Mô hình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến lựa chọn dịch vụ ngân hàng trực tuyến của khách hàng cá nhân
TÓM TẮT
Tác giả trình bày hiện trạng việc lựa chọn dịch vụ ngân hàng trực tuyến của khách hàng cá nhân,
tổng hợp xem xét, đánh giá các nghiên cứu và các mô hình trước đây có liên quan đến việc lựa chọn
dịch vụ ngân hàng trực tuyến của khách hàng cá nhân, trên cơ sở đó xác định các nhân tố ảnh hưởng
đến việc lựa chọn dịch vụ ngân hàng trực tuyến của khách hàng cá nhân. Từ đó, tác giả đề xuất mô
hình nghiên cứu.
Từ khóa: Dịch vụ ngân hàng trực tuyến, Ebanking, khách hàng cá nhân, các nhân tố ảnh hưởng
đến việc lựa chọn.
Bạn đang xem tài liệu "Mô hình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến lựa chọn dịch vụ ngân hàng trực tuyến của khách hàng cá nhân", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mô hình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến lựa chọn dịch vụ ngân hàng trực tuyến của khách hàng cá nhân
47 Mô hình nghiên cứu các nhân tố ... MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LỰA CHỌN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG TRỰC TUYẾN CỦA KHÁCH HÀNG CÁ NHÂN Nguyễn Thị Cẩm Phú*, Trần Anh Minh** TÓM TẮT Tác giả trình bày hiện trạng việc lựa chọn dịch vụ ngân hàng trực tuyến của khách hàng cá nhân, tổng hợp xem xét, đánh giá các nghiên cứu và các mô hình trước đây có liên quan đến việc lựa chọn dịch vụ ngân hàng trực tuyến của khách hàng cá nhân, trên cơ sở đó xác định các nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn dịch vụ ngân hàng trực tuyến của khách hàng cá nhân. Từ đó, tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu. Từ khóa: Dịch vụ ngân hàng trực tuyến, Ebanking, khách hàng cá nhân, các nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn. THE MODEL STUDIES THE FACTORS AFFECTING ELECTRONIC BANKING SERVICE CHOICE OF INDIVIDUAL CUSTOMERS ABSTRACT The author presents the current status of individual Electronic banking choice of customers, summarizes and reviews previous studies and models related to the choice of Electronic banking services. of individual customers, based on which determine the factors that influence the choice of Electronic banking services of individual customers. From there, the author proposed a research model. Keywords: Electronic banking services, Ebanking, individual customers, factors affecting the choice. * ThS. Giảng viên Trường ĐH. Ngân hàng Tp.HCM; NCS. Trường ĐH Lạc Hồng ** TS. GV. Trường ĐH. Vĕn Lang, Tp.HCM 48 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Cùng với xu thế toàn cầu hóa, Việt Nam đang từng bước hội nhập kinh tế thế giới, vấn đề cạnh tranh được đặt ra là hết sức quan trọng trong hầu hết các lĩnh vực. Sự thâm nhập của ứng dụng công nghệ, điện tử viễn thông vào ngành tài chính ngân hàng đã tạo ra nhiều dịch vụ mới với hàm lượng công nghệ cao, trong đó có dịch vụ Ebanking. Dịch vụ ngân hàng trực tuyến (Ebanking) là sản phẩm tiêu biểu trong nhiều ứng dụng công nghệ hiện đại của ngân hàng, nó cho phép cung cấp các dịch vụ ngân hàng một cách trực tiếp đến tận tay mọi đối tượng khách hàng; mang lại nhiều thuận tiện cho người sử dụng cũng như giúp khách hàng tiết kiệm thời gian và chi phí giao dịch. Thực tế đã cho thấy xu hướng sử dụng các dịch vụ Ebanking, đặc biệt qua các kênh thông qua mạng Internet hay điện thoại di động thông minh ngày càng phổ biến. Trong thập kỷ qua, các nhà nghiên cứu trên thế giới đã nghiên cứu nhiều vấn đề liên quan đến Internet, dịch vụ ngân hàng thông qua kênh Internet (Internet banking) và dịch vụ ngân hàng thông qua kênh điện thoại di động (Mobile banking). Ở Việt Nam, với dân số trên 96 triệu người có đến 84% người sử dụng smartphone và xu hướng mua hàng trực tuyến đang có xu hướng tĕng. Ngoài ra, với tốc độ tĕng trưởng mạnh mẽ của thị trường thẻ ngân hàng cũng cho thấy xu hướng tiêu dùng không bằng tiền mặt, góp phần phát triển các dịch vụ thanh toán trên di động. Đến nay, có khoảng 45 ngân hàng cung cấp dịch vụ SMS banking, Internet Banking và 32 ngân hàng phát triển ứng dụng Mobile Banking. Hiện nay, hầu hết các ngân hàng đã triển khai dịch vụ Ebanking (trong đó 74% ngân hàng thương mại phát triển dịch vụ Internet Banking, 38% ngân hàng thương mại phát triển dịch vụ Mobile banking). Tuy nhiên, số lượng khách hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng trực tuyến còn ít so với tiềm nĕng phát triển, tần suất sử dụng còn nhiều hạn chế. Xác định vai trò và tầm quan trọng của khách hàng trong phát triển dịch vụ Ebanking, nhiều nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến lựa chọn sử dụng dịch vụ Ebanking của khách hàng đã và đang được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu và phát triển các lý thuyết nghiên cứu. Một số nhà nghiên cứu sử dụng các lý thuyết nền tảng như: TRA, TPB, TPR, TAM, IDT đưa ra nhiều yếu tố ảnh hưởng đến lựa chọn sử dụng dịch vụ Ebanking. Hơn nữa, việc áp dụng một mô hình lý thuyết trên thế giới vào ngữ cảnh của Việt Nam có thể không phù hợp do các điều kiện đặc thù riêng về kinh tế, vĕn hóa, xã hội Do đó việc nghiên cứu để xây dựng mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn dịch vụ Ebanking của khách hàng cá nhân ở Việt Nam là việc làm có ý nghĩa thiết thực cả đối với khách hàng sử dụng và ngân hàng cung cấp dịch vụ. 2. MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LỰA CHỌN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG TRỰC TUYẾN (Ebanking) 2.1. Các nghiên cứu thực nghiệm 2.1.1. Nhân tố cảm nhận tính dễ sử dụng và tính hữu ích của dịch vụ Một số mô hình nghiên cứu lý thuyết hành động hợp lý (TRA), Lý thuyết hành vi có kế hoạch (TPB), Mô hình chấp nhận công nghệ (TAM2), mô hình UTAUT,... nghiên cứu hành vi người tiêu dùng chấp nhận và sử dụng sản phẩm mới, hiện đại trong lĩnh vực ngân hàng đưa ra 2 yếu tố cảm nhận tính dễ sử dụng và cảm nhận tính hữu ích ảnh hưởng đến lựa chọn sử dụng dịch vụ Ebanking. Amin và cộng sự (2008) áp dụng mô hình TAM nghiên cứu tại thị trường Malaysia và kết luận các nhân tố ảnh hưởng đến lựa chọn và chấp nhận sử dụng dịch vụ Mobile banking: tiện ích dịch vụ, cảm nhận tính dễ sử dụng, uy tín, thông tin và các tác động xã hội. Ho et al. (2008) nghiên cứu những ảnh hưởng của công nghệ dịch vụ tự phục vụ trên giá trị khách hàng và sự sẵn sàng của khách hàng 49 Mô hình nghiên cứu các nhân tố ... trong dịch vụ Internet banking. Luarn và Lin (2005), Gu et.al (2009) xác nhận về lựa chọn sử dụng Mobile banking dựa trên mô hình TAM. Zhou (2012) chỉ ra rằng cấu trúc và đảm bảo chất lượng thông tin là những yếu tố chính ảnh hưởng đến sự tin tưởng ban đầu ảnh hưởng đến cảm nhận tính hữu ích và cả hai yếu tố dự đoán lựa chọn sử dụng Mobile banking. Riquelme và Rios (2010) áp dụng mô hình TAM nghiên cứu người tiêu dùng tại Singapore với trên 681 người và kết luận cảm nhận tính hữu ích, chuẩn mực xã hội, nhận thức rủi ro là các yếu tố ảnh hưởng quan trọng đến việc sử dụng dịch vụ Mobile banking. Trong bối cảnh đó, Koenig-Lewis et al (2010) chỉ ra rằng khả nĕng tương thích, tính hữu dụng nhận thức và rủi ro là những chỉ số quan trọng cho việc áp dụng các dịch vụ Mobile banking. Dựa trên nghiên cứu theo mô hình TPB, TAM, Sripalawat và cộng sự (2011) đã kiểm định và nhận thấy cảm nhận tính dễ sử dụng, cảm nhận về tính hữu ích, nhận thức hiệu quả là các yếu tố ảnh hưởng đến việc chấp nhận và sử dụng dịch vụ Mobile banking. Mối quan hệ giữa Cảm nhận tính hữu ích và lựa chọn sử dụng theo Lê Tô Minh Tân (2013) nghiên cứu tại Huế khẳng định Cảm nhận tính hữu ích được nhận định là nhân tố có ảnh hưởng lớn nhất đến dự định sử dụng dịch vụ Ebanking. Điều này ủng hộ những nghiên cứu trước của Pikkarainen (2004) và Chan & Lu (2004) khi điều tra sự chấp nhận Ebanking tại Phần Lan và tại Hong Kong. Phạm Thùy Giang (2015) nghiên cứu kết hợp mô hình TAM và mô hình TPB để phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến dự định hành vi sử dụng dịch vụ Internet banking của khách hàng cá nhân tại Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy thái độ của khách hàng đối với dịch vụ Internet banking có tác động mạnh nhất tới lựa chọn hành vi sử dụng dịch vụ Internet Banking, cảm nhận về mức độ hữu ích của Internet banking lại có ảnh hưởng mạnh đến thái độ, cảm nhận về sự phức tạp khi sử dụng dịch vụ Internet banking đang là rào cản khách hàng dự định sử dụng dịch vụ Internet banking. Rõ ràng, một số nghiên cứu dựa trên các mô hình cơ bản TAM, TPB, UTAUT hầu hết chỉ ra rằng các yếu tố cảm nhận về tính dễ sử dụng, cảm nhận về tính hữu ích của sản phẩm là hai yếu tố quan trọng tác động đến lựa chọn hành vi, sự chấp nhận và sử dụng các dịch vụ gắn với công nghệ nói chung và dịch vụ Ebanking nói riêng. 2.1.2. Yếu tố tính đổi mới Một số nhà nghiên cứu Chitungo và Munongo (2013), Joshua (2009) đã tiến hành nghiên cứu và đưa ra yếu tố tính đổi mới của người tiêu dùng trong việc tiếp cận và chấp nhận sử dụng các sản phẩm mới đặc biệt trong lĩnh vực có áp dụng công nghệ hiện đại. Theo lý thuyết của Maslow (1943) và Herzberg (1959) về động cơ cho thấy khi con người có động cơ hành động đồng thời sẽ lĩnh hội được kiến thức. Kiến thức diễn tả thay đổi trong hành vi của một người phát sinh từ kinh nghiệm. Các nhà lý luận cho rằng chính sự tương tác này đã thôi thúc và đưa ra những tác động kích thích những phản ứng đáp lại. Sự thôi thúc là nhân tố kích thích nội tại thúc đẩy hành động. Do đó tính đổi mới là một yếu tố quan trọng của lựa chọn và chấp nhận sử dụng dịch vụ. Foxall và Bhate (1991) đã sử dụng tính đổi mới của người tiêu dùng để giải thích hành vi chấp nhận sử dụng máy tính cá nhân. Tính đổi mới của người tiêu dùng được đo bằng phong cách nhận thức đổi mới của Kirton (1976) và sự tham gia của cá nhân của Zaichkowsky (1985). Kết quả kiểm nghiệm đối với một số mẫu là cá nhân sinh viên tốt nghiệp trong ngành quản trị kinh doanh cho thấy tính đổi mới (đo bằng sự tham gia của cá nhân) có tác động đáng kể đến tần số sử dụng máy tính cá nhân. Im và cộng sự (2003) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa tính đổi mới của người tiêu dùng, đặc tính cá nhân và hành vi chấp nhận sử dụng dịch vụ điện tử mới. 50 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Ho và Wu (2011) đã nghiên cứu vai trò của tính đổi mới trong quan hệ nhận thức về thuộc tính sản phẩm mới và lựa chọn chấp nhận sản phẩm mới phát hiện tính đổi mới của khách hàng và nhận thức về thuộc tính của sản phẩm mới điều tiết mối quan hệ giữa nhận thức về thuộc tính của sản phẩm mới và lựa chọn chấp nhận sản phẩm mới của người tiêu dùng. Trong lĩnh vực nghiên cứu khác về sản phẩm điện tử mới, Cao Thị Thanh (2014) cũng khẳng định tính đổi mới ảnh hưởng tích cực đến lựa chọn hành vi chấp nhận sản phẩm thuộc lĩnh vực này. 2.1.3. Yếu tố nhận thức về rủi ro Laforet và Li (2005) đã điều tra các rào cản đối với việc áp dụng tiêu dùng Trung Quốc của Internet banking và chỉ ra rằng yếu tố bảo mật là yếu tố quan trọng nhất thúc đẩy việc sử dụng dịch vụ Internet banking. Riquelme &Rios (2010) đã chứng minh rằng các nhân tố thuộc cảm nhận tính hữu ích, chuẩn mực xã hội và nhận thức rủi ro (theo thứ tự ảnh hưởng) là ba yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc sử dụng các dịch vụ mobile banking tại Singapore, Ngoài ra, họ chỉ ra nhận thức về rủi ro, máy tính và kỹ nĕng công nghệ, thiếu nhận thức và sự hiểu biết về những lợi ích và vĕn hóa tiền mặt mang theo là rào cản chính trong sử dụng dịch vụ này tại Trung Quốc. Phạm Long (2013) đề xuất mô hình lựa chọn chấp nhận sử dụng Ebanking tại Việt Nam cũng đưa ra nhân tố cảm nhận rủi ro ảnh hưởng đến lựa chọn sử dụng dịch vụ của khách hàng. Tiếp theo nghiên cứu của Phạm Long, Nguyễn Duy Thanh và Cao Hào Thi (2014) đề xuất mô hình EBAM trong đó đưa ra 6 nhân tố ảnh hưởng đến lựa chọn sử dụng dịch vụ Ebanking của khách hàng: dễ sử dụng, kiểm soát hành vi, khả nĕng tương thích, hiệu quả mong đợi, hình ảnh ngân hàng và cảm nhận rủi ro giao dịch ảnh hưởng đến chấp nhận và lựa chọn sử dụng dịch vụ của khách hàng. Tuy nhiên, nghiên cứu với trên 300 mẫu tập trung tại một số ngân hàng thương mại chưa tập trung phân loại theo khách hàng đã sử dụng hay chưa sử dụng dịch vụ Ebanking, nghiên cứu chưa đưa ra ảnh hưởng các yếu tố nhân khẩu học vào phân tích. Kesharwani & cộng sự (2012), Đỗ Ngọc Anh (2016) vận dụng mô hình UTAUTA trong nghiên cứu lựa chọn sử dụng và mức độ sử dụng dịch vụ Internet banking của khách hàng, ngoài 4 nhân tố kỳ vọng về hiệu nĕng, kỳ vọng về sự cố gắng, ảnh hưởng xã hội, điều kiện thuận lợi mở rộng với hai nhân tố an toàn/bảo mật, tiện lợi nghiên cứu các nhân tố tác động đến lựa chọn sử dụng dịch vụ Internet banking của khách hàng đã sử dụng và chưa sử dụng dịch vụ. Tuy nhiên nghiên cứu chưa khẳng định mối quan hệ giữa các biến trong mô hình, chưa nghiên cứu đến yếu tố vùng miền và sự khác biệt trong mối quan hệ ảnh hưởng giữa các yếu tố đến lựa chọn sử dụng dịch vụ Internet banking giữa các nhóm khách hàng có đặc điểm nhân khẩu học khác nhau. 2.1.4. Yếu tố ảnh hưởng xã hội Venkatesh và cộng sự (2003) đã nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng trong mô hình nghiên cứu lựa chọn chấp nhận và sử dụng công nghệ đã khẳng định ảnh hưởng xã hội là mức độ mà người khác có liên quan ảnh hưởng đến lựa chọn sử dụng của một cá nhân nào đó. Theo nghiên cứu của Kotler (2004) cũng khẳng định ảnh hưởng xã hội đến hành vi mua của khách hàng. Amin và cộng sự (2008) nghiên cứu và chỉ ra rằng lựa chọn sử dụng dịch vụ ngân hàng trên điện thoại di động bị ảnh hưởng đáng kể bởi những người xung quanh họ. Puschel và cộng sự (2010), Sripalawat và cộng sự (2011) cho rằng người sử dụng dịch vụ qua điện thoại di động cũng chịu tác động của yếu tố xã hội. Tại Việt Nam, Lê Thị Kim Tuyết (2011) đã nghiên cứu động cơ tiêu dùng dịch vụ Internet Banking phạm vi nghiên cứu tại thành phố Đà Nẵng, nghiên cứu chủ yếu tập trung vào đối tượng khách hàng hiện hữu, chưa đưa ra được sự khác biệt giữa hai đối tượng khách hàng tiềm nĕng và khách hàng hiện hữu đã đưa ra luận 51 Mô hình nghiên cứu các nhân tố ... điểm nhìn chung việc sử dụng Internet banking đều xuất phát chính từ giá trị về mặt chức nĕng của dịch vụ đó là cảm nhận sự hữu ích, tính linh động, giảm rủi ro. Ngoài ra việc sử dụng dịch vụ Internet banking còn bị tác động bởi một số yếu tố khác như vĕn hóa, xã hội. 2.2. Các giả thuyết nghiên cứu 2.2.1. Cảm nhận tính dễ sử dụng và cảm nhận tính hữu ích Cảm nhận tính dễ sử dụng được hiểu là người sử dụng tin rằng có thể sử dụng dịch vụ mà không cần nỗ lực. Dễ sử dụng là cảm nhận sự khó khĕn hay dễ dàng học tập để sử dụng dịch vụ (Davis, 1989), đó là cảm nhận của người dùng tin rằng có thể sử dụng dịch vụ mà không cần sự nỗ lực. Cảm nhận tính hữu ích được hiểu là nhận thức về khả nĕng nâng cao hiệu quả, nĕng suất công việc của người dùng khi sử dụng (Davis, 1989). Nhiều nghiên cứu tại các quốc gia khác nhau ứng dụng lý thuyết hành động hợp lý (TRA), Lý thuyết hành vi có kế hoạch (TPB), Mô hình chấp nhận công nghệ (TAM), mô hình UTAUT,... đều khẳng định nhân tố cảm nhận tính dễ sử dụng, cảm nhận tính hữu ích là hai nhân tố quan trọng, ảnh hưởng đến lựa chọn sử dụng dịch vụ Ebanking. Nghiên cứu của Lee và cộng sự (2001), Venkatesh (2003), Chan và Lu (2004), Pikkrainen (2004), Luarn và Lin (2005), Alsajjan và Bander (2008), Clegg (2010), Dasgupta (2011), Mohammad và cộng sự (2012), Njuguna (2012), Phạm Long (2013), Hernandez (2014 ) và nhiều nghiên cứu khác nghiên cứu về các dịch vụ khác nhau khẳng định 02 yếu tố cảm nhận tính dễ sử dụng, cảm nhận tính hữu ích ảnh hưởng thuận chiều đến lựa chọn chấp nhận sử dụng dịch vụ thương mại điện tử của khách hàng. Chính vì vậy, tác giả đề xuất hai giả thuyết sau: Giả thuyết 1 (H1): Cảm nhận tính dễ sử dụng có ảnh hưởng cùng chiều đến lựa chọn sử dụng dịch vụ Ebanking; Giả thuyết 2 (H2): Cảm nhận tính hữu ích có ảnh hưởng cùng chiều đến lựa chọn sử dụng dịch vụ Ebanking. 2.2 ... a các nhà cung cấp đối với người tiêu dùng càng cao thì mức độ cảm nhận tính hữu ích của thương mại điện tử sẽ thấp hơn (Lee, 2001). Rủi ro về an ninh và tính bảo mật qua các giao dịch qua internet làm giảm cảm nhận tính hữu ích đối với khách hàng (Chan và Lu (2004)). Chính vì vậy, tác giả đề xuất hai giả thuyết sau: Giả thuyết 4 (H4): Cảm nhận tính rủi ro tác động ngược chiều với lựa chọn sử dụng dịch vụ Ebanking. 2.2.4. Ảnh hưởng xã hội Ảnh hưởng xã hội là mức độ mà một cá nhân nhận thức được tầm quan trọng của những người khác tin rằng họ nên sử dụng một hệ thống mới. Nhiều lý thuyết khác nhau khẳng định ảnh hưởng của yếu tố tính xã hội đến lựa chọn sử dụng /lựa chọn mua hàng như: Mô hình TRA (Fishbein & Ajzen, 1975), TAM (Davis, 1989), TPB (Ajzen, 1991), IDT (Roger, 2003), UTAUT (Venkatesh, 2003), lý thuyết Marketing của Kolter (2004). Ảnh hưởng xã hội xảy ra khi một người làm ảnh hưởng đến hành vi của một người khác (Rice, Grant, Schimitz và Torobin, 1990). Ảnh 53 Mô hình nghiên cứu các nhân tố ... hưởng xã hội là mức độ mà người khác có liên quan ảnh hưởng đến lựa chọn sử dụng của một cá nhân nào đó (Venkatesh, 2003). Cá nhân sẽ cảm thấy thoải mái khi chấp nhận những hệ thống công nghệ đã được xã hội công nhận bởi vì họ tin rằng họ sẽ cảm nhận được như những người đã sử dụng hệ thống (Anandarajan, Igbaria & Anakwe, 2000); Igbaria, Parasuraman & Baroudi, 1996). Theo Ming chi lee (2008), Forsythe và Shi (2003) nhận thức không thuận lợi về Ebanking của những người thân, người quen, hoặc người có ảnh hưởng đến quan điểm của khách hàng về hoạt động Ebanking sẽ ảnh hưởng đến quan điểm, thái độ của khách hàng về dịch vụ. Nghiên cứu ảnh hưởng của yếu tố xã hội, nhiều nghiên cứu tại các quốc gia khác nhau đã khẳng định yếu tố xã hội ảnh hưởng thuận chiều đến lựa chọn sử dụng dịch vụ Ebanking của khách hàng như: Amin và cộng sự (2008), Emad (2009), Lee (2009), Puschel và cộng sự (2010), Sripalawat và cộng sự (2011). Việt Nam là quốc gia đang phát triển, trình độ dân trí còn chưa cao như các nước tiên tiến trên thế giới, tâm lý đám đông trở nên rất phổ biến. Những ảnh hưởng của người thân, bạn bè, hay các chủ thể khác trong xã hội sẽ có tác động rất lớn đến thái độ hay cảm nhận về rủi ro đối với các khách hàng sử dụng dịch vụ của ngân hàng, từ đó tác động tạo ra hiệu ứng dây chuyền. Ảnh hưởng xã hội, cảm nhận của người người xung quanh tốt sẽ làm giảm tính e ngại về rủi ro khi sử dụng, gia tĕng số lượng khách hàng mới tạo đà cho sự tĕng trưởng doanh thu, lợi nhuận và cả thị phần cho các doanh nghiệp. Chính vì vậy, tác giả đề xuất giả thuyết sau: Giả thuyết 5 (H5): Yếu tố ảnh hưởng xã hội có tác động thuận chiều với lựa chọn sử dụng dịch vụ Ebanking. 2.3. Mô hình nghiên cứu đề xuất Qua phân tích cho thấy có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hành vi lựa chọn dịch vụ Ebanking tại các ngân hàng thương mại, trong đó tập trung vào 04 yếu tố ảnh hưởng (Cảm nhận tính dễ sử dụng, Cảm nhận tính hữu ích, Tính đổi mới, Cảm nhận rủi ro). Các nghiên cứu lựa chọn sử dụng của khách hàng cũng cho thấy các nghiên cứu của các nhà khoa học diễn ra tại các quốc gia khác nhau, có những nghiên cứu đưa ra một số nhân tố có ý nghĩa tác động đến lựa chọn hành vi của khách hàng nhưng với một số nghiên cứu khác những yếu tố đó lại không có ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng rất nhỏ. Trên cơ sở nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng trong các bài nghiên cứu nước ngoài, kết hợp với thực tế dịch vụ Ebanking tại các ngân hàng thương mại Việt Nam với đặc thù dịch vụ Ebanking mới phát triển tại một số nĕm gần đây, dịch vụ Ebanking còn tiềm ẩn nhiều cơ hội phát triển thị trường, khách hàng, các tính nĕng của ứng dụng Mobile Banking, Internet banking được ngân hàng phát triển dựa trên nhu cầu của người Việt sẽ ngày càng phát triển trong thời gian tới, nghiên cứu tập trung nghiên cứu để tìm mô hình những nhân tố cùng tác động đến dịch vụ Ebanking nói chung trong bối cảnh Việt Nam khắc phục một số những nghiên cứu trước đã có tại Việt Nam và đưa ra một số biến ít được đề cập: Yếu tố ảnh hưởng xã hội và tác động của các biến nhân khẩu học (biến kiểm soát) ảnh hưởng đến mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến lựa chọn sử dụng dịch vụ Ebanking của khách hàng, cụ thể: Dựa vào các lý thuyết liên quan đến hành vi và kết quả từ các công trình nghiên cứu trước từ tổng quan ở trên, nghiên cứu đề xuất một số biến độc lập (nhân tố tác động đến lựa chọn sử dụng dịch vụ Ebanking trong bối cảnh các ngân hàng thương mại Việt Nam) đó là các nhân tố: (1) Cảm nhận dễ sử dụng, (2) Cảm nhận Tính hữu ích, (3) Tính đổi mới, (4) Nhận định rủi ro, (5) Ảnh hưởng xã hội. Biến phụ thuộc là lựa chọn sử dụng dịch vụ Ebanking. Biến kiểm soát: Giới tính, tuổi, học vấn, thu nhập, vùng miền. Trên cơ sở tổng quan nghiên cứu của các công trình khoa học tại các quốc gia và đặc thù 54 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật phát triển dịch vụ Ebanking tại Việt Nam, tác giả kế thừa các nghiên cứu trước đây để đưa vào mô hình nghiên cứu cụ thể như sau: 49 Trên cơ sở tổng quan nghiên cứu của các công trình khoa học tại các quốc gia và đặc thù phát triển dịch vụ Ebanking tại Việt Nam, tác giả kế thừa các nghiên cứu trước đây để đưa vào mô hình nghiên cứu cụ thể như sau: Hình 1: Mô hình nghiên cứu đề xuất Nguồn: Tác giả ẾT LUẬ Mô hình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng lựa chọn sử dụng dịch vụ ngân hàng trực tuyến (Ebanking), tác giả mong muốn sẽ tìm và phân tích để xác định các nhân tố có vai trò quyết định đối với quyết định sử dụng dich vụ thanh toán của khách hàng cá nhân. Thông qua đó, có thể giúp các ngân hàng thương mại cung cấp dịch vụ thanh toán trực tuyến xác định các chiến lược xây dựng và phát triển và nâng cao hơn nữa các dịch vụ thanh toán trực tuyến. TÀI LIỆU THAM KHẢO: Tài liệu tham khảo Tiếng Việ 1. Lê Vĕn Huy và Trương Thị Vân Anh (2008), “Mô hình nghiên cứu chấp nhận Ebanking tạ Việt Nam”, Tạp chí nghiên cứu kinh tế, Số 352- tháng 7/2008. 2. Nguyễn Duy Thanh, Cao Hào Thi (2011), “Đề xuất mô hình chấp nhận và sử dụng Ebanking ở Việt Nam”, Tạp chí phát triển khoa học và công nghệ, 14 (2) 97- 105. 3. Nguyễn Duy Thanh, Cao Hào Thi (2014), “Mô hình cấu trúc cho sự ấp nhận và sử dụ Ebanking ở Việt Nam”. Tạp chí Phát triển kinh tế, 281, 57 75. Nguyễn Mạnh Hà, Bùi Hải Yến (2013), “ ếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng Internet banking của khách hàng cá nhân”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 6, trang 34-38. 5. Phạ Thùy Giang (2014), “ ếu tố ảnh hưởng đến dự định sử dụng dịch vụ internet banking”, Tạp chí Kinh tế Phát triển, số 216 (II), trang 105-115. 6. Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai Trang (2007), “ ứu khoa học trong Quản trị Kinh doanh”, NXB Thống Kê, Tp.HCM. Tài liệu tham khảo Tiếng Anh Cảm nhận tính hữu ích Cảm nhận tính dễ sử dụng Tính đổi mới Nhận thức về rủi ro Ảnh hưởng xã hội LỰA CHỌN SỬ DỤNG DỊCH VỤ EBANKING H1 =H2 H3 H4 H5 Hình 1: Mô hình nghiên cứu đề xuất Nguồn: Tác giả 2. KẾT LUẬN Mô hình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng lựa chọn sử dụng dịch vụ ngân hàng trực tuyến (Ebanking), tác giả mong muốn sẽ tìm và phân tích để xác định các hân tố có vai trò quyết định đối với quyết định sử dụng dich vụ thanh toán của khách hàng cá nhân. Thông qua đó, có t ể giúp các ngân hàng thương mại cung cấp dịch vụ thanh toán trực tuyến xác định các chiến lược xây dựng và phát triển và nâng cao hơn nữa các dịch vụ thanh toán trực tuyến. TÀI LIỆU THAM KHẢO: Tài liệu tham khảo Tiếng Việt 1. Lê Vĕn Huy và Trương Thị Vân Anh (2008), “Mô hình nghiên cứu hấp nhận Ebanking tại Việt Nam”, Tạp chí nghiên cứu kinh tế, Số 352- t áng 7/2008. 2. Nguyễn Duy Thanh, Cao Hào Thi (2011), “Đề xuất mô hình chấp nhận và sử dụng Ebanking ở Việt Nam”, Tạp chí phát triển khoa học và công nghệ, 14 (2) 97- 105. 3. Nguyễn Duy Thanh, Cao Hào Thi (2014), “Mô hình cấu trúc cho sự chấp nhận và sử dụng Ebanking ở Việt Nam”. Tạp chí Phát triển kinh tế, 281, 57–75. 4. Nguyễn Mạnh Hà, Bùi Hải Yến (2013), “Yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng Internet banking của khách hàng cá nhân”, Tạp chí Kin tế và Dự báo, số 6, trang 34-38. 5. Phạm Thùy Gia g (2014), “Yếu tố ảnh hưởng đến dự định sử dụng dịch vụ internet banking”, Tạp chí Kinh tế Phát triển, số 216 (II), trang 105-115. 6. Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai Trang ( 7), “Nghiên cứu khoa học trong Quản trị Kinh doa ”, NXB Thố Kê, Tp.HCM. Tài liệu tham khảo Tiếng Anh 1. Ajzen I & Fishbein M. (1980), Understanding Attitudes and Predicting Social Behavior, Prentice-Hal, Englewood Cliffs, New Jersey. 2. Ajzen I. (1991), “The Theory of Planned Be avior”, Organizational Behavior & Human Decision Processes, 50, 179-211. 3. Amin, H. Hamid, M., Lada, S. and Anis, Z. (2008), “The adoption of mobile banking in Malaysia: the case of Bank Islam Malaysia Berhad (BIMB)”, International Journal of Business and Society, Vol. 9 No. 2, 43-53. 4. Anandarajan, M., Igbaria, M., & Anakwe, U. P. (2000), “Technology acceptance in the banking industry: A perspective from 55 Mô hình nghiên cứu các nhân tố ... a less developed country”, Information Technology & People, 13 (4), 298-312. 7. Chan, S. and Lu, M. (2004), “Understanding internet banking adoption and use behavior: a Hong Kong perspective”, Journal of Global Information Management, Vol. 12, 21-43. 8. Chao và cộng sự (2012), “Consumer innovativeness influence on really new product adoption”, Australasian Marketing Journal, 20, 211–217. 9. Clegg B., Abdullah S., Gholami R. (2010), Internet banking acceptance in the context of developing countries: An extension of the technology acceptance model. Aston business school, U.K. 10. Dasgupta, S. P., Rik; Fuloria, S. (2011), “Factors Affecting Behavioral Intentions towards Mobile Banking Usage: Empirical Evidence from India”. Romanian Journal of Marketing, (1), 6-28. 11. Davis F. D., (1993), “User acceptance of information technology: System characteristics, user perceptions & behavioural impacts”, International journal of Man- Machine, 38, 475-487. 12. Davis, F.D. (1989), “Perceived usefulness, perceived ease of use, & user acceptance of information technology”, MIS Quarterly, 319-340. 13. Davis, F.D., Bagozzi, R.P. & Warshaw, P.R. (1989), “User acceptance o f computer technology: A comparison of two theoretical models”, Management Science, 35(8), 982- 1003. Denzin and Lincoln (1998), The fifth movement. In the Landscape of Qualitative Research, Thousand Oaks, CA: Sage. 14. Dickerson, M.D. và Gentry, J.W. (1983), “Characteristics of adopters and non- adopters of home computers”, Journal of Consumer Reseach, 10, 225-35. 15. Emad, A. and Michael, P. (2009), “Internet Banking in Jordan: An Arabic Instrument Validation Process”, The International Arab Journal of Information Technology, Vol. 6, No. 3, 235-247. 16. Forsythe SM, Shi B (2003), “Consumer patronage and risk perceptions in internet shopping”, Journal of Business Research 56(11), 867-875. 17. Foxall và Bhate (1991), “Cognitive style, personal involvement and situation as determinants of computer use”, Technovation, 11, 183–200. 18. Gu, J.C., Lee, S.C., and Suh, YH (2009), “Determinants of behavioral intention to mobile banking”, Expert Systems with Applications, Vol. 36 No. 9, 11605- 11616. 19. Herzberg, F., Mausner, B., Snyderman (1959), The motivation to work. New York: John Wiley&Son. 20. Ho, Wu (2011), “Role of innovativeness of consumer in relationship between perceived attributes of new products and intention to adopt”, International Journal of Electronic Business Management, No. 9, 258-266. 21. Igbaria, M., Parasuraman, S., & Baroudi, J. J. (1996), “A motivational model of microcomputer usage”, Journal of management information systems, 13(1), 127- 143. 22. Im, S., Bayus, B.L. và Mason, C.H. (2003), “An empirical study of innate consumer innovativeness, personal characteristics, and new product adoption behavior”, Journal of the Academy of Marketing Science, No. 31, 61-73. 23. Joshua (2009), “Usage Patterns of Electronic Banking Services by Urban Educated Customers: Glimpses from India”, Journal of Internet Banking and Commerce, Vol. 16, No.1, 336- 351. 24. Kirton, Michael J (1976), “Adaptors and Innovator: A Description and Measure”. Joural of Applied Psychology, 61(5), 622- 629. 56 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật 25. Koenig-Lewis N., Palmer A., Moll A. (2010), “Predicting young consumers’ take up of mobile banking services”, International Journal of Bank Marketing, vol. 28, no 5, pp. 410–432. 26. Laforet, S. and Li, Xiaoyan (2005), “Consumers’ attitudes towards online and mobile banking in China”, The International Journal of Bank Marketing, Vol. 23 No. 4/5, 362-380. 27. Luarn, P., & Lin, H. H. (2005), “Toward an understanding of the behavioral intention to use mobile banking” Computers in human behavior, 21(6), 873-891. 28. Maslow, Abraham H. (1943), “A Theory of Human Motivation”, Pyschological Review, Vol. 50, No.4, pp. 370-396 29. Mohammad O. Al-Smadi (2012), “Factors affecting Adoption of Electronic Banking: An analysis of theperspectives of banks’ customers”, International journal of business and social science, 3 (17) 294-309. 30. Njuguna, P. K., Ritho, C., Olweny, T., & Wanderi, M. P. (2012), “Internet banking adoption in Kenya: The case of Nairobi County”, International Journal of Business and Social Science, 3(18), 903- 930. 31. Paswan và Hirunyawipada (2006), “Consumer innovativeness and perceived risk: implications for high technology product adoption”, Journal of Consumer Marketing, No. 23/4, 182–198. 32. Pham Long, Cao Y. Nhi, Nguyen D. Thanh, Tran T. Phong (2013), “Structural models for E-Banking Adoption in Vietnam”, International journal of enterprise information system, 9 (1) 31-48. 33. Pikkarainen, T., Pikkarainen, K., Karjaluoto, H., & Pahnila, S. (2004), “Consumer acceptance of online banking: an extension of the technology acceptance model”, Internet research, 14(3), 224-235. 34. Puschel, J., Mazzon, J. & Hern&ez, J. (2010), “Mobile banking: Proposition of an integrated adoption intention framework”, International Journal of Bank Marketing, 28(5), 389 - 409. 35. Schwartz, S.H. (1992), “Universals in the content and structure of values: theoretical advances and empirical tests in 20 countries, in Zanna, M. (Ed.)”, Advances in Experimental Social Psychology, 28(5), 1-65. 36. Sripalawat, J. T., Mathupayas; Ngramyarn, Atcharawan, (2011), “M- banking in metropolitan bangkok & a comparison with other countries”, The Journal of Computer Information Systems 51(3), 67-76. 37. Venkatesh V., Morris M., Davis F. -User acceptance of information technology: Toward a unified view, MIS quarterly: Management information systems, 27 (2003) 425-478.
File đính kèm:
- mo_hinh_nghien_cuu_cac_nhan_to_anh_huong_den_lua_chon_dich_v.pdf