Mô tả tình trạng giấc ngủ và một số yếu tố liên quan trên người bệnh sau phẫu thuật cột sống tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội

Giấc ngủ có vai trò rất quan trọng là giúp cơ thể nghỉ ngơi và phục hồi năng lượng. Đã có nhiều nghiên cứu đánh giá chất lượng giấc ngủ của các bệnh nhân mắc những bệnh lý như tim mạch, thần kinh, nhưng lại khá hiếm nghiên cứu đánh giá chất lượng giấc ngủ của bệnh nhân sau mổ cột sống. Vậy nên chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với hai mục đích: đánh giá chất lượng giấc ngủ và tìm hiểu các yếu tố liên quan đến chất lượng giấc ngủ của bệnh nhân sau phẫu thuật tại khoa phẫu thuật thần sinh và cột sống, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 140 bệnh nhân sau mổ cột sống được chọn thuận tiện và đánh giá bằng thang điểm PSQI. Kết quả cho thấy Có 30% đối tượng có chất lượng giấc ngủ ở mức tốt với điểm PSQI≤5; 40% bệnh nhân trong nghiên cứu có giấc ngủ <5 tiếng="" mỗi="" đêm;="" các="" yếu="" tố="" như="" rối="" loạn="" lo="" âu,="" sống="" một="" mình,="" có="" bị="" ảnh="" hưởng="" bởi="" giường="" bệnh,="" có="" sử="" dụng="" bia="" rượu,="" thuốc="" lá="" là="" 5="" biến="" liên="" quan="" có="" ý="" nghĩa="" thống="" kê="" đến="" chất="" lượng="" giấc="" ngủ="" với=""><0,05.>

Kết luận: Phần lớn đối tượng nghiên cứu có chất lượng giấc ngủ kém

pdf 7 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Mô tả tình trạng giấc ngủ và một số yếu tố liên quan trên người bệnh sau phẫu thuật cột sống tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mô tả tình trạng giấc ngủ và một số yếu tố liên quan trên người bệnh sau phẫu thuật cột sống tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội

Mô tả tình trạng giấc ngủ và một số yếu tố liên quan trên người bệnh sau phẫu thuật cột sống tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
Tập 60 - Số 7-2020
Website: yhoccongdong.vn18
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2020
TÓM TẮT
Giấc ngủ có vai trò rất quan trọng là giúp cơ thể 
nghỉ ngơi và phục hồi năng lượng. Đã có nhiều nghiên 
cứu đánh giá chất lượng giấc ngủ của các bệnh nhân mắc 
những bệnh lý như tim mạch, thần kinh,nhưng lại khá 
hiếm nghiên cứu đánh giá chất lượng giấc ngủ của bệnh 
nhân sau mổ cột sống. Vậy nên chúng tôi tiến hành nghiên 
cứu này với hai mục đích: đánh giá chất lượng giấc ngủ và 
tìm hiểu các yếu tố liên quan đến chất lượng giấc ngủ của 
bệnh nhân sau phẫu thuật tại khoa phẫu thuật thần sinh 
và cột sống, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Nghiên cứu 
mô tả cắt ngang được thực hiện trên 140 bệnh nhân sau 
mổ cột sống được chọn thuận tiện và đánh giá bằng thang 
điểm PSQI. Kết quả cho thấy Có 30% đối tượng có chất 
lượng giấc ngủ ở mức tốt với điểm PSQI≤5; 40% bệnh 
nhân trong nghiên cứu có giấc ngủ <5 tiếng mỗi đêm; các 
yếu tố như rối loạn lo âu, sống một mình, có bị ảnh hưởng 
bởi giường bệnh, có sử dụng bia rượu, thuốc lá là 5 biến 
liên quan có ý nghĩa thống kê đến chất lượng giấc ngủ với 
p<0,05. Kết luận: Phần lớn đối tượng nghiên cứu có chất 
lượng giấc ngủ kém.
Từ khóa: Chất lượng giấc ngủ, phẫu thuật cột sống, 
lo âu.
ABSTRACT:
DESCRIPTION OF THE SITUATION 
SITUATION AND SOME RELATED FACTORS 
IN THE PATIENT AFTER LIFE SURGERY IN 
HOSPITAL HANOI UNIVERSITY OF MEDICINE
Sleep has a very important role in helping the body 
rest and restore energy. There have been many studies 
evaluating the quality of sleep of patients suffering from 
diseases such as cardiovascular, neurological, ... but 
quite rarely research evaluating sleep quality of patients 
after spinal surgery. So we conducted this study with 
two purposes: assessing sleep quality and understanding 
factors related to the quality of sleep of patients after 
surgery in the department of neurology and spinal surgery. 
Hanoi Medical University Institute. A cross-sectional 
descriptive study was performed on 140 conveniently 
selected postoperative spine patients and evaluated using 
a PSQI scale. Results showed that 30% of subjects had 
good sleep quality with PSQI score of≤5; 40% of patients 
in the study had sleep <5 hours per night; Factors such as 
anxiety disorder, living alone, being affected by hospital 
beds, alcohol and tobacco use are 5 variables that have 
statistical significance to sleep quality with p <0.05. 
Conclusion: Most study subjects have poor sleep quality.
Keywords: Sleep quality, spine surgery, anxiety.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chất lượng giấc ngủ là một nhu cầu sinh lý quan 
trọng và là một phần thiết yếu của chất lượng cuộc 
sống [1].Tỷ lệ mắc các vấn đề về giấc ngủ trong dân 
số nói chung dao động từ 6% đến 76,3% trên nhiều 
quốc gia [2] [3]. 
Rối loạn giấc ngủ thường xảy ra ở người bệnh sau 
phẫu thuật, và sự rối loạn này gây ảnh hưởng không tích 
cực đến sự phục hồi sau phẫu thuật [4], đặc biệt là những 
phẫu thuật lớn, can thiệp xâm lấn nhiều như phẫu thuật 
cột sống. 
Đối với người bệnh giấc ngủ vô cùng quan trọng, 
nó có ảnh hưởng tích cực trong việc làm giảm đau, giảm 
căng thẳng lo âu, nâng cao thể trạng và thúc đầy quá trình 
phục hồi sức khỏe của người bệnh. Tuy nhiên, bệnh nhân 
nội trú thường gặp khó khăn trong việc đi vào giấc ngủ và 
duy trì nó hoặc thường phàn nàn về việc tỉnh giấc sớm và 
không thể ngủ lại được [5] [6]. Hiện nay, ở trong nước có 
rất ít các nghiên cứu thể hiện tổng quát nhất về thực trạng 
chất lượng giấc ngủ trên bệnh nhân sau phẫu thuật cột 
sống, do vậy chúng tôi quyết định tiến hành nghiên cứu: 
“Mô tả tình trạng giấc ngủ và một số yếu tố liên quan 
Ngày nhận bài: 17/09/2020 Ngày phản biện: 24/09/2020 Ngày duyệt đăng: 08/10/2020
MÔ TẢ TÌNH TRẠNG GIẤC NGỦ VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN 
QUAN TRÊN NGƯỜI BỆNH SAU PHẪU THUẬT CỘT SỐNG TẠI 
BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
Chu Thị Chi1, Nguyễn Vũ1, Hoàng Thị Phương2, Bùi Thị Oanh2 
1. Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
2. Trường Đại học Y Hà Nội
Tập 60 - Số 7-2020
Website: yhoccongdong.vn 19
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
trên người bệnh sau phẫu thuật cột sống tại Bệnh viện 
Đại học Y Hà Nội” với mục tiêu:
1. Mô tả tình trạng giấc ngủ của người bệnh sau 
phẫu thuật cột sống tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ 
tháng 8 đến tháng 12 năm 2019.
2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến tình trạng 
giấc ngủ của người bệnh sau phẫu thuật cột sống tại Bệnh 
viện Đại học Y Hà Nội.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN 
CỨU
2.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại Bệnh viện Đại học Y 
Hà Nội. Thời gian nghiên cứu từ tháng 8 năm 2019 đến 
tháng 12 năm 2019. 
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Người bệnh sau phẫu thuật cột sống tại Bệnh viện 
Đại học Y Hà Nội trong thời gian nghiên cứu.
2.2.1. Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân
•	Người bệnh sau phẫu thuật cột sống.
•	Người bệnh điều trị nội trú.
2.2.2. Tiêu chuẩn loại trừ
•	Người bệnh không đồng ý tham gia nghiên cứu.
•	Người bệnh không thể trả lời câu hỏi: hôn mê, 
trẻ nhỏ
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp chọn mẫu và cỡ mẫu
•	Phương pháp chọn mẫu: Trong đề tài của chúng 
tôi sử dụng phương pháp chọn mẫu thuận tiện. Những 
người bệnh đã được phẫu thuật cột sống và chuẩn bị ra 
viện trong thời gian nghiên cứu đều được chọn tham gia 
vào nghiên cứu. 
Cỡ mẫu: Ước tính cỡ mẫu nghiên cứu cần thiết là 
140 người bệnh.
2.3.2. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả, 
cắt ngang.
2.4. Công cụ thu thập thông tin
Bộ câu hỏi phỏng vấn nghiên cứu chất lượng giấc 
ngủ được xây dựng trên bộ câu hỏi chỉ số chất lượng giấc 
ngủ của Pittsburgh – PSQI [1], có sự tham khảo đến bản 
dịch tiếng Việt được sử dụng tại Viện Sức khỏe Tâm thần 
Quốc gia và được chỉnh sửa sao cho phù hợp với điều 
kiện, hoàn cảnh tại khoa.
Chất lượng giấc ngủ sẽ được báo cáo dưới hai dạng 
là: Điểm tổng chung của các câu hỏi từ 0-21, hai nhóm 
“chất lượng giấc ngủ kém” hay “chất lượng giấc ngủ tốt”: 
•	Tổng điểm PSQI ≤ 5 liên quan đến chất lượng giấc 
ngủ tốt.
•	Tổng điểm PSQI > 5 liên quan đến chất lượng giấc 
ngủ kém.
2.5. Quản lý và phân tích số liệu
•	Số liệu thu thập sẽ được làm sạch trước khi nhập 
liệu, được nhập vào máy tính và quản lý bằng phần mềm 
EPI –DATA 3.1
•	Phân tích và sử lý số liệu trên phần mềm 
STATA 12.0 
III. KẾT QUẢ
3.1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Trong số 140 đối tượng nghiên cứu với độ tuổi trung 
bình là 55,7 phần lớn người bệnh tham gia nghiên cứu là 
nữ (67,1%). Hầu hết đối tượng sống ở khu vực nông thôn 
(73,5%), có trình độ học vấn dưới THPT (59,3%), nghề 
nghiệp là công nhân, nông dân (60,7%) và tình trạng hôn 
nhân là đang kết hôn (79,3%). Thu nhập bình quân của đối 
tượng nghiên cứu là 2,7 triệu/ tháng.
Bảng 3.1. Phân bố đặc điểm xã hội học của đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm Số lượng (N) Tỷ lệ (%) Đặc điểm Số lượng (N) Tỷ lệ (%)
Giới tính Nhóm tuổi (mean±SD= 55,7±15,1)
Nam 46 32,9 ≤ 60tuổi 85 60,7
Nữ 94 67,1 > 60 tuổi 55 39,3
Tình trạng hôn nhân Trình độ học vấn
Độc thân 11 7,9 ≤ THPT 116 82,9
Đã kết hôn 111 79,3 >THPT 24 17,1
Li dị/li thân/Góa 18 12,8
Tập 60 - Số 7-2020
Website: yhoccongdong.vn20
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2020
3.2. Tình trạng bệnh của đối tượng nghiên cứu
Biểu đồ 3.1. Đặc điểm về giấc ngủ của đối tượng nghiên cứu 
Bảng 3.2. Đặc điểm phẫu thuật của đối tượng nghiên cứu 
Đặc điểm Số lượng (N) Tỷ lệ (%) Đặc điểm Số lượng (N) Tỷ lệ (%)
Vị trí phẫu thuật Loại phẫu thuật
Cột sống cổ 15 10,7 Thoát vị đĩa đệm 57 40,7
Cột sống thắt lưng 117 83,6 Chấn thương cột sống 11 7,9
Cột sống ngực và khác 8 5,7 Xẹp đốt sống 31 22,1
Loại tầng cột sống Trượt đốt sống 21 15,0
1 tầng, 1 đốt sống 85 60,7 Hẹp ống sống 12 8,6
≥ 2 tầng 55 39,3 U và dị dạng cột sống 8 5,7
Phương pháp vô cảm Phương pháp phẫu thuật
Gây mê 106 75,7 Mổ mở 73 52,1
Gây tê 34 24,3 Ít xâm lấn 26 18,6
Bơm xi măng 41 29,3
Thời gian nằm viện (Mean ±SD): 7,34 ± 3,56
Về đặc điểm phẫu thuật, chủ yếu người bệnh tham 
gia nghiên cứu (chiếm 83,6%) có phẫu thuật ở vị trí cột 
sống thắt lưng. Có đến 40,7% đối tượng phẫu thuật thoát 
vị đĩa đệm. Phương pháp gây mê được sử dụng chủ yếu 
với 75,7%. Thời gian nằm viện sau mổ của người bệnh 
trung bình là 7,34 ngày, SD ± 3,57 (n = 140).
3.3. Mô tả tình trạng giấc ngủ của đối tượng 
nghiên cứu
Khu vực sinh sống Thu nhập
Nông thôn 103 73,5 >5 triệu 96 68,6
Thành thị 37 26,5 ≤5 triệu 44 31,4
Tập 60 - Số 7-2020
Website: yhoccongdong.vn 21
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Sau phẫu thuật, phần lớn bệnh nhân đều đánh giá 
chủ quan chất lượng giấc ngủ ở mức tốt và tương đối tốt 
(71,4%). Thời gian ngủ buổi đêm sau mổ chủ yếu dưới 5 
tiếng. Hiệu suất giấc ngủ trung bình đạt 70,0 % ± 28,9% 
(n = 140), chỉ 30,7% bệnh nhân đánh hiệu quả giấc ngủ 
trên 85%, có đến 34,3% bệnh nhân đánh giá hiệu quả giấc 
ngủ dưới 65%. Chỉ 32,1% bệnh nhân có sử dụng thuốc 
ngủ trước khi ngủ sau mổ. Điểm chấm theo thang đánh giá 
chất lượng giấc ngủ của Pittsburgh của bệnh nhân là: 9,07 
± 4,76 sau trung bình 7,34 ± 3,56 ngày điều trị sau mổ.
Phần lớn đối tượng có chất lượng giấc ngủ ở mức 
kém theo thang điểm PSQI (70%, n = 140). 
3.4. Một số yếu tố liên quan đến chất lượng giấc ngủ
Biểu đồ 3.2. Biểu đồ mô tả chất lượng giấc ngủ của người bệnh 
Bảng 3.4. Các yếu tố liên quan đến chất lượng giấc ngủ bệnh nhân
Yếu tố OR 95%CI
Tuổi (a≤ 60 tuổi)
> 60 tuổi 0,703 0,34- 1,46
Giới (aNam)
Nữ 1.4 0.66 – 2.97
Nghề nghiệp (aNông dân, công nhân,)
Nghỉ hưu 1.401 0.56 – 3.49
Căng thẳng trong cuộc sống (aKhông)
Có 5.278 1.74 – 16.02
Rối loạn lo âu (aKhông)
Có 3.181 1.38 – 7.35
Ảnh hưởng của giường bệnh (a Không)
Có 6.13 1.38 – 27.35
Ảnh hưởng của nệm giường (akhông)
Có 6.49 1.46 – 28.86
Tình trạng đau hiện tại (aKhông)
Có 2.85 1.32 – 6.17
Tập 60 - Số 7-2020
Website: yhoccongdong.vn22
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2020
Bảng 3.4 mô tả một số yếu tố liên quan đến chất 
lượng giấc ngủ bệnh nhân. Bệnh nhân có đặc điểm có rối 
loạn lo âu, ảnh hưởng của nệm giường, có bị ảnh hưởng 
bởi giường bệnh, căng thẳng trong cuộc sống, tình trạng 
đau hiện tại là 5 biến liên quan có ý nghĩa thống kê đến 
điểm chất lượng giấc ngủ bệnh nhân. Sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê với p<0,05. 
Mô hình gồm 5 biến độc lập có ý nghĩa thống kê, χ2 
(5, N=140) = 25,358; P<0.000 cho thấy mô hình phù hợp 
để phân biệt người có chất lượng giấc ngủ tốt và kém. 
Mức giải thích của mô hình với chất lượng giấc ngủ nằm 
trong khoảng từ 16,6% (R2 Cox & Snell) đến 23,5% (R2 
Nagelkerke) và dự đoán mô hình chính xác tới 72,9%.
IV. BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện trên 140 bệnh nhân sau 
phẫu thuật cột sống tại Khoa Ngoại thần kinh cột sống 
Bệnh viện Đại học Y Hà Nội trong thời gian từ tháng 
8 năm 2019 đến tháng 12 năm 2019. Các tác giả trong 
nước và thế giới đều có chung nhận định là bệnh về cột 
sống thắt lưng gặp ở nữ nhiều hơn nam[1]. Tuổi trung 
bình của bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi là: 
5,7±15,12, bệnh nhân nhỏ tuổi nhỏ nhất là 20 tuổi và bệnh 
nhân tuổi lớn nhất là 89 tuổi. Nghiên cứu của các tác giả 
trong nước và thế giới cho kết quả thấp hơn như: Võ Văn 
Thanh tuổi trung bình là 49,5±10,1 (28-73) [3] và tương 
tự như nghiên cứu của Sakaura tuổi trung bình là 58,6 (23-
79) [10]. Nghề nghiệp của yếu của ĐTNN là công nhân, 
nông dân (60,7%). Những người thuộc nhóm nghề nghiệp 
này cột sống thường chịu những vi chấn thương do ngồi 
nhiều ở những tư thế có hại cho cột sống, thỉnh thoảng 
có những vận động quá mức sai tư thế như bê vác không 
đúng, chơi thể thao quá mức không khởi động 
4.2. Mô tả đặc điểm giấc ngủ của đối tượng tham 
gia nghiên cứu
Thời gian ngủ (PSQI Sleep Duration)
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy phần lớn thời 
gian ngủ của đối tượng nghiên cứu là dưới 5h (40%). Tỉ 
lệ này tương tự như nghiên cứu của tác giả Bùi Thị Thu 
Hoài năm 2014 [1]. Điều này có thể giải thích bởi việc sử 
dụng cùng bộ công cụ đo lường chất lượng giấc ngủ của 2 
nghiên cứu trên đối tượng tương tự nhau. 
Về đánh giá chất lượng giấc ngủ sau mổ chủ quan 
(PSQI Subjective sleep quality)
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy phần 
lớn đối tượng đánh giá chất lượng giấc ngủ ở mức tốt 
và tương đối tốt (71,4%). Kết quả này ngược lại so với 
nghiên cứu của Hoàng Thị Hạnh năm 2015 [2]. Kết quả 
này thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của Dharmajaya 
và cộng sự năm 2017. 
Về hiệu suất giấc ngủ sau mổ (PSQI Habitual 
Sleep Efficiency)
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 30,7% 
bệnh nhân đánh hiệu quả giấc ngủ trên 85% và 34,3% 
bệnh nhân đánh giá hiệu quả giấc ngủ dưới 65%. Kết quả 
này cao hơn so với nghiên cứu của Hoàng Thị Hạnh năm 
2015 [2]. Nghiên cứu của Mustafa Ogden và cộng sự tại 
Thổ Nhĩ Kì năm 2017 [11]. Sự khác biệt về điểm đánh giá 
hiệu quả giấc ngủ trước phẫu thuật và sau phẫu thuật có 
ý nghĩa thống kê với p<0,001. Có thể thấy rằng hiệu suất 
giấc ngủ sau mổ bệnh nhân Bệnh viện Đại học Y Hà Nội 
ở mức khá và tốt.
Về sử dụng thuốc ngủ trước khi ngủ sau mổ (PSQI 
Use of Sleep Medication)
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy chỉ 32,1% 
bệnh nhân có sử dụng thuốc ngủ trước khi ngủ sau mổ. kết 
Bảng 3.5. Trình bày mô hình hồi quy logistic dự đoán khả năng ảnh hưởng tới chất lượng giấc ngủ của người 
bệnh sau mổ cột sống
Các đặc điểm B OR 95% CI
Tình trạng đau -0.713 0.49 0.213- 1.127
Các vấn đề căng thẳng trong cuộc sống -1.744 0.175 0.056- 0.546
Ảnh hưởng của việc nằm trên giường/cáng 0.813 2.254 0.075- 67.377
ảnh hưởng của nệm giường -1.046 0.351 0.012- 10.357
Lo âu -0.893 0.409 0.41- 4.08
Tập 60 - Số 7-2020
Website: yhoccongdong.vn 23
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
quả này thấp hơn so với nghiên cứu của Hoàng Thị Hạnh 
năm 2015 thực hiện trên 100 bệnh nhân phẫu thuật trượt 
đốt sống tại bệnh viện Việt Đức với 52% bệnh nhân cần 
sự hỗ trợ của thuốc ngủ. 
Thời gian tiềm giấc ngủ (tỉnh giấc giữa đêm) 
(PSQI Sleep Disturbanes)
Nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng điểm trung bình 
thời gian tiềm giấc ngủ là 1,2 ± 1,6 (Min-Max: 0-3). Kết 
quả này cao hơn so với nghiên cứu của Mustafa Ogden và 
cộng sự với trung bình thời gian tiềm giấc ngủ chấm theo 
chỉ số PSQI phiên bản Thổ Nhĩ Kì là 0 ± 0,483. Sự khác 
biệt này do cách tính điểm thời gian tỉnh giấc giữa đêm 
theo thang điểm chỉ số chất lượng giấc ngủ Pittsburgh của 
2 nghiên cứu là khác nhau.
Mức độ khó ngủ (PSQI Sleep Latency)
Nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng điểm trung 
bình mức độ khó ngủ là 6,7 ± 4,0. Kết quả này cao hơn so 
với nghiên cứu của Mustafa Ogden và cộng sự với trung 
bình điểm mức độ khó ngủ của bệnh nhân sau phẫu thuật 
cột sống là 1 ± 0,492. 
Về rối loạn các hoạt động ban ngày (PSQI Daytime 
Functionality loss)
Điểm trung bình rối loạn các hoạt động ban ngày của 
bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi là 0,32 ± 0,75. 
So với nghiên cứu khác trên thế giới, kết quả nghiên cứu 
của chúng tôi thấp hơn. Nghiên cứu của Mustafa Ogden 
và cộng sự cho kết quả trung bình điểm rối loạn các hoạt 
động ban ngày của bệnh nhân sau phẫu thuật là 1 ± 0,524, 
trong khi trước phẫu thuật là 3 ± 0,672, sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê với p <0,001. Kết quả này cũng thấp hơn 
so với nghiên cứu của Hashmi và cộng sự tiến hành tại 
bệnh viện Mayo, Lahore, Mỹ. Nghiên cứu cho thấy điểm 
trung bình rối loạn các hoạt động ban ngày của bệnh nhân 
là 1,25 ± 0,88 [12]. 
Điểm đánh giá chất lượng giấc ngủ Pittsburgh
Nghiên cứu này của chúng tôi cũng áp dụng thang 
điểm này để đánh giá chất lượng giấc ngủ trên 140 bệnh 
nhân sau phẫu thuật cột sống. Kết quả cho thấy 30% bệnh 
nhân có chất lượng giấc ngủ ở mức tốt, tức là có điểm 
PSQI<5 điểm. Tỉ lệ này thấp hơn so với nghiên cứu tại 
Indonesia của tác giả Ridha Dharmajaya và cộng sự. 
Điểm chấm theo thang đánh giá chất lượng giấc ngủ của 
Pittsburgh của bệnh nhân là: 9,07 ± 4,76. So với nghiên 
cứu khác trên thế giới, kết quả nghiên cứu của chúng tôi 
cao hơn nghiên cứu của Mustafa Ogden tại Thổ Nhĩ Kỳ và 
thấp hơn so với nghiên cứu của Buysse tại Mỹ. 
4.3. Một số yếu tố liên quan đến chất lượng giấc 
ngủ
Trong phân tích hồi quy logistic tìm mối liên quan 
giữa đặc điểm môi trường và các yếu tố khác với chất 
lượng giấc ngủ, chúng tôi tìm ra bệnh nhân có đặc điểm có 
rối loạn lo âu, tình trạng đau hiện tại, có bị ảnh hưởng bởi 
giường bệnh, nệm giường, các vấn đề căng thẳng trong 
cuộc sống là 5 biến liên quan có ý nghĩa thống kê đến 
chất lượng giấc ngủ bệnh nhân. Việc nằm trên giường 
cáng bệnh viện tương quan đồng biến với tự đánh giá chất 
lượng giấc ngủ của bệnh nhân. 
Mô hình hồi quy logistic đa biến được áp dụng nhằm 
phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng giấc 
ngủ của người bệnh sau phẫu thuật cột sống. Yếu tố gặp 
các vấn đề căng thẳng trong cuộc sống là yếu tố liên quan 
có giá trị tiên lượng duy nhất trong mô hình có ảnh hưởng 
tới tình trạng chất lượng giấc ngủ của người bệnh sau mổ 
cột sống. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy người 
bệnh có vấn đề căng thẳng trong cuộc sống có nguy cơ rối 
loạn giấc ngủ cao gấp 0,175 lần so với người bệnh không 
có các vấn đề căng thẳng trong cuộc sống. Điều này chứng 
tỏ vấn đề căng thẳng trong cuộc sống ảnh hưởng đến chất 
lượng giấc ngủ của người bệnh. 
KẾT LUẬN
- Điểm chấm theo thang đánh giá chất lượng giấc 
ngủ của Pittsburgh của bệnh nhân là: 9,07 ± 4,76.
- Có 30% đối tượng có chất lượng giấc ngủ ở mức 
tốt với điểm PSQI<5. 
- Đa số người bệnh ngủ được ít hơn 7h mỗi 
đêm(73,6%). Mặc dù vậy, phần lớn đối tượng đánh giá 
chất lượng giấc ngủ ở mức tốt và tương đối tốt (71,%), 
hầu hết đối tượng nghiên cứu đều không phải dùng thuốc 
để ngủ (67,9%).
- Có 5 yếu tố có mối tương quan với chất lượng giấc 
ngủ: rối loạn lo âu, mức độ đau ảnh hưởng của việc nằm 
giường, ảnh hưởng của nệm giường bệnh, các vấn đề căng 
thẳng trong cuộc sống.
- Các vấn đề căng thẳng trong cuộc sống (OR =0,175; 
95%CI: 0.056- 0.546; P=0,003) là yếu tố tiên lượng mạnh 
nhất của việc ảnh hưởng tới chất lượng giấc ngủ của người 
bệnh, trong đó người bệnh có các vấn đề căng thẳng trong 
cuộc sống có nguy cơ ảnh hưởng tới chất lượng giấc ngủ 
gấp 5,7 lần.
Tập 60 - Số 7-2020
Website: yhoccongdong.vn24
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2020
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoài, B.T.T., Mô tả chất lượng giấc ngủ và yếu tố ảnh hưởng đến giấc ngủ của bệnh nhân sau mổ thoát vị đĩa 
đệm cột sống thắt lưng tại khoa Phẫu thuật cột sống Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức năm 2014,, Luận văn tốt nghiệp cử 
nhân Y khoa. 2014, Trường đại học Y Hà Nội.
2. Hạnh, H.T., Đặc điểm giấc ngủ và các yếu tố ảnh hưởng đến giấc ngủ của các bệnh nhân sau mổ trượt đốt sống 
thắt lưng tại khoa phẫu thuật cột sống Bệnh viện Việt Đức, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân điều dưỡng. 2015, Đại học 
y Hà Nội.
3. Thanh, V.V., Kết quả điều trị trượt đốt sống thắt lưng L4-L5 bằng phẫu thuật lấy đĩa đệm, cố định cột sống, 
ghép xương liên thân đốt, Luận văn tốt nghiệp Bác sỹ nội trú. 2014, Trường Đại học Y Hà Nội.
4. Buysse, D.J., et al., The Pittsburgh Sleep Quality Index: a new instrument for psychiatric practice and research. 
Psychiatry research, 1989. 28(2): p. 193-213.
5. Leger, D. and B. Poursain, An international survey of insomnia: under-recognition and under-treatment of a 
polysymptomatic condition. Current medical research and opinion, 2005. 21(11): p. 1785-1792.
6. Ohayon, M. and P. Lemoine, A connection between insomnia and psychiatric disorders in the French general 
population. L’Encephale, 2002. 28(5 Pt 1): p. 420.
7. Aurell, J. and D. Elmqvist, Sleep in the surgical intensive care unit: continuous polygraphic recording of sleep 
in nine patients receiving postoperative care. Br Med J (Clin Res Ed), 1985. 290(6474): p. 1029-1032.
8. Young, J.S., et al., Sleep in hospitalized medical patients, part 1: factors affecting sleep. Journal of hospital 
medicine: an official publication of the Society of Hospital Medicine, 2008. 3(6): p. 473-482.
9. Wilson, S. and D. Nutt, Insomnia: guide to diagnosis and choice of treatment. Prescriber, 2008. 19(8): p. 14-24.
10. Sakaura, H., et al., Symptomatic adjacent segment pathology after posterior lumbar interbody fusion for adult 
low-grade isthmic spondylolisthesis. Global spine journal, 2013. 3(4): p. 219-224.
11. Ogden, M., et al., An evaluation of the quality of sleep before and after surgical treatment of patients with 
cervical disc herniation. Journal of Korean Neurosurgical Society, 2018. 61(5): p. 600.
12. Hashmi, A.M., et al., The Pittsburgh sleep quality index: validation of the Urdu translation. J Coll Physicians 
Surg Pak, 2014. 24(2): p. 123-126.

File đính kèm:

  • pdfmo_ta_tinh_trang_giac_ngu_va_mot_so_yeu_to_lien_quan_tren_ng.pdf