Mở rộng hoạt động đầu tư của các ngân hàng thương mại Việt Nam trước bối cảnh hội nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN

Trước bối cảnh VN đang hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế toàn cầu, việc Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) với lộ trình hình thành vào năm 2015 sẽ mở ra nhiều triển vọng mới cho các quốc gia trong khu vực ASEAN nói

chung và cho VN nói riêng. Theo đó, hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các

ngân hàng thương mại (NHTM) được xem như tính tất yếu nhằm tạo sự mở rộng và

tăng trưởng của các quốc gia. Xuất phát từ những kỳ vọng vào tác động tích cực khi

AEC được thành lập và lợi ích mà hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại trong

thời gian qua, bài viết trình bày một cách khái quát về AEC và lộ trình chiến lược, thực

trạng hoạt động đầu tư vào thị trường các nước ASEAN của các NHTM VN trong thời

gian qua, những thuận lợi và khó khăn, đồng thời đề xuất một vài nhóm giải pháp cụ

thể nhằm góp phần mở rộng hoạt động đầu tư của các NHTM vào thị trường các nước

ASEAN trong bối cảnh thành lập Cộng đồng Kinh tế AEC

pdf 6 trang phuongnguyen 4040
Bạn đang xem tài liệu "Mở rộng hoạt động đầu tư của các ngân hàng thương mại Việt Nam trước bối cảnh hội nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mở rộng hoạt động đầu tư của các ngân hàng thương mại Việt Nam trước bối cảnh hội nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN

Mở rộng hoạt động đầu tư của các ngân hàng thương mại Việt Nam trước bối cảnh hội nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN
Số 20 (30) - Tháng 01-02/2015 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Doanh Nghiệp VN Với Cộng Đồng Kinh Tế ASEAN
17
1. giới thiệu về Cộng đồng Kinh 
tế ASEAn (AEC)
1.1. Mục đích thành lập AEC
Cộng đồng Kinh tế ASEAN 
(ASEAN Economic Community) 
được thành lập nhằm mục đích tạo 
dựng một thị trường thống nhất cho 
các quốc gia thành viên ASEAN, 
thúc đẩy dòng chu chuyển tự do 
của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, lao 
động có tay nghề trong ASEAN. 
Mục tiêu của AEC là thúc đẩy phát 
triển kinh tế một cách công bằng, 
thiết lập khu vực kinh tế có năng 
lực cạnh tranh cao để ASEAN có 
thể hội nhập đầy đủ vào nền kinh 
tế toàn cầu.
Ý tưởng cho việc thành lập 
AEC được đưa ra lần đầu trong 
Hội nghị thượng đỉnh không chính 
thức các nước ASEAN lần thứ 2 tại 
Kuala Lumpur, Malaysia vào năm 
1997. Tại đây, các nhà lãnh đạo 
ASEAN đã thông qua Tầm nhìn 
ASEAN 2020 về phát triển kinh 
tế và hội nhập khu vực, hướng tới 
phát triển đồng đều và bền vững. 
Tầm nhìn đã được cụ thể hóa thông 
qua tuyên bố của các nhà lãnh đạo 
ASEAN trong Hiệp định ASEAN 
II ngày 7/10/2003 bao gồm ba trụ 
cột chính là Cộng đồng An ninh 
ASEAN (ASC), Cộng đồng Kinh tế 
ASEAN (AEC) và Cộng đồng Văn 
hóa- Xã hội ASEAN (ASCC). 
Tại Hội nghị thượng đỉnh 
ASEAN tại Cebu, Phillippines vào 
ngày 9/1/2007, các nhà lãnh đạo 
ASEAN đã thông qua xây dựng 
kế hoạch tổng thể và lộ trình chiến 
lược thực hiện AEC với các biện 
pháp chi tiết và quyết định đẩy 
nhanh mục tiêu hoàn thành AEC 
vào năm 2015.
1.2. AEC và sự hội nhập tài 
chính
Theo kế hoạch tổng thể, từ năm 
2015, AEC sẽ là thị trường chung 
của khu vực ASEAN, từng bước 
xây dựng một khu vực năng động, 
có tính cạnh tranh cao trên thế giới, 
đem lại sự thịnh vượng chung cho 
các quốc gia ASEAN. Hàng hóa, 
dịch vụ, vốn, công nghệ và lao 
động có tay nghề sẽ được tự do lưu 
chuyển trong ASEAN mà không 
chịu bất cứ hàng rào hay sự phân 
Mở rộng hoạt động đầu tư của các 
ngân hàng thương mại Việt Nam trước bối cảnh 
hội nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN
HuỳnH Lưu ĐứC Toàn & THS. nguyễn THị MinH Tú
Trường Đại học Ngân hàng TP. HCM
Trước bối cảnh VN đang hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế toàn cầu, việc Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) với lộ trình hình thành vào năm 2015 sẽ mở ra nhiều triển vọng mới cho các quốc gia trong khu vực ASEAN nói 
chung và cho VN nói riêng. Theo đó, hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các 
ngân hàng thương mại (NHTM) được xem như tính tất yếu nhằm tạo sự mở rộng và 
tăng trưởng của các quốc gia. Xuất phát từ những kỳ vọng vào tác động tích cực khi 
AEC được thành lập và lợi ích mà hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại trong 
thời gian qua, bài viết trình bày một cách khái quát về AEC và lộ trình chiến lược, thực 
trạng hoạt động đầu tư vào thị trường các nước ASEAN của các NHTM VN trong thời 
gian qua, những thuận lợi và khó khăn, đồng thời đề xuất một vài nhóm giải pháp cụ 
thể nhằm góp phần mở rộng hoạt động đầu tư của các NHTM vào thị trường các nước 
ASEAN trong bối cảnh thành lập Cộng đồng Kinh tế AEC. 
Từ khóa: Cộng đồng Kinh tế ASEAN, đầu tư, hội nhập.
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 20 (30) - Tháng 01-02/2015
Doanh Nghiệp VN Với Cộng Đồng Kinh Tế ASEAN
18
biệt đối xử nào. Người tiêu dùng 
ASEAN sẽ có nhiều lựa chọn về 
hàng hóa và dịch vụ với giá cả và 
chất lượng cạnh tranh. Thương mại 
trong khối có cơ hội phát triển. Các 
doanh nghiệp sẽ được hưởng lợi 
nhiều hơn nhờ phát huy hiệu quả 
từ quy mô để tăng năng suất và 
giảm chi phí sản xuất, dẫn tới hàng 
hóa các nước cạnh tranh cao hơn. 
Thương mại và đầu tư trong khối 
được tạo điều kiện thuận lợi để phát 
triển nhằm nâng cao năng lực sáng 
tạo, giải phóng tiềm năng sản xuất, 
kinh doanh của các doanh nghiệp, 
từ đó sản phẩm đa dạng hơn, chất 
lượng và hiệu quả cao hơn, có lợi 
cho người tiêu dùng. 
AEC không đơn thuần là khu 
vực được tạo nên bởi các cam kết 
tự do hóa thương mại, đầu tư mà 
được xây dựng dựa trên sự thống 
nhất, hài hòa cao về hệ thống tiêu 
chuẩn, quy trình quản lý hoạt động 
thương mại, đầu tư và khả năng 
điều phối chặt chẽ các chính sách 
vĩ mô giữa các nước thành viên.
Lộ trình chiến lược và kế hoạch 
tổng thể thực hiện AEC đề cập đến 
nhiều biện pháp cụ thể khác nhau 
như thuế quan, các biện pháp phi 
thuế, thủ tục hải quan, chính sách 
cạnh tranh, sở hữu trí tuệ, dịch vụ, 
đầu tư đến các vấn đề môi trường, 
lao động, phát triển nguồn nhân 
lực. Các biện pháp này có thể phân 
loại thành bốn nhóm gồm: (1) 
Nhóm biện pháp tạo lập một thị 
trường chung và không gian sản 
xuất thống nhất; (2) Nhóm biện 
pháp về nâng cao năng lực cạnh 
tranh của các khu vực, ngành kinh 
tế; (3) Nhóm các biện pháp tạo sự 
phát triển công bằng và đồng đều; 
và (4) Nhóm các biện pháp kết nối 
nền kinh tế ASEAN với bên ngoài. 
(1) Thị trường và cơ sở sản xuất 
thống nhất
AEC sẽ hỗ trợ hội nhập kinh tế 
của các khu vực ưu tiên, đồng thời 
cho phép tự do chu chuyển nguồn 
nhân lực có trình độ cao, tài năng 
trong kinh doanh. Một thị trường và 
cơ sở sản xuất thống nhất ASEAN 
bao gồm 5 yếu tố cơ bản: (i) Chu 
chuyển tự do hàng hóa, dịch vụ, lao 
động có tay nghề, chu chuyển tự 
do hơn nữa các dòng vốn và dòng 
đầu tư; (ii) Hàng rào thuế quan và 
hàng rào phi thuế quan sẽ từng 
bước bị xóa bỏ; (iii) Các nhà đầu tư 
ASEAN sẽ được tự do đầu tư vào 
tất cả mọi lĩnh vực trong khu vực; 
(iv) Các chuyên gia và lao động có 
tay nghề sẽ được luân chuyển tự do 
trong khu vực; và (v) Những thủ 
tục hải quan và thương mại khi đã 
được tiêu chuẩn hóa và đơn giản 
hơn sẽ góp phần làm giảm chi phí 
giao dịch.
(2) Khu vực kinh tế cạnh tranh
AEC hướng tới mục tiêu tạo 
dựng một khu vực kinh tế có năng 
lực cạnh tranh cao, thịnh vượng và 
ổn định, theo đó khu vực này sẽ 
ưu tiên 6 yếu tố chủ chốt là: Chính 
sách cạnh tranh, bảo vệ người 
tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, 
phát triển cơ sở hạ tầng, hệ thống 
thuế khóa và thương mại điện tử. 
ASEAN cam kết thúc đẩy văn hóa 
cạnh tranh công bằng thông qua 
việc ban hành các chính sách và 
luật cạnh tranh, đảm bảo sân chơi 
bình đẳng và hiệu quả kinh tế khu 
vực ngày càng cao.
(3) Hiệp định đầu tư toàn diện 
ASEAN (ACIA)
ASEAN hướng tới mục tiêu 
là điểm đến đầu tư hấp dẫn trong 
quá trình hội nhập khu vực vào 
năm 2015. Vào tháng 2/2009, các 
bộ trưởng ASEAN đã ký kết Hiệp 
định đầu tư toàn diện ASEAN 
(ACIA) nhằm tạo ra một cơ chế 
đầu tư minh bạch, thông thoáng 
và tự do theo đúng tiêu chí khi hội 
nhập kinh tế ASEAN, có hiệu lực 
từ tháng 3/2012. Các điều khoản 
toàn diện của ACIA sẽ bảo vệ 
hơn nữa cho các hoạt động đầu tư 
và nâng cao sự tự tin của các nhà 
đầu tư trong khu vực. Hiệp định 
này cũng bao gồm các điều khoản 
mới về giải quyết tranh chấp phát 
sinh liên quan tới nhà đầu tư trong 
nước, chuyển giao và đãi ngộ đầu 
tư, các hạn chế đầu tư và các tiêu 
cực trong đầu tư. 
1.3. Hội nhập tài chính trong 
Cộng đồng Kinh tế ASEAN
Hội nhập thị trường vốn và thị 
trường tài chính ASEAN vào năm 
2015, được đề cập đến trong bản 
kế hoạch hành động AEC, sẽ tạo ra 
hệ thống tài chính khu vực thông 
suốt với cơ chế tài khoản vốn tự do 
hơn. Các thị trường vốn được liên 
kết với nhau sẽ thúc đẩy hoạt động 
thương mại và đầu tư khu vực. Hội 
nhập tài chính ASEAN tạo điều 
kiện tự do hóa dịch vụ tài chính, tự 
do hóa tài khoản vốn và phát triển 
thị trường vốn.
Tự do hóa dịch vụ tài chính vào 
năm 2015 sẽ khiến cho hoạt động 
thương mại được tự do nhiều hơn 
thông qua tiếp cận rộng hơn với 
dịch vụ tài chính. Vào tháng 5/2011, 
các bộ trưởng tài chính ASEAN đã 
đàm phán và ký kết nghị định thực 
hiện gói cam kết thứ 5 đối với dịch 
vụ tài chính theo Hiệp định khung 
ASEAN về dịch vụ (AFAS). 
Việc dỡ bỏ kiểm soát và hạn chế 
vốn như: Xóa bỏ hạn chế đối với 
các giao dịch trên tài khoản vãng 
lai, xóa bỏ hạn chế đối với hoạt 
động đầu tư trực tiếp nước ngoài 
và danh mục đầu tư sẽ nâng cao 
lợi thế của dòng chu chuyến vốn 
tự do trong ASEAN. Những nỗ lực 
đáng kể đã được thực hiện nhằm 
nới lỏng hạn chế đối với giao dịch 
Số 20 (30) - Tháng 01-02/2015 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Doanh Nghiệp VN Với Cộng Đồng Kinh Tế ASEAN 
19
mua bán ngoại tệ, thanh toán cho 
các giao dịch chuyển tiền. 
2. Hoạt động đầu tư của các 
nHTM Vn trong khu vực ASEAn
2.1. Hoạt động đầu tư của các 
NHTM VN trong khu vực ASEAN 
đến cuối năm 2013
Trong xu hướng toàn cầu hóa, 
hội nhập tài chính tất yếu như hiện 
nay, bên cạnh việc thu hút đầu tư 
nước ngoài bằng cách tìm kiếm các 
đối tác chiến lược, bán cổ phần cho 
các nhà đầu tư nước ngoài, NHTM 
VN cũng mạnh dạn đầu tư ra nước 
ngoài thông qua việc mở văn phòng 
đại diện và chi nhánh ở ngoài nước, 
mà đặc biệt là tận dụng lợi thế trước 
hết trong khu vực ASEAN.
Bảng 1. Tình hình xuất nhập khẩu 
dịch vụ tài chính, bảo hiểm 
của VN 2011- 2013
Đơn vị tính: Triệu USD
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Thị trường Lào và Campuchia 
được các NHTM VN chọn là địa 
điểm mở rộng hoạt động đầu tư 
trước hết bởi Lào và Campuchia có 
nhiều tiềm năng, nhiều nét tương 
đồng với VN, dễ triển khai dịch vụ 
và chiếm lĩnh thị trường; về điều 
kiện địa lý thì đây là hai quốc gia 
có chung đường biên giới với VN, 
và mở rộng hoạt động đầu tư vào 
hai quốc gia này nhận được sự hậu 
thuẫn từ Chính phủ hai nước để 
tăng cường sự hợp tác hữu nghị, 
đoàn kết giữa các nước láng giềng.
Tại các chi nhánh ở Lào và 
Campuchia, đối tượng khách hàng 
mà ngân hàng VN hướng tới là các 
doanh nghiệp Việt kiều, nhân viên 
VN đang làm việc tại các tổ chức, 
doanh nghiệp nhỏ và vừa, các tầng 
lớp dân cư của hai nước.
2.2. Thuận lợi và khó khăn khi 
NHTM VN đầu tư vào thị trường 
ASEAN trong bối cảnh hội nhập 
AEC
2.2.1. Thuận lợi
Trước hết, mở rộng phát triển 
mạng lưới ra khỏi phạm vi quốc 
gia là dấu hiệu cho thấy sức cạnh 
tranh của các NHTM VN đang 
từng bước được nâng cao. Việc 
đầu tư vào các quốc gia ASEAN 
cho thấy các NHTM VN không 
chỉ phát triển mạnh mẽ trong nước 
mà đã từng bước khẳng định vị thế 
và thương hiệu tại thị trường khu 
vực. 
Hai là, khi AEC được hình 
thành thì những rào cản về chính 
sách và thuế quan giữa các quốc gia 
ASEAN sẽ dược dỡ bỏ, xuất nhập 
khẩu trong khu vực AEC được mở 
rộng, dòng vốn lưu thông sẽ được 
chu chuyển một cách nhanh chóng 
giữa các nước ASEAN và VN. 
Nhờ đó, các NHTM sẽ là cầu nối 
giúp luân chuyển dòng vốn giữa 
các doanh nghiệp nhập khẩu với 
các doanh nghiệp xuất khẩu, giữa 
quốc gia này với quốc gia khác, 
giữa các chi nhánh công ty mẹ 
Ngân hàng Số lượng chi nhánh, văn phòng đại diện (VPĐD) tại ASEAN Quốc gia Năm thành lập
Vietcombank 01 VPĐD Singapore 1997
Vietinbank 01 chi nhánh Lào 09/2/2012
BIDV
01 VPĐD Lào 22/7/2011
01 VPĐD, 5 chi nhánh Campuchia 8/2009
01 VPĐD Myanmar 2011
Sacombank
01 chi nhánh (NHTM 100% vốn 
nước ngoài) Lào 12/2008
01 chi nhánh (NHTM 100% vốn 
nước ngoài) Campuchia 6/2009
MB
01 chi nhánh Lào 12/2010
01 chi nhánh Campuchia 12/2011
SHB
01 chi nhánh Lào 15/8/2012
01 chi nhánh Campuchia 9/2/2012
Ngân hàng Vốn điều lệ Vốn chủ sở hữu
Tổng 
tài sản
Lợi nhuận 
sau thuế NPL (%)
Vietcombank 23.174 42.386 468.994 4.378 2,62
Vietinbank 37.234 54.075 576.368 5.808 0,82
BIDV 28.113 32.040 548.386 4.051 1,96
Sacombank 12.425 16.703 160.169 2.840 2,46
MB 11.256 15.148 180.381 2.286 2,45
SHB 8.866 8.962 143.625 850 4,1%
Chỉ tiêu 2011 2012 2013
Xuất khẩu
Dịch vụ tài chính 208 150 160
Dịch vụ bảo hiểm 81 64 68
Nhập khẩu
Dịch vụ tài chính 217 175 190
Dịch vụ bảo hiểm 567 582 627
Bảng 2. Thống kê số lượng chi nhánh, văn phòng đại diện của các 
NHTM VN tại ASEAN (tính đến 31/12/2013)
Nguồn: Thống kê của tác giả
Bảng 3. Một số chỉ tiêu chủ yếu của các NHTM VN có 
hoạt động đầu tư vào ASEAN (tính đến 31/12/2013) 
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo thường niên năm 2013 của các NHTM Vietcombank, 
Vietinbank, BIDV, Sacombank, MB, SHB
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 20 (30) - Tháng 01-02/2015
Doanh Nghiệp VN Với Cộng Đồng Kinh Tế ASEAN
20
và chi nhánh công ty con, thu hút 
lượng khách hàng bên ngoài phạm 
vi lãnh thổ VN sử dụng ngày càng 
nhiều các sản phẩm, dịch vụ của 
các NHTM VN, góp phần thúc đẩy 
kênh thanh toán, phát triển các giao 
dịch ngoại thương giữa các nước 
ASEAN và VN. Từ đó, thu nhập 
của các NHTM VN tăng lên nhờ 
nguồn thu từ phí dịch vụ và quan 
hệ tín dụng quốc tế.
Ba là, đầu tư ra nước ngoài giúp 
các NHTM đa dạng hóa hoạt động, 
phân tán rủi ro, tăng hiệu quả hoạt 
động, tiếp cận với nhiều sản phẩm 
tài chính hiện đại và góp phần nâng 
cao kinh nghiệm, hình ảnh, vị thế 
của NHTM VN trong khu vực 
ASEAN nói riêng và trên trường 
quốc tế nói chung.
2.2.2. Khó khăn
Khó khăn đầu tiên khi các 
NHTM VN đầu tư ra nước ngoài 
là sự cạnh tranh trong môi trường 
khắc nghiệt với các NHTM ở nước 
sở tại. Trong khi các NHTM bản 
địa có sự am hiểu thị trường nội 
địa một cách chắc chắn về phong 
tục, tập quán, tâm lý khách hàng, 
có mạng lưới phát triển rộng khắp, 
có lượng khách hàng đông đảo thì 
các NHTM VN lại có những hiểu 
biết hạn chế về những lĩnh vực này, 
chỉ có một vài chi nhánh hoạt động 
và chưa thu hút được nhiều khách 
hàng. Do đó, muốn thành công khi 
mở rộng hoạt động đầu tư ở nước 
ngoài đòi hỏi các NHTM VN phải 
chuẩn bị tốt các phương án cho 
hoạt động của mình, tìm hiểu và 
thâm nhập vào thị trường mới, tận 
dụng và phát huy tối đa nguồn lực 
sẵn có. 
Hai là, mở rộng hoạt động đầu 
tư ở nước ngoài sẽ làm phát sinh 
chi phí đầu tư ban đầu cho hoạt 
động rất lớn. Trong bối cảnh kinh 
tế phục hồi chậm chạp như hiện 
nay, phần lớn các NHTM gặp khó 
khăn trong kinh doanh, phải tiết 
giảm tối đa chi phí. Do đó, việc mở 
rộng mạng lưới đầu tư vào AEC 
trong bối cảnh này cần được cân 
nhắc kỹ.
Ba là, dù có những tương đồng 
nhất định về đặc điểm địa lý, kinh 
tế và đặc thù dân cư nhưng khi mở 
rộng hoạt động đầu tư tại thị trường 
các nước ASEAN, các NHTM 
VN sẽ gặp phải nhiều rủi ro. Các 
NHTM VN vẫn kinh doanh dịch 
vụ ngân hàng truyền thống là chủ 
yếu, tín dụng là nguồn mang lại 
thu nhập cao nhất cho ngân hàng. 
Tuy nhiên, khi hoạt động ở các 
nước ASEAN, hoạt động tín dụng 
sẽchứa đựng nhiều rủi ro hơn so 
với tín dụng trong nước bởi sự 
chênh lệch nguồn thông tin cũng 
như những phong tục, tập quán 
kinh doanh. Mặt khác, việc kiểm 
soát các khoản tín dụng ngoài nước 
sẽ khó khăn hơn và khi có có xảy ra 
tranh chấp thì việc giải quyết tranh 
chấp cũng không hề dễ đàng.
3. những lưu ý khi mở rộng hoạt 
động đầu tư ra nước ngoài của 
nHTM Vn 
3.1. Tính tất yếu của đầu tư ra 
nước ngoài theo Hiệp định GATS
GATS là hiệp định thương 
mại pháp lý quốc tế đầu tiên xoay 
quanh về vấn đề thương mại dịch 
vụ quốc tế. GATS là một hiệp định 
được quản lý bởi Tổ chức Thương 
mại Thế giới (WTO), do đó tất cả 
các thành viên của WTO đều tham 
gia GATS. Mục đích của GATS là 
từng bước thúc đẩy một cách có 
hệ thống sự tự do hơn nữa trong 
thương mại dịch vụ bằng cách loại 
bỏ nhiều rào cản đối với thương 
mại hiện tại và đảm bảo sự minh 
bạch của các quy định thương mại, 
trong đó có dịch vụ tài chính. Dịch 
vụ tài chính là bất kỳ dịch vụ nào 
có tính chất tài chính do một nhà 
cung cấp dịch vụ tài chính của một 
nước thành viên thực hiện. Dịch 
vụ tài chính bao gồm mọi dịch vụ 
bảo hiểm và dịch vụ liên quan tới 
bảo hiểm; mọi dịch vụ ngân hàng 
và dịch vụ tài chính khác (trừ bảo 
hiểm). 
Hoạt động đầu tư trực tiếp ra 
nước ngoài của các NHTM được 
xem như tính tất yếu để nhằm tạo 
sự mở rộng hội nhập và tăng trưởng 
của các quốc gia. Hầu hết các nước 
thành viên trong cộng đồng Kinh 
tế ASEAN (AEC) đều là thành 
viên của WTO, do đó hiểu biết về 
những khung cơ bản luật về GATS 
chính là cách mà các nước thành 
viên có thể hiểu được việc nên mở 
rộng hoạt động đầu tư sang những 
mảng hợp lý nào trong tương lai. 
3.2. Giải pháp nhằm mở rộng hoạt 
động đầu tư ra nước ngoài của 
NHTM VN trong bối cảnh thành 
lập Cộng đồng Kinh tế AEC
Định hướng đầu tư trực tiếp ra 
nước ngoài của các NHTM VN 
là việc làm cần thiết, cần được 
khuyến khích và tạo cơ sở pháp lý 
từ các cơ quan quản lý như Ngân 
hàng Nhà nước (NHNN) cũng 
như cơ quan liên quan khác. VN 
là đất nước đang kêu gọi thu hút 
đầu tư dòng vốn vào nhiều lĩnh 
vực, do đó không phải bất cứ lĩnh 
vực hay ngành nghề nào nước ta 
cũng theo đuổi chính sách đầu tư 
ra nước ngoài như vậy. Vì thế cũng 
cần nghiên cứu xem, khi đầu tư 
ra nước ngoài liệu có mang lại lợi 
ích về mặt vi mô với ngân hàng và 
vĩ mô đối với toàn bộ nền kinh tế 
hay không. Nếu không có sự định 
hướng thị trường từ NHNN cũng 
như Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì có 
thể dẫn đến dòng vốn chảy ra nước 
ngoài trong khi trong nước thiếu 
Số 20 (30) - Tháng 01-02/2015 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Doanh Nghiệp VN Với Cộng Đồng Kinh Tế ASEAN
21
vốn. Tuy nhiên, nhìn lại ngành 
ngân hàng thì rõ ràng hoạt động 
đầu tư ra nước ngoài là điều đang 
cần thực hiện bởi các NHTM VN 
vì hiện tại ở VN hoạt động ngân 
hàng đã bị bão hòa trong nước. 
Đầu tư ra nước ngoài là chuyển 
vốn, giải quyết thất nghiệp ở trong 
nước sang một quốc gia khác để 
giải quyết thất nghiệp cho nước đó, 
cho nên khi khủng hoảng kinh tế 
vừa qua, ngay cả Mỹ và nhiều quốc 
gia giàu có khác cũng hạn chế đầu 
tư ra nước ngoài. Thế nhưng hiện 
tại, sự bão hòa, thất nghiệp trong 
ngành ngân hàng tại VN chính là 
động lực để các ngân hàng bắt đầu 
cân nhắc việc tuân theo dòng dịch 
chuyển vốn tự do từ theo những 
quy định trong ASEAN Blue print 
được xem như là một cách để giải 
quyết khó khăn trong thị trường 
nội địa. Về tầm vĩ mô, Chính phủ 
là thành phần rất quan trọng trong 
việc hội nhập kinh tế quốc tế (Haas 
et al.,1963), cũng như hoạt động 
FDI của các NHTM. Trước bối 
cảnh VN hội nhập ngày càng sâu 
vào nền kinh tế và những tác động 
tích cực của hoạt động đầu tư trực 
tiếp nước ngoài mang lại trong 
thời gian qua, thiết nghĩ cần nhanh 
chóng khuyến khích các NHTM 
thực hiện FDI. Do vậy, nhóm tác 
giả đề xuất một vài nhóm giải 
pháp cụ thể cho hoạt động đầu tư 
ra nước ngoài của các NHTM vào 
thị trường các nước ASEAN trong 
bối cảnh thành lập cộng đồng Kinh 
tế AEC. 
Đầu tiên, VN cần ban hành 
quy định và thông tư mới hướng 
dẫn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, 
không những dành cho các NHTM 
mà còn cho các doanh nghiệp, vì 
hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước 
ngoài của các doanh nghiệp cũng 
ảnh hưởng mạnh mẽ đối với FDI 
của NHTM (Grosse và Trevino, 
1996). Cần lưu ý một vấn đề hiện 
tại hoạt động đầu tư FDI được điều 
chỉnh bởi chủ yếu là Luật Đầu tư 
2005. Tuy nhiên, đây chỉ là luật 
điều chỉnh đa phần hoạt động đầu 
tư từ nước ngoài vào thị trường 
VN mà chưa chú trọng đến chiều 
ngược lại. Do đó, các chính sách 
đầu tư điển hình là thủ tục xin phép 
đầu tư ra nước ngoài của NHTM 
VN chưa thực sự được điều chỉnh 
bởi văn bản cụ thể nào, cấp giấy 
chứng nhận đầu tư, thủ tục xin 
phép ý kiến của Thủ tướng Chính 
phủ, quá trình chuyển dịch dòng 
vốn ngoại tệ ra các nước.
Thứ hai, nghiên cứu kỹ môi 
trường của nước tiếp nhận đầu tư 
theo định hướng xúc tiến đầu tư 
trực tiếp ra nước ngoài của các 
NHTM theo từng khu vực thị 
trường của Nhà nước. Việc lựa 
chọn môi trường đầu tư ra nước 
ngoài của các NHTM là hết sức 
cần thiết trong đầu tư ra nước ngoài 
(UNTACD, 2009). Một hoạt động 
đầu tư sẽ không thể hiệu quả nếu 
thiếu công đoạn này được tiến hành 
một cách bài bản và kỹ lưỡng. Việc 
NHNN VN cũng cần ban hành 
hướng dẫn thị trường của các nước 
thành viên trong ASEAN là một 
cách khai thác thị trường thích hợp, 
cách nắm bắt thông tin hoặc những 
lưu ý liên quan đến chính trị, tôn 
giáo hoặc văn hóa để tạo điều kiện 
tối đa cho hoạt động FDI của các 
NHTM được diễn ra một cách cụ 
thể, giúp cho những quốc gia tiến 
hành FDI trong khối AEC được bài 
bản và cụ thể hơn nhiều. 
Thứ ba, tăng cường khả năng 
hợp tác khu vực và liên kết kinh 
tế. Đây chính là một trong những 
nội dung trọng điểm hoạt động đầu 
tư ra nước ngoài. Cụ thể như ngân 
hàng Sacombank trước đây khi 
đầu tư sang thị trường Cambodia 
thực hiện hoạt động liên kết, góp 
vốn, hợp tác, sau đó quyết định 
đầu tư trực tiếp vào đất nước này. 
Việc này có thể giúp chuyển giao 
thông tin, nguồn vốn cũng như 
nguồn nhân lực một cách hiệu quả 
hơn. Đầu tư ra nước ngoài bao giờ 
cũng phức tạp hơn so với đầu tư 
trong nước (OECD, 2002). Theo 
đó, VN cần đàm phán kí kết các 
hợp đồng đầu tư đa biên nhằm tăng 
cường bảo vệ các NHTM và tạo 
các cơ chế pháp lý ổn định để giải 
quyết các tranh chấp có thể nảy 
sinh khi thực hiện đầu tư ra nước 
ngoài. Trước hết, VN cần tham gia 
đầy đủ các công ước quốc tế liên 
quan đến đầu tư ra nước ngoài như 
Công ước Washington 1965, các 
công ước của WTO. Tuy nhiên, 
không phải bất kỳ văn bản nào 
VN cũng có thể kí kết một cách dễ 
dàng như vậy. Việc kí kết có thể 
tạo điều kiện thuận tiện cho hoạt 
động đầu tư ra nước ngoài thông 
thoáng hơn nhưng cũng hàm chứa 
những rủi ro không thể dự đoán 
trước liên quan đến những chính 
sách luật định chưa được tìm hiểu 
kỹ từ nước sở tại. Thế nên, FDI 
trong khu vực AEC chính là giải 
pháp an toàn cho các NHTM. Cụ 
thể những thị trường tiềm năng còn 
được khai thác chính là Cambodia, 
Laos, Myanmar, Philippines, 
Indonesia
Thứ tư, nhân tố khoa học công 
nghệ và nhân tố con người trong 
hoạt động đầu tư ra nước ngoài của 
các NHTM VN là điều cần thiết. 
Con người chính là sự liên kết 
dịch chuyển nguồn nhân lực chất 
lượng cao trong cộng đồng AEC, 
còn nhân tố khoa học công nghệ 
chính là việc NHTM VN nên đầu 
tư sang những nước có nền kinh tế 
tài chính phát triển như Singapore, 
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 20 (30) - Tháng 01-02/2015
Doanh Nghiệp VN Với Cộng Đồng Kinh Tế ASEAN
22
Malaysia để có thể học hỏi từ hệ 
thống core-banking cũng như 
những cách quản lý mới khoa học. 
Chấp nhận giai đoạn đầu khó khăn 
nhưng chỉ có FDI, NHTM mới có 
được những bài học đắt giá cho 
hoạt động phát triển mạng lưới sau 
này trên khắp cộng đồng ASEAN. 
Thứ năm, yếu tố quản lý và yếu 
tố giả cả cũng là phần rất quan trọng 
của hoạt động FDI NHTM VN ra 
các nước AEC. Thường xuyên thay 
đổi quy mô tổ chức của ngân hàng 
cho phù hợp với các tình hình đầu 
tư và xu hướng thế giới. Bên cạnh 
đó, các NHTM phải thành lập các 
cơ quan kiểm tra thường xuyên, 
đổi mới phương pháp hoạt động 
kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán nội 
bộ, để tăng cường kiểm tra để giúp 
cho ngân hàng đi đúng đắn hành 
lang pháp lí, thực hiện tốt các nghị 
quyết, quyết định của ban lãnh đạo 
ngân hàng, bảo vệ được cán bộ và 
tài sản của ngân hàng. Đồng thời 
NHTM cổ phần VN cũng cân nhắc 
việc định giá các loại dịch vụ tài 
sản cho hợp lý theo với mức lãi 
suất của ngân hàng trung ương 
nước sở tại cũng như thị yếu tiêu 
dùng. Muốn được điều này thì các 
chính sách cần phải phối hợp một 
cách nhịp nhàng và ăn ý với nhau. 
4. Kết luận
Hoạt động đầu tư ra nước ngoài 
của các NHTM cổ phần VN trong 
bối cảnh thành lập cộng đồng Kinh 
tế ASEAN là một bước quan trọng 
cần được cân nhắc để liên kết đầu tư 
cũng như tạo mọi sự thuận lợi theo 
đúng những cam kết mà các quốc 
gia đã kí kết, bao gồm dịch chuyển 
dòng vốn tự do, nguồn nhân lực và 
những thuận lợi hóa thương mại. 
Trước bối cảnh liên kết và hội nhập 
kinh tế như vậy, hoạt động đầu tư 
lại được xem như tính tất yếu của 
quá trình đầu tư, việc Ngân hàng 
Nhà nước, các chủ thể NHTM, bộ 
ban ngành cũng như việc liên kết 
thành lập các đơn vị xúc tiến tìm 
hiểu hỗ trợ cho hoạt động ngày 
càng sâu rộng không chỉ là bài học 
kinh nghiệm đối với VN mà còn 
là những quốc gia khác trong khu 
vựcl
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Association of Southest Asian Nations 
(2013), ASEAN Economic Community 
blueprint, Tiếp cận ngày 15/4/2014. 
Báo cáo thường niên năm 2013 Ngân hàng 
TMCP Đầu tư và phát triển VN (BIDV)
Grosse R. and Trevino L. J. (1996), Foreign 
Direct Investment in the United States: 
An Analysis by Country of Origin, 
Journal of International Business 
Studies. 27, pp. 139-155, Tiếp cận ngày 
15/4/2014.
Hà Văn Hội (2013), “Tham gia cộng đồng 
Kinh tế ASEAN và những tác động đến 
thương mại quốc tế của VN”, Tạp chí 
khoa học Đại học Quốc Gia Hà Nội, 
Kinh tế và kinh Doanh, Tập 29, Số 4, 
2013, Tiếp cận ngày 15/4/2014.
Haas E. B. et al. (1963), Limits and Problems 
of European Integration, Tiếp cận ngày 
15/4/2014.
chapter/10.1007/978-94-011-9276-7_h2 
Organisation for Economic Co-operation and 
Development - OECD (2002), Foreign 
Direct Investment for Development, 
Tiếp cận ngày 15/4/2014. 
oecd.org/investment/investmentfordevel
opment/1959815.pdf

File đính kèm:

  • pdfmo_rong_hoat_dong_dau_tu_cua_cac_ngan_hang_thuong_mai_viet_n.pdf