viện Nhi 
Trung ương, lần đầu tiên thiết lập quy trình đo 
áp lực hậu môn trực tràng trên trẻ em bị táo bón 
chức năng, ghi nhận đo áp lực hậu môn trực 
tràng giúp tránh bỏ sót một số bệnh lý có thể 
phát hiện sớm như phình đại tràng bẩm sinh. 
Tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào về sự thay 
đổi áp lực hậu môn trực tràng trước và sau điều 
trị ở trẻ em bị táo bón chức năng. Xuất phát từ 
vấn đề trên, chúng tôi thực hiện nghiên cứu với 
mục tiêu đánh giá mối liên quan giữa một số 
thông số đo áp lực hậu môn trực tràng với kết 
quả điều trị táo bón chức năng ở trẻ em.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
41 trẻ ≥ 6 tuổi được chẩn đoán táo bón 
chức năng đến khám và điều trị tại Bệnh viện 
Từ khóa: Táo bón chức năng, mạn tính, áp lực hậu môn trực tràng, trẻ em
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
114 TCNCYH 131 (7) - 2020
Nhi Trung ương trong thời gian từ 01/8/2017 – 
31/7/2018.
Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân
- Trẻ ≥ 6 tuổi được chẩn đoán táo bón chức 
năng theo tiêu chuẩn ROME IV2: 
 + Không đủ tiêu chuẩn chẩn đoán hội chứng 
ruột kích thích.
+ Phải bao gồm ≥ 2 tiêu chuẩn sau trong ≥ 
1 tháng:
• Đi ngoài ≤ 2 lần/tuần ở trẻ ≥ 4 tuổi.
• Ít nhất có 1 lần són phân trong 1 tuần.
• Tiền sử tư thế giữ phân hoặc ứ phân quá 
mức một cách tự ý.
• Tiền sử vận động ruột đau hoặc khó khi 
đi ngoài.
• Sự hiện diện khối phân lớn trong trực 
tràng.
• Tiền sử đi ngoài khuôn phân lớn có thể 
gây tắc bồn cầu. 
- Trẻ và gia đình đồng ý tự nguyện tham gia 
nghiên cứu, hợp tác tham gia đo áp lực hậu 
môn trực tràng, tuân thủ điều trị và đến khám 
định kỳ theo hẹn của bác sĩ.
2. Phương pháp
Nghiên cứu theo dõi dọc với cỡ mẫu thuận 
tiện. Mỗi trẻ được khám, trả lời bộ câu hỏi 
phỏng vấn đã được thiết kế trước, tái khám 
hàng tháng và được đo áp lực hậu môn trực 
tràng bằng máy đo Model MALT, hãng Standard 
Instruments – Đức tại thời điểm trước điều trị và 
sau điều trị 3 tháng.
Một số biến số
- Áp lực nghỉ hậu môn: chênh lệch giữa áp 
lực trong trực tràng và áp lực cao nhất được ghi 
lại của cơ thắt hậu môn khi nghỉ. 
- Áp lực hậu môn/ trực tràng khi rặn: chênh 
lệch giữa áp lực ban đầu và áo lực thấp nhất 
(dư) trong ống hậu môn/ trực tràng khi bệnh 
nhân rặn.
Phác đồ điều trị
Tư vấn chế độ ăn, nước uống, hướng dẫn 
trẻ đi vệ sinh đúng cách.
Nhu cầu chất xơ hàng ngày
Lượng chất xơ/ngày (g) = tuổi + 5 g.
Nhu cầu dịch hàng ngày
Tuổi Tổng lượng nước trong ngày (ml) Lượng nước uống trong ngày (ml)
4 – 8 tuổi 1700 1200
9 – 13 tuổi
Nam 2400 1800
Nữ 2100 1600
14 – 18 tuổi
Nam 3300 2600
Nữ 2300 1800
- Thuốc nhuận tràng:
+ Polyethylene glycol (PEG): PEG/macrogol 
4000 liều 0,5g/kg/ngày.
• Tiêu chuẩn đánh giá đáp ứng điều trị tốt: số 
lần đại tiện ≥ 3 lần/tuần, phân mềm (phân loại 
4 theo thang điểm Bristol) và són phân ≤ 1 lần 
mỗi 2 tuần, không sử dụng thuốc nhuận tràng 
dạng thụt hoặc đường uống.
3. Đạo đức nghiên cứu
Cha mẹ hoặc người giám hộ của trẻ được 
giải thích đầy đủ về quy trình nghiên cứu và 
đồng ý tham gia nghiên cứu. Trẻ được khám 
bệnh toàn diện, điều trị đúng phác đồ quy định. 
Các thông tin liên quan đến trẻ đều được bảo 
mật.
III. KẾT QUẢ
Chúng tôi có 41 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn 
tham gia nghiên cứu. Trong đó, trẻ trai chiếm 
59,5%; tuổi trung bình của trẻ là 7,5 ± 1,3 tuổi, 
nhóm tuổi từ 6 – 7 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất 
(56,8%).. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
115TCNCYH 131 (7) - 2020
Biểu đồ 1. Kết quả điều trị táo bón mạn tính chức năng
32 bệnh nhân đáp ứng điều trị tốt (78%) và 9 bệnh nhân điều trị không tốt (22%).
Biểu đồ 2. So sánh giá trị áp lực nghỉ trước và sau điều trị
Áp lực nghỉ trung bình trước điều trị là 66,1 ± 16,7 mmHg giảm xuống còn 59,4 ± 13,3 mmHg sau 
điều trị 3 tháng, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,001).
Biểu đồ 3. So sánh áp lực nghỉ và kết quả điều trị
- Nhóm có kết quả điều trị không tốt có áp lực nghỉ của hậu môn cao hơn so với nhóm có kết quả 
điều trị tốt. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,001).
- Áp lực nghỉ hậu môn không có giá trị tiên lượng hiệu quả điều trị táo bón chức năng với diện tích 
dưới đường cong ROC (AUC) là 0,073 (95% CI: 0,0001 – 0,21).
22%
78%
Không tốt
Tốt
Trước điều trị Sau điều trị 
Á
p 
lự
c 
ng
hỉ
 m
m
H
g 
Không tốt Tốt Kết quả điều trị 
Đ
ộ
 n
hạ
y 
1 – độ đặc hiệu 
Á
p 
lự
c 
ng
hỉ
Đường cong ROC 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
116 TCNCYH 131 (7) - 2020
Biểu đồ 4. So sánh áp lực hậu môn và trực tràng khi rặn trước và sau điều trị
- Áp lực hậu môn trung bình khi rặn trước điều trị là 50,1 ± 21,2 mmHg, giảm xuống còn 44,1 ± 
20,9 mmHg sau 3 tháng điều trị.
- Áp lực trực tràng trung bình khi rặn trước điều trị là 71 ± 13,5 mmHg, tăng lên là 74,1 ± 13,5 
mmHg sau 3 tháng điều trị.
- Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về sự thay đổi áp lực hậu môn và trực tràng khi rặn 
trước và sau điều trị (p > 0,05).
ALHM rặn 
trước ĐT 
ALHM rặn 
sau ĐT 
ALTT rặn 
sau ĐT 
ALTT rặn 
trước ĐT 
IV. BÀN LUẬN
Trong thời gian từ 1/8/2017 đến 31/7/2018, 
chúng tôi đã thu thập được 41 bệnh nhân táo bón 
đủ tiêu chuẩn vào nghiên cứu, được điều trị theo 
phác đồ và đo đủ hai lần áp lực hậu môn trực 
tràng. Trong đó, 32 bệnh nhân (78%) đạt kết quả 
điều trị tốt, 9 bệnh nhân điều trị không tốt. Tỷ lệ 
trẻ có kết quả điều trị táo bón tốt trong nghiên 
cứu của chúng tôi tương tự như kết quả nghiên 
cứu của Nguyễn Thị Việt Hà (72,8%)3 và Phạm 
Thị Thanh Nga (71,7% và 89,8%)4 và cao hơn 
kết quả nghiên cứu của Bigélli và cộng sự trên 
39 trẻ tuổi từ 4 − 12 tuổi bị táo bón.5
Trong nghiên cứu này, áp lực nghỉ trung 
bình của hậu môn là 66,1 ± 16,7 mmHg. Áp lực 
nghỉ trung bình hậu môn theo kết quả nghiên 
cứu của một số tác giả trên thế giới khá dao 
động. Theo nghiên cứu của Benninga và cộng 
sự, áp lực nghỉ hậu môn trung bình ở 22 trẻ sơ 
sinh khoẻ mạnh là 40 mmHg (7 − 65 mmHg).1 
Bigélli và cộng sự cho rằng bệnh nhân bị táo 
bón mạn tính có thể có tình trạng co thắt cơ hậu 
môn thứ phát do hậu quả của tư thế giữ phân 
nhằm tránh động tác đại tiện, hạn chế cảm giác 
đau khi đại tiện phân rắn và khuôn phân to.5 
Nghiên cứu cũng cho thấy áp lực nghỉ trung 
bình trước và sau điều trị lần lượt là 66,1 ± 16,7 
mmHg và 59,4 ± 13,3 mmHg, sự khác biệt này 
có ý nghĩa thống kê (p < 0,001). Kết quả này 
phù hợp với kết quả nghiên cứu của Bigélli và 
cộng sự trên 20 trẻ bị táo bón chức năng từ 4 − 
12 tuổi nhận thấy áp lực nghỉ trung bình trước 
và sau điều trị giảm đáng kể (trước điều trị là 
50 mmHg, sau điều trị là 43 mmHg, p = 0,007).5 
Các nghiên cứu đánh giá áp lực cơ thắt trong 
trên trẻ bị táo bón có hoặc không kèm theo són 
phân đã được báo cáo có nhiều kết quả trái 
ngược. Một vài tác giả ghi nhận thấy trẻ táo 
bón có áp lực nghỉ hậu môn bình thường, trong 
khi một số tác giả khác lại nhận thấy áp lực 
nghỉ hậu môn có thể cao hơn hay thấp hơn so 
với nhóm chứng.1 Trong nghiên cứu của chúng 
tôi, áp lực nghỉ giảm khi trẻ đáp ứng với điều 
trị có thể được lý giải là do áp lực cơ bản của 
hậu môn giảm ở trẻ táo bón chức năng mãn 
tính sau điều trị hồi phục, tương tự như ghi 
nhận của Bigélli.5 Khi được điều trị ổn định, tình 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
117TCNCYH 131 (7) - 2020
trạng co thắt của cơ vòng hậu môn biến mất, trẻ 
không còn cảm giác đau khi đại tiện, không còn 
tình trạng phản ứng với khối phân cứng trong 
trực tràng làm cho áp lực hậu môn giảm.
Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận áp lực 
nghỉ trung bình ở nhóm trẻ có kết quả điều trị 
không tốt (72,5 mmHg) cao hơn so với nhóm 
có kết quả điều trị tốt (56,7 mmHg). Sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,001). Nhóm 
bệnh nhân có kết quả điều trị táo bón không 
tốt có tình trạng cường cơ thắt hậu môn khiến 
cho động tác rặn của trẻ khó khăn hơn, trẻ khó 
huấn luyện hành vi đại tiện đúng hơn. Kết quả 
của chúng tôi cũng tương tự của Cruz nghiên 
cứu trên 31 trẻ táo bón chức năng kháng trị có 
25% bệnh nhân cường cơ thắt.6 
Từ kết quả biểu đồ 3, diện tích dưới đường 
ROC (AUC) là 0,073 (95% CI: 0,0001 − 0,21) 
cho thấy áp lực nghỉ hậu môn chưa có giá trị 
tiên lượng với hiệu quả điều trị táo bón chức 
năng. Điều này có thể lý giải là động tác đại 
tiện không chỉ phụ thuộc vào áp lực cơ thắt mà 
còn chịu sự chi phối của sợi thần kinh phó giao 
cảm, phản xạ ức chế hậu môn-trực tràng, cơ 
mu trực tràng, cơ hoành Mặt khác, cỡ mẫu 
nghiên cứu trong nghiên cứu của chúng tôi còn 
nhỏ, là nghiên cứu đầu tiên đánh giá áp lực hậu 
môn trực tràng nên chưa thể đưa ra kết luận 
chính xác về giá trị tiên lượng của áp lực nghỉ 
hậu môn trực tràng với hiệu quả điều trị táo bón 
chức năng.
Kết quả biểu đồ 4 cho thấy áp lực hậu môn 
khi rặn giảm từ 50,16 ± 21,26 mmHg (26 − 110 
mmHg) trước điều trị xuống 44,1 ± 20,9 mmHg 
(18,2 − 110 mmHg) sau sử dụng thuốc điều trị 
táo bón 3 tháng. Áp lực trực tràng trực tràng 
trung bình khi rặn sau 3 tháng điều trị là 74,1 
± 13,5 mmHg có xu hướng tăng hơn so với 
trước điều trị (71 ± 13,45 mmHg), tuy nhiên cả 
hai sự thay đổi này không có ý nghĩa thống kê. 
Điều này có thể do thời gian điều trị táo bón còn 
ngắn nên chưa ghi nhận thấy sự thay đổi rõ 
rệt. Trong nghiên cứu của chúng tôi bệnh nhân 
được điều trị chủ yếu là bằng việc cải thiện chất 
xơ, lượng nước uống hàng ngày, kết hợp với sử 
dụng thuốc nhuận tràng hợp lý và hướng dẫn 
cha mẹ bệnh nhân cách tập cho trẻ đi đại tiện 
thích hợp tùy theo những thay đổi các thông 
số thu thập được để trẻ tập cơ thắt đúng nhất 
nên có thể trương lực cơ thắt và áp lực trực 
tràng không thay đổi nhiều bằng phương pháp 
Biofeedback. Khi tình trạng ứ đọng phân trong 
trực tràng được giải phóng thì áp lực cơ thắt 
sẽ giảm hơn, trẻ không sợ đi ngoài nữa đồng 
nghĩa với việc cơ thắt sẽ giãn ra và tình trạng 
rối loạn đồng vận sẽ được giải quyết. 
Từ biểu đồ 5 ghi nhận áp lực hậu môn khi 
rặn ở nhóm có kết quả điều trị tốt thấp hơn có 
ý nghĩa thống kê so với nhóm có kết quả điều 
trị chưa tốt (41,3 mmHg so với 88,5 mmHg, p 
< 0,001). Có mối liên quan giữa áp lực rặn hậu 
môn với kết quả điều trị. Khi áp lực cơ thắt hậu 
môn tăng nghịch thường như vậy, trẻ càng rặn 
cơ thắt hậu môn càng tăng, áp lực trực tràng 
không đủ lực để đẩy khối phân ra ngoài và 
quá trình đại tiện không hiệu quả. Quá trình rối 
loạn đồng vận này càng kéo dài càng làm nặng 
thêm tình trạng táo bón. Trong nghiên cứu của 
chúng tôi nhóm kết quả điều trị không tốt chủ 
yếu là loại rối loạn đồng vận loại 2 (tăng áp lực 
trong trực tràng không đủ, kèm theo tăng áp 
lực hậu môn nghịch thường). Vì trẻ bị mắc táo 
bón luôn có tình trạng giữ phân kết hợp với thời 
gian mắc táo bón kéo dài làm cơ thắt hậu môn 
ở trạng thái tăng trương lực, tạo ra sự co thắt 
nghịch thường của cơ thắt hậu môn trong quá 
trình đại tiện. Việc áp dụng liệu pháp phản hồi 
sinh học để điều chỉnh rối loạn này khá tốt để 
tập thư giãn cơ thắt hậu môn kết hợp tăng lực 
rặn sẽ có hiệu quả tốt. Vì thời gian nghiên cứu 
của chúng tôi ngắn và chúng tôi mới áp dụng 
điều trị thông thường bằng chế độ ăn, thuốc 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
118 TCNCYH 131 (7) - 2020
nhuận tràng và thay đổi thói quen đại tiện nên 
những bệnh nhân này chưa mang lại hiệu quả 
điều trị cao.
Diện tích dưới đường cong ROC (AUC) 
trong biểu đồ 5 của áp lực hậu môn khi rặn đối 
với kết quả điều trị táo bón chức năng là 0,215 
(95% CI: 0,053 − 0,378). Như vậy cho thấy áp 
lực hậu môn khi rặn không có giá trị tiên lượng 
hiệu quả điều trị táo bón chức năng ở trẻ em. 
Cũng từ biểu đồ 5 chúng tôi nhận thấy áp 
lực rặn trực tràng với kết quả điều trị táo bón 
chức năng có diện tích dưới đường cong ROC 
(AUC) là 0,903 (95% CI: 0,768 − 1), và điểm 
ngưỡng của áp lực rặn trực tràng giữa nhóm 
hiệu quả điều trị tốt và không tốt là 61 mmHg. 
Chưa có nghiên cứu nào trên thế giới đánh giá 
mối liên quan giữa áp lực rặn trực tràng với 
hiệu quả điều trị nhưng với kết quả trên của 
chúng tôi nhận thấy 8/9 bệnh nhân nhóm hiệu 
quả điều trị không tốt có áp lực rặn trực tràng 
< 61mmHg. Tuy nhiên theo phân loại của các 
kiểu đại tiện chỉ cần áp lực rặn trực tràng > 
40mmHg là đủ để thắng lực rặn hậu môn và 
đại tiện thành công. Điều này có thể lý giải do 
bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi có 
thời gian mắc táo bón kéo dài nên cơ thắt hậu 
môn tăng trương lực mạnh do đó phải cần áp 
lực rặn trực tràng cao hơn rất nhiều so với bình 
thường mới có thể thắng được áp lực cơ thắt 
để phân và hơi thoát qua được hậu môn. Áp lực 
nghỉ trong nghiên cứu của chúng tôi khá cao 
hơn so với giá trị bình thường và theo luận giải 
của Bigélli và cộng sự cho rằng có tình trạng co 
thắt cơ hậu môn thứ phát ở bệnh nhân bị táo 
bón mạn tính do hậu quả của tư thế giữ phân 
nhằm tránh động tác đại tiện, hạn chế cảm giác 
đau khi đại tiện phân rắn và khuôn phân to.5 Vì 
vậy áp lực trực tràng khi rặn có giá trị tiên lượng 
hiệu quả điều trị táo bón chức năng ở trẻ em. 
V. KẾT LUẬN
Một số thông số đo áp lực hậu môn trực 
tràng có thể góp phần tiên lượng kết quả điều 
trị. Tuy nhiên, cần có thêm các nghiên cứu có 
cỡ mẫu lớn hơn về mối liên quan giữa áp lực 
hậu môn trực tràng với kết quả điều trị táo bón 
chức năng ở trẻ em, từ đó giúp đưa ra các biện 
pháp điều trị thích hợp cho trẻ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Benninga MA, Voskuijl WP, and Taminiau 
JA. Childhood Constipation: Is There New Light 
in The Tunnel? J Pediatr Gastroenterol Nutr. 
2004;39(5):448–464. DOI: 10.1097/00005176-
200411000-00002.
2. Hyams JS, Lorenzo CD, Saps M, et 
al. Childhood Functional Gastrointestinal 
Disorders: Child/Adolescent. Gastroenterol. 
2016;150(6):1456-1468.e2. DOI: https://doi.
org/10.1053/j.gastro.2016.02.015.
3. Nguyễn Thị Việt Hà, Đỗ Thị Minh Phương. 
Nghiên cứu một số yếu tố nguy cơ gây táo bón 
chức năng ở trẻ em tại Bệnh viện Nhi Trung 
ương, Tạp chí Nhi khoa. 2016;9(1):29.
4. Phạm Thị Thanh Nga, Nguyễn Thị Việt Hà. 
Đánh giá hiệu quả của PEG 4000 và lactulose 
trong điều trị táo bón mạn tính chức năng ở trẻ 
em lứa tuổi tiểu học: thử nghiệm lâm sàng mở, 
mù đôi có đối chứng. Tạp chí Y học Thực hành 
Thành phố Hồ Chí Minh. 2017;21(6):144.
5. Bigélli RHM, Fernandes MIM, Vicente YA 
de MV de A, et al. Anorectal manometry in 
children with chronic functional constipation. 
Arq Gastroenterol. 2005;42(3):178–181.
6. Cruz DAO, Neufeld CB, and Toporovski 
MS. Anorectal manometry in children with 
chronic functional intestinal constipation 
refractory to treatment. Rev Paul Pediatr. 
2010;28(4):347–351.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
119TCNCYH 131 (7) - 2020
Summary
RELATIONSHIP BETWEEN ANORECTAL MANOMETRY 
RESULTS AND TREATMENT OUTCOMES IN CHILDREN WITH 
CHRONIC FUNCTIONAL CONSTIPATION
Functional constipation is common in children. Longitudinal study of 41 children from 6 years old 
with chronic functional constipation according to Rome IV criteria resulted in 32 children with good 
response (78%) and 9 children with lesser response (22%). The average annus resting pressure 
before treatment was 66.1 ± 16.7 mmHg, decreased to 59.4 ± 13.3 mmHg after treatment (p < 
0.001). The group with poor treatment results had a higher resting pressure than the good respose 
group (p < 0.001). Anal resting pressure did not have prognostic value for functional constipation 
treatment with an area under the ROC curve (AUC) of 0,073 (95% CI: 0.0001 – 0.21). The average 
anal pressure during defecation before treatment was 50.1 ± 21.2 mmHg, decreased to 44.1 ± 20.9 
mmHg after treatment; the average rectal pressure during defecation before treatment was 71 ± 
13.5 mmHg, increased to 74.1 ± 13.5 mmHg after treatment (p > 0.05). Rectal pressure during 
defecation is a prognostic factor for the outcome of functional constipation treatment with a cut-
off point for separation between good and poor treatment results of 61 mmHg. In conclusion, 
some anorectal manometry results have prognostic value of treatment outcomes, thereby provide 
appropriate recommendation for treatment of children with chronic functional constipation.
Keywords: Chronic, functional constipation, anorectal manometry, children

File đính kèm:

  • pdfmoi_lien_quan_giua_ap_luc_hau_mon_truc_trang_voi_ket_qua_die.pdf