Mô hình bệnh tật của người cao tuổi điều trị tại Viện Lão khoa Quốc gia năm 2008
đặt vấn đề
Theo định nghĩa của Liên hiệp quốc, những ngời có
độ tuổi từ 60 trở lên đợc xác định là ngời cao tuổi.
Năm 2002, có gần 400 triệu ngời từ 60 tuổi trở lên sống
ở các nớc đang phát triển và hơn một nửa số ngời cao
tuổi của thế giới hiên sống ở Châu á [11]. Hiện nay, số
ngời cao tuổi trên thế giới là khoảng 580 triệu ngời và
đến năm 2025 sẽ tăng lên khoảng 2 tỷ ngời cao tuổi
(NCT). Tốc độ dân số già tăng lên nhanh chóng là do
tuổi thọ trung bình tăng, giảm tỷ lệ sinh cũng nh giảm
tỷ lệ tử vong [11],[13]. Xu hớng già hoá dân số kéo theo
đó là vấn đề chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho một số
lợng đông đảo NCT trong cộng đồng đang là một thách
thức lớn đối với toàn nhân loại trong thế kỷ 21. Tơng lai
của mỗi quốc gia và toàn nhân loại đang gắn liền với sức
khoẻ của những NCT [4].
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mô hình bệnh tật của người cao tuổi điều trị tại Viện Lão khoa Quốc gia năm 2008

y học thực hành (666) - số 6/2009 41 TàI LIệU THAM KHảO 1. Trương Quang Bình, Đặng Vạn Phước (2001), “Khảo sát các yếu tố nguy cơ của 272 bệnh nhân bệnh động mạch vành tại bệnh viện Chợ Rẫy”, Y Dược học TP. Hồ Chí Minh, Tập 5. 2. Nguyễn Thị Ngọc Dung (1997), Khảo sát những yếu tố nguy cơ ở bệnh nhân bệnh động mạch vành. Tóm tắt báo cáo khoa học của hội nghị khoa học chuyên ngành tim mạch khu vực phía Nam 3. Trần Thị Mỹ Liên, Rối loạn Lipid máu và bệnh động mạch vành ở người có tuổi tại bệnh viện Thống nhất. Luận văn thạc sỹ y khoa. Trường đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 4. Nguyễn Mạnh Phan, Võ Quảng, Hồ Thượng Dũng, Trương Quang Nhơn và cộng sự (2001), Bước đầu nhận xét 55 trường hợp chụp mạch vành – can thiệp mạch vành tại bệnh viện Thống Nhất, Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa học. 5. Võ Quảng và cộng sự (2000), Bệnh động mạch vành tại Việt Nam, Đề tài cấp Bộ. Kỷ yếu toàn văn các đề tài nghiên cứu khoa học đại hội tim mạch học quốc gia Việt Nam lần thứ 8. 6. Võ Quảng và cộng sự (2004 ), Sơ bộ đánh giá mối liên quan giữa tổn thương động mạch vành và 4 yếu tố nguy cơ bệnh vành : Tăng huyết áp, Tiểu đường, rối loạn lipid máu và thuốc lá. 7. Phạm Nguyễn Vinh (2001), Yếu tố nguy cơ của bệnh động mạch vành. Kỷ yếu báo cáo khoa học của hội nghị tim mạch học Đức-Việt tại TP. Hồ Chí Minh 8. Huỳnh Thị Kiều Xuân (2000), Khảo sát yếu tố nguy cơ bệnh mạch vành. Luận văn thạc sỹ y khoa. Trường đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. mô hình bệnh tật của người cao tuổi điều trị tại Viện Lão khoa Quốc gia năm 2008 Lê Văn Tuấn, Nguyễn Hải Hằng, Trường Cao đẳng Y tế Hà Nội Phạm Thắng - Viện lão khoa Quốc gia đặt vấn đề Theo định nghĩa của Liên hiệp quốc, những người có độ tuổi từ 60 trở lên được xác định là người cao tuổi. Năm 2002, có gần 400 triệu người từ 60 tuổi trở lên sống ở các nước đang phát triển và hơn một nửa số người cao tuổi của thế giới hiên sống ở Châu á [11]. Hiện nay, số người cao tuổi trên thế giới là khoảng 580 triệu người và đến năm 2025 sẽ tăng lên khoảng 2 tỷ người cao tuổi (NCT). Tốc độ dân số già tăng lên nhanh chóng là do tuổi thọ trung bình tăng, giảm tỷ lệ sinh cũng như giảm tỷ lệ tử vong [11],[13]. Xu hướng già hoá dân số kéo theo đó là vấn đề chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho một số lượng đông đảo NCT trong cộng đồng đang là một thách thức lớn đối với toàn nhân loại trong thế kỷ 21. Tương lai của mỗi quốc gia và toàn nhân loại đang gắn liền với sức khoẻ của những NCT [4]. Việt Nam là một nước đang phát triển, mặc dù hiện tại cấu trúc dân số vẫn thuộc loại trẻ, song số người cao tuổi đang có xu hướng tăng nhanh. Tỷ lệ NCT năm 1989 là 7,2% và năm 2003 là 8,65%. Theo dự báo, Việt Nam sẽ chính thức trở thành quốc gia có dân số già vào năm 2014 [4]. NCT Việt Nam là lớp người đã có những đóng góp to lớn trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước và có bề dày kinh nghiệm, chiều sâu trí tuệ. Chăm sóc đời sống vật chất tinh thần và chăm sóc sức khoẻ cho NCT là nghĩa vụ và trách nhiệm của toàn xã hội. Do các đặc điểm về sinh lý, người cao tuổi là đối tượng dễ bị mắc bệnh và có nhiều vấn đề sức khoẻ hơn so với các lứa tuổi khác. Tình hình bệnh tật của người dân nói chung và của NCT nói riêng phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện môi trường, kinh tế, văn hoá- xã hội, chính trị, tập quán,... Nó khác nhau theo từng giai đoạn lịch sử của mỗi nước. Việc xác định mô hình bệnh tật tại một nơi cụ thể, tại một thời điểm cụ thể, sẽ là cơ sở khoa học giúp cho công tác phòng bệnh, xây dựng kế hoạch cấp cứu và điều trị để giúp hạ thấp tối đa tần suất mắc bệnh. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có một nghiên cứu hệ thống về mô hình cơ cấu bệnh tật của người cao tuổi theo phân loại bệnh quốc tế ICD10 tại cộng đồng nói chung và các bệnh viện nói riêng. Đây chính là lý do mà chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Mô hình bệnh tật của người cao tuổi điều trị tại Viện Lão khoa Quốc gia năm 2008”, với mục tiêu: Mô tả mô hình bệnh tật của người cao tuổi điều trị tại Viện Lão khoa Quốc gia năm 2008. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 1. Đối tượng nghiên cứu. Hồ sơ bệnh án của bệnh nhân từ 60 tuổi trở lên vào điều trị tại Viện Lão khoa Quốc gia từ tháng 1/2008 đến 12/2008. 2. Thời gian nghiên cứu. Từ tháng 9/2008 đến tháng 4/2009. 3. Phương pháp nghiên cứu. 3.1. Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. 3.2. Cỡ mẫu: Toàn bộ bệnh án của bệnh nhân là người cao tuổi từ 60 tuổi trở lên vào điều trị tại Viện Lão khoa Quốc gia từ 1/2008 đến 12/2008. 3.3. Cách chọn mẫu: Chọn toàn bộ bệnh án của bệnh nhân điều trị tại Viện Lão khoa Quốc Gia năm 2008 được phân loại bệnh tật theo Bảng phân loại quốc tế bệnh tật lần thứ 10 (ICD-10). 3.4. Phương pháp thu thập số liệu: Hồi cứu số liệu trên hồ sơ bệnh án. 3.5. Công cụ thu thập số liệu: Biểu mẫu thu thập số liệu đã thống nhất 4. Các biến nghiên cứu. + Thông tin chung về người bệnh: tuổi, giới, nghề nghiệp, khu vực sống. y học thực hành (666) - số 6/2009 42 + Kết quả chẩn đoán của bệnh viện về bệnh chính của bệnh nhân. + Tỷ lệ các bệnh, nhóm bệnh xếp theo phân loại quốc tế ICD10. 5. Phương pháp khống chế sai số. Biểu mẫu thu thập số liệu được sự cố vấn của Viện Lão khoa Quốc gia và sự thống nhất của nhóm nghiên cứu. 6. Đạo đức nghiên cứu. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào kế hoạch phòng chống bệnh tật cho người cao tuổi trong tương lai. Ngoài mục tiêu trên, đề tài không làm gì ảnh hưởng tới sức khoẻ và lợi ích của cộng đồng. 7. Phương pháp xử lý số liệu. Các số liệu nghiên cứu được xử lý bằng phần mềm SPSS 10.0. Kết quả nghiên cứu 1. Thông tin chung về bệnh nhân. Tỷ lệ bệnh nhân theo giới tính và nhóm tuổi: Tỷ lệ bệnh nhân nữ (53,9%) vào điều trị tại Viện cao hơn so với tỷ lệ bệnh nhân nam (46,1%). Nhóm tuổi từ 85-89 số lượng bệnh nhân nữ cao gấp 1,5 lần so với số lượng bệnh nhân nam, (p<0,05, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê). Nhóm tuổi từ 90 tuổi trở lên số lượng bệnh nhân nữ cao gấp 2,1 lần số lượng bệnh nhân nam, (p<0,001, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê). Các nhóm tuổi còn lại đều có số bệnh nhân nữ cao hơn số bệnh nhân nam nhưng p>0,05, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ bệnh nhân theo nơi sống Bệnh nhân sống ở Hà Nội chiếm tỷ lệ cao nhất (55,1%), bệnh nhân sống ở Hà Tây chiếm 5,4%, Hưng Yên là 4,9%, còn lại bệnh nhân sống ở các tỉnh, thành phố khác chiếm tỷ lệ thấp hơn. Có 62,4% bệnh nhân sống ở thành thị, có 37,6% bệnh nhân sống ở nông thôn. Bệnh nhân điều trị tại Viện năm 2008 sống ở thành thị nhiều hơn ở nông thôn. 2. Mô hình bệnh tật (theo ICD -10). 2.1. Mô hình bệnh tật xếp theo các chương bệnh Bảng 1. Mô hình bệnh tật xếp theo các chương bệnh: Chương Nhóm bệnh SL % IX Bệnh hệ tuần hoàn (I00 – I99) 1090 36,9 X Hệ hô hấp (J00 – J99) 482 16,3 IV Nội tiết, dinh dưỡng và chuyển hóa (E00 – E90) 201 6,8 II Khối u (C00 – D48) 188 6,4 XIV Hệ sinh dục và tiết niệu (N00 – N99) 188 6,4 VI Hệ thần kinh (G00 – G99) 177 6 XIII Hệ cơ xương khớp và mô liên kết (M00 – M99) 174 5,9 XI Hệ tiêu hoá (K00 – K93) 168 5,7 V Rối loạn tâm thần và hành vi (F00 – F99) 74 2,5 VIII Bệnh tai và xương chũm (H60 – H95) 66 2,2 I Nhiễm trùng và ký sinh trùng (A00 – B99) 55 1,8 III Bệnh của máu, cơ quan tạo máu và các rối loạn liên quan đến cơ chế miễn dịch (D50 – D89) 44 1,5 XVIII Các triệu chứng, dấu hiệu và những biểu hiện lâm sàng và cận lâm sàng bất thường, không phân loại ở phần khác (R00 – R99) 19 0,6 XIX Chấn thương, ngộ độc và một số hậu quả khác do nguyên nhân bên ngoài (S00 – T98) 15 0,5 VII Bệnh về mắt (H00 – H59) 3 0,1 XII Da và mô dưới da (L00 – L99) 3 0,1 XVI Bệnh chu sinh (P00 – P96) 1 0,0 XV Thai nghén, sinh đẻ và hậu sản (O00 – O99) 0 0,0 XVII Dị tật bẩm sinh, biến dạng và bất thường nhiễm sắc thể (Q00 – Q99) 0 0,0 XX Nguyên nhân ngoại sinh của bệnh tật và tử vong (V01 – Y98) 0 0,0 XXI Các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe và tiếp xúc dịch vụ y tế (Z00 – Z99) 0 0,0 Không có mã bệnh 5 0,2 Tổng cộng 2953 100 Nhận xét: Nhóm bệnh tuần hoàn có tỷ lệ cao nhất (36,9%), tiếp theo là nhóm bệnh hô hấp (16,3%), nhóm bệnh nội tiết chuyển hoá (6,8%), nhóm bệnh chu sinh có tỷ lệ thấp nhất (1/2953). 2.2. Các bệnh phổ biến nhất trong 21 chương bệnh Bảng 2. Tỷ lệ 10 bệnh bệnh phổ biến nhất: STT Tên bệnh SL % 1 Bệnh tai biến mạch máu não 647 21,9 2 Viêm phổi 231 7,8 3 Tăng huyết áp 226 7,7 4 Đái tháo đường týp II 156 5,3 5 Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính 122 4,1 6 Suy tim 72 2,4 7 Bệnh Parkinson 63 2,1 8 Hội chứng tiền đình 58 2,0 9 Loãng xương 57 1,9 10 Viêm phế quản cấp 49 1,7 Nhận xét: Bệnh tai biến mạch máu não là bệnh có tỷ lệ bệnh nhân mắc cao nhất (21,9%), tỷ lệ bệnh nhân bị bệnh viêm phổi là 7,8%, tỷ lệ bệnh nhân bị bệnh tăng huyết áp là 7,7%, tỷ lệ bệnh nhân đái tháo đường týp II là 5,3%. Còn lại các bệnh khác có tỷ lệ bệnh nhân bị bệnh thấp hơn, trong đó, bệnh viêm phế quản cấp chiếm tỷ lệ thấp nhất trong 10 bệnh bệnh kể trên (1,7%). Sự phân bố giới tính theo các chương bệnh: Chương IV, chương XIII, chương VIII có tỷ lệ bệnh nhân nữ cao hơn bệnh nhân nam lần lượt là (1,9 lần; 1,9 lần; 2,4 lần). Chương X, chương II, chương XIV có tỷ lệ bệnh nhân nam cao hơn tỷ lệ bệnh nhân nữ, riêng chương XIV tỷ lệ bệnh nhân nam cao hơn 1,8 lần tỷ lệ bệnh nhân nữ . Cả 6 chương kể trên đều có p<0,05 sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Các chương còn lại đều có sự khác biệt về tỷ lệ bệnh nhân nam và bệnh nhân nữ nhưng đều có p>0,05, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Bàn luận 1. Về một số đặc điểm chung của bệnh nhân. Tỷ lệ bệnh nhân nữ vào điều trị tại Viện Lão khoa Quốc gia năm 2008 cao hơn so với tỷ lệ bệnh nhân nam. Bên cạnh đó, theo bảng 3.11. chúng tôi nhận thấy, ở hầu hết các chương bệnh đều có số bệnh nhân nam thấp hơn số bệnh nhân nữ. Theo bác sỹ Ngô Văn Quỹ, thì các cụ bà có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn các cụ ông. Nhưng đi vào cụ thể từng bệnh thì có bệnh tỷ lệ ngang nhau, cũng y học thực hành (666) - số 6/2009 43 có bệnh các cụ ông mắc nhiều hơn các cụ bà hay ngược lại [15]. Bên cạnh đó, qua nghiên cứu chúng tôi nhận thấy, nhóm tuổi từ 85-89 số lượng bệnh nhân nữ cao gấp 1,5 lần so với số lượng bệnh nhân nam, nhóm tuổi từ 90 tuổi trở lên số lượng bệnh nhân nữ cao gấp 2,1 lần số lượng bệnh nhân nam Phải chăng, tuổi thọ trung bình của nữ cao hơn so với của nam. Nhóm tuổi 70- 79 chiếm gần một nửa số lượng bệnh nhân vào điều trị tại Viện (44,4%). Theo quy luật tự nhiên, khi tuổi càng cao, khả năng miễn dịch và sức đề kháng của con người ngày càng suy giảm, do đó ốm đau bệnh tật càng nhiều. Do vậy tuổi càng cao càng dễ mắc nhiều bệnh tật. Chính vì thế số lượng bệnh nhân vào điều trị tại Viện Lão khoa Quốc gia năm 2008 thuộc nhóm tuổi từ 70 -79 tuổi có tỷ lệ cao nhất là điều dễ hiểu. Còn nhóm tuổi từ 85 đến trên 90 có số lượng bệnh nhân ít hơn so với các nhóm tuổi khác. Theo báo cáo “Dân số thế giới 2006” (2006 WP) do Cục Tham chiếu dân số Mỹ (PRB) vừa công bố thì thấy tuổi thọ trung bình của người dân Việt Nam đạt 72 năm. Phải chăng do tuổi thọ trung bình của người Việt Nam là 72 tuổi nên ở nhóm tuổi từ 85 đến trên 90 có ít bệnh nhân hơn so với các nhóm khác tuổi trẻ hơn. Để lý giải cụ thể hơn những vấn đề trên cần tiến hành những nghiên cứu sâu hơn. Bệnh nhân vào điều trị tại Viện năm 2008 sống ở Hà Nội chiếm tỷ lệ cao nhất (55,1%). Tỷ lệ bệnh nhân sống ở thành thị cao hơn so với bệnh nhân sống ở nông thôn trong tất cả các chương bệnh. Phải chăng, do người thành thị có điều kiện kinh tế hơn nên có thể tham gia vào các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ nhiều hơn và cũng có thể do người thành thị biết được thông tin về Viện Lão khoa Quốc gia nhiều hơn so với người dân sống ở nông thôn đã dẫn đến tỷ lệ bệnh nhân ở thành thị cao hơn so với bệnh nhân sống ở nông thôn. 2. Mô hình bệnh tật (theo ICD -10). 2.1. Mô hình bệnh tật xếp theo 21 chương bệnh Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy ở NCT nhóm bệnh hệ tuần hoàn chiếm tỷ lệ cao nhất (36,9%). Theo thống kê của Bộ Y tế, những năm gần đây các bệnh hệ hô hấp chiếm tỷ lệ cao nhất trong các nhóm bệnh [3], [4]. Bên cạnh đó, bệnh về tuần hoàn là mối quan tâm của các nước đang phát triển như Việt Nam. Cùng với sự cải thiện kinh tế, tỷ lệ mắc các bệnh có mức sống cao như tim mạch, huyết áp cũng tăng lên đáng kể trong thời gian qua. áp lực công việc thời hội nhập cùng thói quen của địa phương như ăn mặn, hút thuốc và sự phối hợp các yếu tố nguy cơ như tăng cân, béo phì đã làm gia tăng tỷ lệ các bệnh về huyết áp, tim mạch. Số bệnh nhân tăng huyết áp, tim mạch ngày càng gia tăng ở người lớn tuổi. Ngoài ra, các nhóm bệnh chiếm tỷ lệ trung bình gồm: nhóm bệnh nội tiết chuyển hoá (6,8%), nhóm bệnh hệ sinh dục và tiết niệu (6,4%), nhóm bệnh khối u (6,4%), nhóm bệnh hệ thần kinh (6%), nhóm bệnh cơ xương khớp có tỷ lệ 5,9%, nhóm bệnh hệ tiêu hoá có tỷ lệ 5,7%. Đây là những nhóm bệnh hay gặp ở NCT [18] . Đặc biệt nhóm bệnh về nội tiết, nhóm bệnh về khối u, nhóm bệnh hệ thần kinh sẽ ngày càng có xu hướng gia tăng khi mà kinh tế phát triển. ở các nước phát triển, cùng với bệnh lý tim mạch thì ung thư và nội tiết là những bệnh lý chiếm tỷ lệ tử vong cao [20]. Các nhóm: bệnh về mắt; bệnh da và mô dưới da; các triệu chứng, dấu hiệu và những biểu hiện lâm sàng và cận lâm sàng bất thường, không phân loại ở phần khác; chấn thương, ngộ độc và một số hậu quả khác do nguyên nhân bên ngoài; bệnh chu sinh có tỷ lệ bệnh nhân rất thấp. Phải chăng đây là những nhóm bệnh rất ít gặp ở NCT. 2.2. Các bệnh phổ biến nhất trong 21 chương bệnh Tai biến mạch máu não thường gặp nhất vào những năm giữa và cuối cuộc đời. Mỗi năm trên thế giới có khoảng 15 triệu bệnh nhân bị bệnh này. Tai biến mạch máu não chia làm hai loại là nhồi máu não và xuất huyết (xuất huyết não, màng não). Theo thống kê của WHO, nhồi máu não chiếm khoảng 85 - 90% tai biến mạch máu não ở các nước phương Tây, trong khi xuất huyết não chỉ chiếm 10-15%. ở Châu á có tỷ lệ bệnh nhân xuất huyết não lớn hơn [19]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy nhồi máu não ở NCT chiếm tỷ lệ 82,7% (535/647), xuất huyết chiếm tỷ lệ 15,1% (98/647), tai biến mạch máu não không xác định do xuất huyết hay nhồi máu não 2,2% (14/647). Bên cạnh đó, theo nghiên cứu hồ sơ bệnh án, nhóm tuổi từ 70 -84 tuổi chiếm 61,6% số lượng bệnh nhân vào điều trị và bệnh tai biến mạch máu não có tỷ lệ cao nhất chiếm 21,9% trong số 10 bệnh phổ biến nhất của Viện năm 2008. Thực tế cho thấy việc tự chăm sóc bản thân người cao tuổi là rất khó khăn, thậm chí không có khả năng tự chăm sóc bản thân. Đối với bệnh nhân tai biến mạch máu não thì càng gặp nhiều khó khăn hơn do vậy việc tăng cường công tác chăm sóc bệnh nhân của y tá và hộ lý là điều hết sức cần thiết. Trong nghiên cứu của chúng tôi, bệnh viêm phổi là bệnh phổ biến thứ hai. Viêm phổi là bệnh dễ mắc ở NCT là do NCT thường mắc các bệnh như tim mạch, tiểu đường, suy thận, ung thư và vì cơ thể già nên suy nhược và mắc các bệnh mạn tính. Một nguyên nhân nữa khiến NCT dễ mắc viêm phổi là sự lão hóa của hệ thống bảo vệ miễn dịch chung và bộ máy hô hấp dẫn đến suy giảm sức chống đỡ trước sự tấn công của các loại vi khuẩn. Các bệnh mạn tính toàn thân hoặc các bệnh của đường hô hấp cũng tạo điều kiện dễ dàng cho vi khuẩn xâm nhập vào phổi [22]. Bệnh tăng huyết áp là bệnh phổ biến thứ 3 (chiếm 7,7%). Như chúng ta đã biết tăng huyết áp là bệnh mang tính toàn cầu đã được thế giới công nhận, theo thống kê khoảng 20% NCT ở nước ta mắc bệnh tăng huyết áp. Theo WHO quá nửa số người già trên 70 tuổi bị cao huyết áp [10]. Tỷ lệ này có sự khác biệt với nghiên cứu của chúng tôi, có thể sự khác biệt này là do trong khuôn khổ nghiên cứu này, chúng tôi chỉ y học thực hành (666) - số 6/2009 44 nghiên cứu bệnh chính của bệnh nhân vào điều trị tại Viện chưa nghiên cứu về những bệnh phụ của bệnh nhân. Bên cạnh đó, theo TS. Lương Chí Thành, trung bình một NCT có khoảng gần 3 bệnh [17]. Ngoài ra, NCT đến Viện điều trị chưa có sự phân bố đồng đều ở các vùng miền, chủ yếu là NCT đến từ các tỉnh miền Bắc, số NCT ở các tỉnh miền Trung và miền Nam còn rất ít. Phải chăng vì những lý do trên đã dẫn đến sự khác biệt về kết quả nghiên cứu của chúng tôi so với thống kê của WHO. Để có thể trả lời chính xác hơn thì rất cần những nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này. Tiếp theo bệnh đái tháo đường týp II cũng chiếm tỷ lệ đáng kể. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi hoàn toàn phù hợp với thống kê của WHO. Theo WHO tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường đang gia tăng nhanh chóng và ước tính con số này sẽ gấp đôi trước năm 2030. Trong đó đái tháo đường týp II chiếm 90% số trường hợp mắc đái tháo đường. Tuổi trung bình của bệnh nhân đái tháo đường týp II vào khoảng 60- 65 tuổi. Tỷ lệ bệnh bắt đầu gia tăng nhanh ở nhóm người > 45 tuổi; trên 65 tuổi: tỷ lệ mắc bệnh có thể tới 16% dân số chung. Gần một nửa số người mắc đái tháo đường thuộc nhóm người trên 65 tuổi. Theo thống kê của WHO: ở người trên 70 tuổi tỷ lệ mắc đái tháo đường cao gấp 3 đến 4 lần so với tỷ lệ mắc đái tháo đường chung ở người lớn [11]. Ngoài ra, theo nghiên cứu của chúng tôi, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính có tỷ lệ bệnh nhân là 4,1%. Như chúng ta đã biết, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính thường gặp ở tuổi trung niên, hiện nay bệnh này đang là gánh nặng toàn cầu bởi tỷ lệ mắc và tử vong cao, lại đang có xu hướng gia tăng. Tỷ lệ mắc và tử vong của bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính khác nhau ở các nước khác nhau. Mỹ, 1993 có 16 triệu người mắc bệnh chiếm 4%-5% dân số. Vương Quốc Anh 1997 có 3,4 triệu người mắc chiếm 6,4 % dân số. Hiện nay tỷ lệ mắc bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính trên toàn cầu là 3,9%, ở Châu á Thái Bình Dương là 6,3%. Nghiên cứu dịch tễ học bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính ở 12 quốc gia và khu vực châu á Thái Bình Dương cho thấy tỷ lệ mắc bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính từ 30 tuổi trở lên ở Hồng Kông và Singapore có tỷ lệ thấp nhất (3,5%), cao nhất ở Việt Nam (6,7%) [16]. Tỷ lệ bệnh phổi tắc nghẽn ở NCT điều trị tại Viện Lão khoa Quốc gia có tỷ lệ thấp hơn so với tỷ lệ bệnh nhân bị bệnh này trên cả nước. Phải chăng, do ở đây là nghiên cứu tại Viện cứ không phải nghiên cứu tại cộng đồng, mặt khác số bệnh nhân đến điều trị tại Viện phân bố chưa đều tại các tỉnh/ thành phố trong cả nước đã dẫn đến sự khác biệt này. Đây là bệnh có số bệnh nhân khá đông và đứng thứ 5 trong số 10 bệnh phổ biến nhất ở NCT, để xem xét chiều hướng tăng hay giảm tỷ lệ mắc bệnh ở NCT có lẽ cần tiến hành những nghiên cứu sâu hơn. Kết luận - Tỷ lệ bệnh nhân vào điều trị tại Viện Lão khoa Quốc gia năm 2008: + Tỷ lệ bệnh nhân nữ chiếm: 53,9%; nam chiếm: 46,1% + Bệnh nhân sống ở thành thị chiếm 62,4%, ở nông thôn chiếm 37,6%. - Tỷ lệ các nhóm bệnh xếp theo 17 chương bệnh theo thứ tự giảm dần: + Các nhóm bệnh chiếm tỷ lệ cao theo thứ tự lần lượt là: Bệnh tuần hoàn có tỷ lệ cao nhất (36,9%); Bệnh hô hấp (16,3%); Bệnh nội tiết chuyển hoá (6,8%); Bệnh hệ sinh dục và tiết niệu (6,4%); Bệnh khối u (6,3%); Bệnh hệ thần kinh (6%); Bệnh cơ xương khớp có tỷ lệ 5,9%; Hệ tiêu hoá có tỷ lệ 5,7%. + Nhóm bệnh có tỷ lệ mắc thấp dưới 1% lần lượt là: Bệnh về mắt (0,1%); Bệnh da và mô dưới da (0,1%); Các triệu chứng, dấu hiệu và những biểu hiện lâm sàng và cận lâm sàng bất thường, không phân loại ở phần khác (0,6%); Chấn thương, ngộ độc và một số hậu quả khác do nguyên nhân bên ngoài (0,5%); Bệnh chu sinh chỉ có một trường hợp bệnh nhân. - Các bệnh phổ biến nhất trong 17 chương bệnh ở NCT điều trị tại Viện: + Tai biến mạch máu não chiếm cao nhất: 21,9%; tiếp theo là viêm phổi là 7,8%; tăng huyết áp: 7,7%, đái tháo đường týp II: 5,3%; Các bệnh khác có tỷ lệ thấp hơn; Parkinson và viêm phế quản cấp thấp nhất chỉ có 1,7%. Kiến nghị - Viện Lão khoa Quốc gia tăng cường hơn nữa công tác chỉ đạo tuyến đối với các Bệnh viện tuyến tỉnh/ thành phố khám và điều trị bệnh nhân là nguời cao tuổi. - Viện cần tăng cường công tác chăm sóc bệnh nhân của y tá, hộ lý cùng phối hợp với người nhà bệnh nhân để chăm sóc bệnh nhân cao tuổi. - Tăng cường cán bộ y tế và trang thiết bị phù hợp với công tác chữa bệnh, hồi sức cấp cứu kịp thời cho bệnh nhân. Tài liệu tham khảo 1. ủy ban thường vụ Quốc hội (2000), Pháp lệnh NCT ở Việt Nam số 23/2000/PL-UBTVQH. 2. Bộ Y tế (2004), Hướng dẫn thực hiện công tác chăm sóc sức khỏe cho NCT, Thông tư số 02/2004/TT- BYT. 3. Bộ Y tế (2004), Thống kê Y tế năm 2004, Mô hình bệnh tật tử vong, Webside: 4. Bộ Y tế (2006), Thống kê Y tế năm 2006, Mô hình bệnh tật tử vong, Webside: 5. Bộ Y tế (2005), Điều tra tình hình chấn thương và các yếu tố ảnh hưởng ở trẻ em dưới 18 tuổi tại các hộ gia đình thuộc 6 tỉnh dự án (2005), Webside, 6. WHO (2006), Tăng cường hoạt động để giảm tỷ lệ tử vong trên toàn cầu, Webside, 7. Thông tấn xã Việt Nam (2008), WHO công bố về tình hình bệnh tật trên thế giới, Tạp chí Cộng sản số 20, năm 2008, Webside: 8. Đàm Viết Cường và cs, 2006, “Đánh giá tình hình chăm sóc sức khoẻ cho NCT ở Việt Nam”, Webside: 9. Bùi Khắc Hậu (2009), “Người cao tuổi thường mắc những bệnh gì”, Webside,
File đính kèm:
mo_hinh_benh_tat_cua_nguoi_cao_tuoi_dieu_tri_tai_vien_lao_kh.pdf