Mô tả thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến nhân lực y tế tại bệnh viện đa khoa huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang năm 2016
Nhân lực y tế có vai trò đặc biệt quan trọng - Ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động chăm sóc sức khoẻ con người. Ngành Y tế Việt Nam đang tồn tại khó khăn về phát triển và sử dụng nguồn nhân lực, đặc biệt là sự phân bố không đồng đều cũng như sự thiếu hụt nhân lực y tế có trình độ chuyên môn cao và đội ngũ cán bộ quản lý giỏi. Nghiên cứu áp dụng phương pháp mô tả cắt ngang, kết hợp định lượng và định tính, được tiến hành năm 2016. Số liệu định lượng được thu thập qua Báo cáo thứ cấp. Số liệu định tính thu thập qua 14 cuộc phỏng vấn sâu cán bộ quản lý và 03 cuộc thảo luận nhóm nhân viên y tế. Kết quả cho thấy thực trạng thiếu hụt nhân lực y tế, đặc biệt là bác sĩ, cơ cấu chuyên môn cũng như cơ cấu bộ phận trong bệnh viện đang mất cân đối. Bệnh viện đã xây dựng kế hoạch thu hút, tuyển dụng, quản lý và duy trì nhân lực. Tuy nhiên việc quản lý nhân lực chưa được thực hiện dựa trên kế hoạch và còn nhiều bất cập. Bệnh viện cần có chính sách thu hút nhân lực y tế, củng cố hoàn thiện bộ máy đặc biệt là bộ phận quản lý nhân lực cũng như phát huy hơn nữa vai trò của phòng tổ chức cán bộ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mô tả thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến nhân lực y tế tại bệnh viện đa khoa huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang năm 2016
V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SỐ 35- Tháng 11+12/2016 Website: yhoccongdong.vn70 MÔ TẢ THỰC TRẠNG VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NHÂN LỰC Y TẾ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG NĂM 2016 TÓM TẮT Nhân lực y tế có vai trò đặc biệt quan trọng - ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động chăm sóc sức khoẻ con người. Ngành Y tế Việt Nam đang tồn tại khó khăn về phát triển và sử dụng nguồn nhân lực, đặc biệt là sự phân bố không đồng đều cũng như sự thiếu hụt nhân lực y tế có trình độ chuyên môn cao và đội ngũ cán bộ quản lý giỏi. Nghiên cứu áp dụng phương pháp mô tả cắt ngang, kết hợp định lượng và định tính, được tiến hành năm 2016. Số liệu định lượng được thu thập qua báo cáo thứ cấp. Số liệu định tính thu thập qua 14 cuộc phỏng vấn sâu cán bộ quản lý và 03 cuộc thảo luận nhóm nhân viên y tế. Kết quả cho thấy thực trạng thiếu hụt nhân lực y tế, đặc biệt là bác sĩ, cơ cấu chuyên môn cũng như cơ cấu bộ phận trong bệnh viện đang mất cân đối. Bệnh viện đã xây dựng kế hoạch thu hút, tuyển dụng, quản lý và duy trì nhân lực. Tuy nhiên việc quản lý nhân lực chưa được thực hiện dựa trên kế hoạch và còn nhiều bất cập. Bệnh viện cần có chính sách thu hút nhân lực y tế, củng cố hoàn thiện bộ máy đặc biệt là bộ phận quản lý nhân lực cũng như phát huy hơn nữa vai trò của phòng tổ chức cán bộ. Từ khóa: Nhân lực y tế, quản lý, sự thiếu hụt. SUMMARY: DESCRIPTION OF REALITY AND FACTORS AFFECTING HUMAN HEALTH DISTRICT HOSPITAL IN AN BIEN, KIEN GIANG 2016 The medical workforce plays an important and impactful role in the well-beings of human. It remains challenge for the Vietnamese medical administration to effectively utilize this workforce due to the uneven distribution and the lack of key professionals and managerial personnel. A detailed study combining qualitative and quantitative sampling, data collection and analysis techniques was conducted in 2016 along with 14 thorough interviews with managerial personnel and 3 discussions with medical practitioners. These studies showed a shortage in medical personnel, especially doctors and specialists, as well as an imbalance among these segments. In spite of hospitals’ strategic plans to attract and retain employees, such efforts have not shown effects. Hospitals need to reinforce their strategies and establish their roles in managing and organizing such workforce. Keywords: The medical workforce, managing, shortage I. ĐẶT VẤN ĐỀ Sau gần 30 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc, đời sống của nhân dân bây giờ không chỉ muốn ăn no mặc ấm, mà phải ăn ngon mặc đẹp. Chính vì vậy mà họ ngày càng đòi hỏi cao hơn về chất lượng dịch vụ y tế. Bệnh viện huyện (BVH) là một mắt xích trọng yếu trong mạng lưới KCB, là cấp trung chuyển giữa y tế tuyến trên với y tế cơ sở (YTCS). Tuy nhiên trên thực tế tỷ lệ người dân đến KCB tại BVH chưa cao. Có nhiều lý do dẫn đến tình trạng này nhưng nguyên nhân chủ yếu là nguồn nhân lực y tế (NLYT) còn thiếu trên tất cả các tuyến, trình độ chuyên môn không đồng đều và còn nhiều hạn chế [2]. Cho đến nay, chưa có nghiên cứu đánh giá nào về công tác phát triển nguồn nhân lực tại BV Đa khoa An Biên vì vậy nghiên cứu này Phạm Trí Dũng1, Huỳnh Lê Diễm Phúc2 1. Trường Đại học Y tế Công cộng. Email: [email protected]; Điện thoại: 0983.588.268 2. Bệnh viện Đa khoa An Biên Ngày nhận bài: 19/10/2016 Ngày phản biện: 24/10/2016 Ngày duyệt đăng: 29/10/2016 JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2016 SỐ 35 - Tháng 11+12/2016 Website: yhoccongdong.vn 71 được thực hiên nhằm “Mô tả thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến nhân lực y tế tại Bệnh viện Đa khoa huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang năm 2016”. II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Thiết kế nghiên cứu: Sử dụng nghiên cứu mô tả cắt ngang, kết hợp nghiên cứu định lượng và nghiên cứu định tính. 2.2. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu định lượng: Hồ sơ sổ sách, tài liệu ghi chép về báo cáo hoạt động khám bệnh, chữa bệnh và nguồn nhân lực của Bệnh viện giai đoạn 2013 – 2015. Nghiên cứu định tính: Lãnh đạo Bệnh viện, Trưởng hoặc phó các khoa phòng và điều dưỡng/hộ sinh/kỹ thuật viên Trưởng các khoa. 2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu: Từ tháng 01 đến tháng 6 năm 2016 tại Bệnh viện Đa khoa huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang 2.4. Phương pháp chọn mẫu Nghiên cứu định lượng: Toàn bộ NLYT tại Bệnh viện Đa khoa huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang giai đoạn 2013-2015 Nghiên cứu định tính: Chọn chủ đích 1 cuộc PVS Lãnh đạo Bệnh viện, 14 trưởng khoa, 3 cuộc thảo luận nhóm gồm: điều dưỡng/hộ sinh/kỹ thuật viên trưởng khoa. 2.5. Thu thập và phân tích số liệu Nghiên cứu định lượng: Số liệu thứ cấp được thu thập từ phòng tổ chức cán bộ, phòng nghiệp vụ y thuộc Sở Y tế, BVH, TTYT của huyện và Phòng Y tế. Để thực hiện phương pháp này, bộ công cụ được xây dựng dựa trên xây dựng bộ công cụ bảng biểu. Nghiên cứu định tính: Sử dụng hướng dẫn PVS và TLN, thực hiện sau khi đã có kết quả phân tích sơ bộ thông tin nghiên cứu định lượng để bổ sung, giải thích cho kết quả định lượng. Các cuộc PVS và TLN được ghi âm, gỡ băng, mã hóa theo chủ đề. III. KẾT QUẢ 3.1. Thực trạng nhân lực y tế tại Bệnh viện Đa khoa huyện An Biên giai đoạn 2013 - 2015 TT Năm Giường KH Tổng số NVYT Tỷ số NVYT /Giường KH Quy định Thực tế Quy định TTLT08 Tỷ số thực tế 1 Năm 2013 140 154 122 1.1 0.87 2 Năm 2014 140 154 163 1.1 1.16 3 Năm 2015 150 165 160 1.1 1.07 Bảng 3.1: Tỷ số NVYT trên giường bệnh kế hoạch giai đoạn 2013 - 2015 Kết quả cho thấy tỷ số NVYT/Giường KH chung thực tế thấp hơn so với quy định tối thiểu của TTLT 08 (1.1) [1], điều đó cho thấy rằng số lượng NVYT trong biên chế tại các Bệnh viện còn thiếu so với quy định TTLT 08, điều này cho thấy có những khó khăn nhất định về nhân lực ở các bệnh viện với công suất sử dụng giường bệnh bình quân vượt quá 100% công suất. 3.2. Xác định sự thiếu hụt nhân lực y tế tại Bệnh viện Đa khoa huyện An Biên Bảng 3.2: Sự thiếu hụt biên chế theo định mức Cơ cấu Năm 2015 Theo TTLT số 08 Còn thiếu (Thừa) SL % Biên chế chung/ giường bệnh kế hoạch 160 200 40 20 Số Bác sĩ 37 40 3 7.5 Dược sĩ đại học/bác sĩ 7 5 Thừa 2 40 Cơ cấu Năm 2015 Theo TTLT số 08 Còn thiếu (Thừa) SL % Dược sĩ đại học/ dược sĩ trung học 9 10 Thiếu 1 10 Bác sĩ/điều dưỡng, hộ sinh, KTV 75 120 45 37.5 Nhìn chung cần bổ sung thêm một số lượng NVYT rất lớn để đáp ứng định hướng phát triển của Bệnh viện trong giai đoạn sắp tới trong đó đáng chú ý nhất là đội ngũ NVYT làm công tác chăm sóc trực tiếp cho người bệnh là ĐD/HS/KTV đang thiếu hụt khoảng 37.5%, số Bác sĩ thiếu hụt khoảng 7.5%, dược sĩ trung học 10%. Tuy nhiên số lượng dược sĩ đại học hiện tại đang thừa 40%. V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SỐ 35- Tháng 11+12/2016 Website: yhoccongdong.vn72 Bảng 3.3: Sự thiếu hụt biên chế theo hoạt động khám chữa bệnh STT Chuyên môn Năm 2015 Theo Luật KCB Còn thiếu (Thừa) SL % 1 Bác sĩ 37 42 5 11.9 2 Dược sĩ 16 19 3 15.8 Đại học 7 8 1 12.5 Trung học 9 11 2 18.2 3 Điều dưỡng, hộ sinh, KTV 75 105 30 28.6 Đại học 4 20 16 80 Cao đẳng, trung học 71 85 14 16.5 Theo quy định tại Luật Khám chữa bệnh thì hiện tại bệnh viện đang cần bổ sung thêm ở tất cả các đối tượng. Trong đó, đối tượng ĐD/HS/KTV vẫn là đối tượng có sự thiếu hụt lớn nhất là 28.6%, dược sĩ là 15.8% và bác sĩ là 11.9%. Bảng 3.4: Sự thiếu hụt biên chế theo chức danh nghề nghiệp STT Chuyên môn Năm 2015 Theo Luật KCB Còn thiếu (Thừa) SL % 1 Bác sĩ 37 55 18 33 2 Dược sĩ 16 21 5 24 Đại học 7 7 0 0 Trung học 9 14 5 36 3 Điều dưỡng, hộ sinh, KTV 75 165 90 55 Đại học 4 41 37 90 Cao đẳng, trung học 71 124 53 43 Qua thống kê cho thấy hiện tại NVYT tại Bệnh viện đang thiếu số lượng lớn so với Đề án vị trí việc làm do Bệnh viện xây dựng được phê duyệt. Trong số đó nhóm NVYT ĐD/HS/ KTV thiếu nhiều nhất với tỷ lệ 55%, bác sĩ là 33% và dược sĩ là 24%. 3.3. Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến nhân lực y tế tại Bệnh viện Đa khoa huyện An Biên 3.3.1. Thu hút, tuyển dụng: Tuyển dụng nhân viên là yếu tố rất quan trọng đối với chính sách nguồn nhân lực, với mục đích tuyển dụng là nhằm đảm bảo về số lượng và tìm kiếm nhân tố mới góp phần cho sự phát triển nguồn nhân lực có chất lượng và hiệu quả hơn [5]. Tuy nhiên chính sách thu hút của tỉnh, Bệnh viện chưa tốt, chưa có tính khả thi cao, do đó cho nên để duy trì nguồn nhân lực, Bệnh viện phải khuyến khích đưa đi đào tạo từ nguồn nhân lực của bệnh viện để trở về phục vụ lại cho Bệnh viện là chính. 3.3.2. Đào tạo, bồi dưỡng, phát triển: Là chức năng đóng vai trò hết sức quan trọng, nó góp phần đáp ứng nhu cầu hoạt động và phát triển của cả cơ quan, tổ chức và những người lao động trực tiếp làm việc tại đó [4]. 3.3.3. Đảm bảo duy trì: Nhằm giúp nguồn lực được ổn định để đảm bảo hoạt động chung của toàn hệ thống. Đồng thời góp phần vào việc khai thác tối đa lợi thế về tài nguyên nhân lực [5]. IV. BÀN LUẬN 4.1. Thực trạng nhân lực y tế tại Bệnh viện Đa khoa huyện An Biên giai đoạn 2013 – 2015 Tổng số NVYT trong biên chế của Bệnh viện là 160, so với quy định tại Thông tư liên tịch số 08/2007/TTLT-NBV-BYT ngày 05 tháng 6 năm 2007 của Bộ Nội vụ và Bộ Y tế về Hướng dẫn định mức biên chế trong các cơ sở y tế nhà nước thì tỷ số NVYT/giường bệnh đạt 1.07, thấp hơn so với quy định tối thiểu của TT08 [1]. Với tổng số NVYT tại BV là 160 người, trong đó số lượng điều dưỡng chiếm tỷ lệ cao nhất 55%; bác sĩ chiếm 23.1%, y sĩ làm công tác điều dưỡng chiếm 12.5%, hộ sinh chiếm 10.6%, kỹ thuật viên chiếm 1.3%, cán bộ dược chiếm 10.6% và cán bộ khác chiếm 5.6%. Với kết quả này cho thấy đối tượng là bác sĩ, điều dưỡng (kể cả y sĩ làm công tác điều dưỡng), hộ sinh, có tỷ lệ cao, điều này cho thấy số lượng bác sĩ cơ bản đáp ứng được nhu cầu KCB tại Bệnh viện, đối với kỹ thuật viên có số lượng còn rất thấp, vấn đề này cho thấy rằng kỹ thuật viên hiện nay đang thiếu đơn vị. 4.2. Xác định sự thiếu hụt nhân lực y tế tại Bệnh viện Đa khoa huyện An Biên Sự thiếu hụt theo TT08. Theo TT08, đối với Bệnh viện trong giai đoạn sắp tới BV cần được bổ sung thêm khoảng 20% nhân lực để đảm bảo cơ cấu và đáp ứng tốt nhu cầu CSSK toàn diện của nhân dân. Đi vào cụ thể ta thấy: Đối với sự thiếu hụt bác sĩ: Số bác sĩ của BVH còn thiếu khoảng 7.5% trở lên theo quy định. Đối với sự thiếu hụt dược sỹ: Theo quy định thì 1 DSĐH cần có 2 DSTH, 1 BS có từ 2,5 – 3 ĐD-NHS, như vậy số DSĐH của Bệnh viện hiện tại cơ bản đã đầy đủ. Đối với sự thiếu hụt ĐD/NHS/KTV: Số ĐD/NHS/KTV của BVH còn thiếu 37.5% theo quy định. Qua phỏng vấn sâu với ban lãnh đạo và các phòng chức năng cho thấy tình trạng thiếu NLYT có trình độ chuyên môn đang diễn ra phổ biến ở các huyện. Có rất nhiều nguyên nhân JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2016 SỐ 35 - Tháng 11+12/2016 Website: yhoccongdong.vn 73 làm cho các BVH này không đủ nguồn NLYT trong đó phải kể đến việc các bệnh viện huyện này không tuyển được các chỉ tiêu như bác sĩ, DS đại học mặc dù họ được giao quyền tự chủ theo NĐ43 [3]. Chính việc tự chủ của Bệnh viện cũng đặt ra việc phải cân đối giữa nguồn thu và khả năng đáp ứng của nguồn nhân lực y tế hiện có với mức thu nhập của NVYT. Từ tình trạng thiếu NVYT ở các BVH đã làm giảm khả năng cung cấp dịch vụ và phần nào chưa đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh của người dân cả về số lượng và chất lượng phục vụ [6]. Kết quả phỏng vấn sâu cũng cho thấy với khó khăn về nguồn lực y tế như hiện nay các bệnh viện huyện đang phải huy động nhân lực y tế làm thêm giờ, cường độ làm việc quá cao, mặt khác các ý kiến phỏng vấn cũng cho rằng với khối lượng công việc quá lớn và kéo dài sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của NVYT, làm tăng nguy cơ sai sót về chuyên môn và mất an toàn cho NB. Đây cũng là nguyên nhân chính dẫn đến hiện nay các bệnh viện chưa triển khai làm 3 ca ở các khoa trọng điểm theo quy định của Bộ Y tế. Sự thiếu hụt theo Luật Khám bệnh, chữa bệnh: Với mục đích thống nhất quản lý và đưa hành nghề y dược vào hoạt động của pháp luật nhằm đảm bảo an toàn sức khỏe và tạo điều kiện thuận lợi cho việc khám chữa bệnh của nhân dân. Tuy nhiên việc cấp chứng chỉ hành nghề cũng như giấy phép hoạt động vẫn đang tồn tại nhiều hạn chế, gây khó khăn cho cá nhân hành nghề, lúng túng cho các cơ sở khám chữa bệnh trong công tác bổ nhiệm, sắp xếp việc làm đặc biệt là đối với khối y tế công. Đối với sự thiếu hụt bác sĩ: Hiện tại Bệnh viện đang thiếu khoảng 11.9% so với nhu cầu. Với số lượng còn thiếu đa số là các bác sĩ ở các chuyên khoa như ngoại, răng hàm mặt, phong, lao, tâm thần và các khoa ở khối cận lâm sàng như xét nghiệm và chẩn đoán hình ảnh. Đối với sự thiếu hụt dược sĩ: Bệnh viện đang cần bổ sung khoảng 15.8% số lượng dược sĩ. Bệnh viện hiện tại chưa có dược sĩ trình độ sau đại học và chuyên về công tác dược lâm sàng vì vậy trong thời gian qua Bệnh viện cũng chưa triển khai thực hiện tốt công tác dược lâm sàng. Đối với sự thiếu hụt ĐD/HS/KTV: Đây là đối tượng cần được bổ sung số lượng lớn nhất với khoảng 28.6%. Trong số đó cần đến 80% nhu cầu NVYT có trình độ đại học ở hệ này bởi vì hiện tại nhóm đối tượng này có khoảng 96% có trình độ trung cấp vì vậy cũng gặp nhiều khó khăn trong việc sắp xếp, phân công công việc và hạn chế nhất định trong thực hiện nhiệm vụ chuyên môn. Sự thiếu hụt theo Đề án vị trí việc làm: Đề án vị trí việc làm hướng đến mục tiêu đổi mới phương pháp quản lý, sử dụng, đánh giá công chức, viên chức trên từng lĩnh vực cụ thể, sắp xếp bố trí nhân lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ đảm bảo khoa học, hiệu quả, công khai, minh bạch, phát huy được năng lực, khả năng công tác của từng cá nhân trong tổ chức. Việc xác định vị trí việc làm là một bước chuyển trong công tác quản lý công chức, viên chức từ hệ thống quản lý theo chức danh nghề nghiệp sang quản lý trên cơ sở kết hợp tiêu chuẩn chức danh và vị trí việc làm. Đây là một trong những điểm rất quan trọng, vì thông qua đó, chúng ta mới xóa bỏ hoàn toàn các cơ chế xin – cho biên chế, đồng thời phân định rõ ai là người làm việc tốt, ai làm chưa tốt. Qua đó, giúp cho việc tuyển dụng tốt hơn, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, viên chức. Tuy nhiên việc triển khai thực hiện công tác nhân sự dựa trên đề án vị trí việc làm đang tồn tại nhiều khó khăn cho Bệnh viện bởi vì kinh phí hoạt động hàng năm của Bệnh viện được ngân sách nhà nước dự toán chi căn cứ vào số giường bệnh. Với nguồn kinh phí được cấp hàng năm, Bệnh viện chỉ dừng lại ở việc sử dụng biên chế theo cơ cấu giường bệnh, chưa mạnh dạn báo cáo nhu cầu và triển khai thực hiện đề án vị trí việc làm nhằm đảm bảo nguồn kinh phí cho hoạt động chuyên môn của Bệnh viện. Đối với sự thiếu hụt bác sĩ: Với tình hình thực tế, hiện nay tại Bệnh viện đang thiếu hụt khoảng 33% số lượng bác sĩ cho công tác khám và điều trị để bảo đảm thực hiện có hiệu quả hoạt động chuyên môn. Sự thiếu hụt dược sĩ: Nhằm đảm bảo cho hoạt động cung ứng dược hiện nay, Bệnh viện đang thiếu hụt khoảng 24% số lượng dược sĩ (cả dược sĩ đại học và dược sĩ trung học) trong đó cũng cần bổ sung thêm đối tượng dược sĩ có trình độ sau đại học để phát huy tối đa chức năng nhiệm vụ trong lĩnh vực dược tại Bệnh viện. Sự thiếu hụt ĐD/HS/KTV: Tình trạng thiếu hụt lớn nhất là đội ngũ NVYT làm công tác ĐD/HS/KTV với khoảng 55%, đây là nhóm đối tượng trực tiếp làm công tác chăm sóc người bệnh. Trong đó, đối với hệ này hiện nay Bệnh viện chưa có NVYT trình độ sau đại học. 4.3. Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến nhân lực y tế tại Bệnh viện Đa khoa huyện An Biên Thu hút, tuyển dụng Qua kết quả nghiên cứu định tính cho thấy chính sách thu hút nguồn nhân lực của tỉnh, bệnh viện chưa có tính khả thi, mặc dù UNBD tỉnh có chính sách thu hút với khoản hỗ trợ kinh phí nhất định. Tuy nhiên nó chưa đảm bảo thật sự bền vững để ổn định cuộc sống lâu dài của nhân viên tại nơi cần tuyển, cho nên nhiều năm qua Bệnh viện không có bác sĩ chính quy hoặc trình độ sau đại học nộp hồ sơ đăng ký tuyển dụng, mà chủ yếu chỉ có trình độ trung học và cao đẳng. Đào tạo, bồi dưỡng, phát triển Qua kết quả nghiên cứu định tính về chính sách đào tạo hiện nay cũng còn những giới hạn nhất định như: chỉ tập trung V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SỐ 35- Tháng 11+12/2016 Website: yhoccongdong.vn74 hỗ trợ chi phí đào tạo đối tượng sau đại học còn các đối tượng CĐ, ĐH thì tự túc học phí hoàn toàn. Vấn này gây nhiều khó khăn cho các Bệnh viện tuyến huyện hiện nay không có kinh phí hỗ trợ học phí cho nhân viên đi học CĐ và ĐH, điều này thể hiện rõ là trình độ ĐD-HS-KTV hiện nay rất thấp đa số là trình độ trung học tại các bệnh viện tuyến huyện. Đảm bảo duy trì Qua nghiên cứu thông tin định tính về chính sách đảm bảo duy trì nhân lực tại Bệnh viện Đa khoa huyện An Biên, khi phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm đa phần đều có nội dung nhận xét giống nhau về chính sách thu hút, đảm bảo nguồn nhân lực của tỉnh hiện nay chưa thấy có hiệu quả, đối với Bệnh viện Đa khoa huyện An Biên thì không có điều kiện kinh tế cho việc thu hút và duy trì nhân lực. Tuy nhiên để đảm bảo duy trì nguồn nhân lực có hiệu quả, đa số ý kiến đều cho rằng các nhà quản lý cần xây dựng một môi trường làm việc và điều kiện làm việc là yếu tố quan trọng có liên quan đến việc đảm bảo duy trì nhân lực bao gồm cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, cả việc hỗ trợ thực hiện công tác chuyên môn, mối quan hệ với đồng nghiệp và lãnh đạo quản lý. V. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ Thực trạng nhân lực y tế hiện nay đang thiếu, chưa đáp ứng đủ về số lượng và chất lượng phân bố nhân lực y tế không đồng đều. Sự thiếu hụt nguồn nhân lực y tế: Để thực hiện hết chức năng nhiệm vụ theo quy định của Bộ Y tế, bệnh viện cần được tăng cường bổ sung một lực lượng nhân lực đủ lớn, cụ thể: Đội ngũ cán bộ y tế thuộc nhóm chức danh điều dưỡng, hộ sinh, kỹ thuật viên y cần được bổ sung nhiều nhất với khoảng 40% so với số lượng hiện tại. Tiếp theo là nhóm chức danh dược, trong đó có dược sĩ đại học và dược sĩ trung học trung bình khoảng 19%. Và nhu cầu đối với nhóm chức danh bác sĩ là khoảng 17.5%. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhân lực y tế tại Bệnh viện Đa khoa An Biên: Qua nội dung phỏng vấn sâu các đối tượng cán bộ tham gia công tác quản lý tại Bệnh viện cho thấy có 4 yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến nhân lực y tế của Bệnh viện có thể kể đến là yếu tố thu hút, tuyển dụng; yếu tố đào taọ, bồi dưỡng, phát triển; yếu tố đảm bảo duy trì và yếu tố chính sách, chế độ đãi ngộ. Trong đó, đa số các ý kiến cho rằng công tác tuyển dụng thu hút nhân tài các các yếu tố về chính sách, chế độ đãi ngộ đóng vai trò then chốt giúp các nhà lãnh đạo Bệnh viện có được những định hướng đúng đắn đầu tư cho nguồn lực Y tế hoàn thiện và phát triển có ý nghĩa về mặt kinh tế và xã hội. Qua mô tả thực trạng và xác định các yếu tố ảnh hưởng đến nhân lực y tế tại Bệnh viện Đa khoa huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang, xin có một số khuyến nghị sau: Đối với bệnh viện: Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực của bệnh viện một cách đồng bộ. Phân bổ nguồn nhân lực hợp lý, ưu tiên bố trí cán bộ y tế cho các khoa lâm sàng và cận lâm sàng đề bảo đảm tốt hoạt động chuyên môn. Bên cạnh đó, cần đảm bảo các chính sách và điều kiện làm việc tối thiểu. Cải thiện chế độ lương, trợ cấp, phụ cấp để cán bộ y tế nhằm nâng cao thêm thu nhập. Tuyển dụng nhân sự mới nên mở rộng cửa để cho người có năng lực giỏi có thể ứng tuyển nhằm thu hút nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao về phục vụ cho ngành Y tế huyện nhà. Đối với Sở Y tế: Tăng đầu tư ngân sách cho y tế cơ sở, ưu tiên đầu tư đồng bộ về cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế, cán bộ y tế, giường bệnh cho các bệnh viện huyện để đảm bảo theo quy hoạch phát triển. Giao quyền chủ động cho các bệnh viện được tự chủ trong công tác nhân sự, tài chính theo quy định của pháp luật. Tăng cường nguồn lực y tế về số lượng bằng cách ưu tiên đào tạo theo nhu cầu sử dụng của bệnh viện. Đồng thời cần có chế độ quy định nhiệm vụ, trách nhiệm của sinh viên sau khi ra trường để tránh tình trạng “chảy máu chất xám” của ngành Y tế hiện nay. Cần siết chặt hơn công tác đào tạo để tránh tình trạng đền bù đào tạo. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Bộ Y tế - Bộ Nội vụ (2007), Thông tư số 08/2007/TTLT-BYT-BNV ngày 05/6/2007 Hướng dẫn định mức biên chế sự nghiệp trong các cơ sở y tế Nhà nước. 2. Bộ Y tế (2009), Báo cáo chung tổng quan ngành Y tế (JAHR) năm 2009 chủ đề "Nhân lực y tế ở Việt Nam". 3. Chính phủ (2006), Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 Quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ,tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. 4. Trương Việt Dũng (2008), "Đào tạo nhân lực Y tế nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội", Tạp chí Chính sách Y tế, 3, tr. 28-33. 5. Bùi Thị Thu Hà (2012), Tổng quan về Quản lý nhân lực, Đại học Y tế Công cộng, Hà Nội. 6. Trần Bích Hà (2012), "Tình trạng nhân lực y tế và công suất sử dụng giường bệnh của bệnh viện tuyến huyện", Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, 16(3).
File đính kèm:
mo_ta_thuc_trang_va_cac_yeu_to_anh_huong_den_nhan_luc_y_te_t.pdf

