Mô hình bệnh tật của người cao tuổi điều trị tại Viện Lão khoa Quốc gia năm 2008

đặt vấn đề

Theo định nghĩa của Liên hiệp quốc, những ngời có

độ tuổi từ 60 trở lên đợc xác định là ngời cao tuổi.

Năm 2002, có gần 400 triệu ngời từ 60 tuổi trở lên sống

ở các nớc đang phát triển và hơn một nửa số ngời cao

tuổi của thế giới hiên sống ở Châu á [11]. Hiện nay, số

ngời cao tuổi trên thế giới là khoảng 580 triệu ngời và

đến năm 2025 sẽ tăng lên khoảng 2 tỷ ngời cao tuổi

(NCT). Tốc độ dân số già tăng lên nhanh chóng là do

tuổi thọ trung bình tăng, giảm tỷ lệ sinh cũng nh giảm

tỷ lệ tử vong [11],[13]. Xu hớng già hoá dân số kéo theo

đó là vấn đề chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho một số

lợng đông đảo NCT trong cộng đồng đang là một thách

thức lớn đối với toàn nhân loại trong thế kỷ 21. Tơng lai

của mỗi quốc gia và toàn nhân loại đang gắn liền với sức

khoẻ của những NCT [4].

 

pdf 4 trang phuongnguyen 340
Bạn đang xem tài liệu "Mô hình bệnh tật của người cao tuổi điều trị tại Viện Lão khoa Quốc gia năm 2008", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mô hình bệnh tật của người cao tuổi điều trị tại Viện Lão khoa Quốc gia năm 2008

Mô hình bệnh tật của người cao tuổi điều trị tại Viện Lão khoa Quốc gia năm 2008
y học thực hành (666) - số 6/2009 
41
TàI LIệU THAM KHảO 
1. Trương Quang Bình, Đặng Vạn Phước (2001), 
“Khảo sát các yếu tố nguy cơ của 272 bệnh nhân bệnh 
động mạch vành tại bệnh viện Chợ Rẫy”, Y Dược học 
TP. Hồ Chí Minh, Tập 5. 
2. Nguyễn Thị Ngọc Dung (1997), Khảo sát những 
yếu tố nguy cơ ở bệnh nhân bệnh động mạch vành. Tóm 
tắt báo cáo khoa học của hội nghị khoa học chuyên 
ngành tim mạch khu vực phía Nam 
3. Trần Thị Mỹ Liên, Rối loạn Lipid máu và bệnh 
động mạch vành ở người có tuổi tại bệnh viện Thống 
nhất. Luận văn thạc sỹ y khoa. Trường đại học Y Dược 
TP. Hồ Chí Minh 
4. Nguyễn Mạnh Phan, Võ Quảng, Hồ Thượng Dũng, 
Trương Quang Nhơn và cộng sự (2001), Bước đầu nhận 
xét 55 trường hợp chụp mạch vành – can thiệp mạch 
vành tại bệnh viện Thống Nhất, Kỷ yếu công trình nghiên 
cứu khoa học. 
5. Võ Quảng và cộng sự (2000), Bệnh động mạch 
vành tại Việt Nam, Đề tài cấp Bộ. Kỷ yếu toàn văn các 
đề tài nghiên cứu khoa học đại hội tim mạch học quốc 
gia Việt Nam lần thứ 8. 
6. Võ Quảng và cộng sự (2004 ), Sơ bộ đánh giá mối 
liên quan giữa tổn thương động mạch vành và 4 yếu tố 
nguy cơ bệnh vành : Tăng huyết áp, Tiểu đường, rối loạn 
lipid máu và thuốc lá. 
7. Phạm Nguyễn Vinh (2001), Yếu tố nguy cơ của 
bệnh động mạch vành. Kỷ yếu báo cáo khoa học của hội 
nghị tim mạch học Đức-Việt tại TP. Hồ Chí Minh 
8. Huỳnh Thị Kiều Xuân (2000), Khảo sát yếu tố 
nguy cơ bệnh mạch vành. Luận văn thạc sỹ y khoa. 
Trường đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. 
mô hình bệnh tật của người cao tuổi 
điều trị tại Viện Lão khoa Quốc gia năm 2008 
Lê Văn Tuấn, Nguyễn Hải Hằng, 
Trường Cao đẳng Y tế Hà Nội 
Phạm Thắng - Viện lão khoa Quốc gia 
đặt vấn đề 
Theo định nghĩa của Liên hiệp quốc, những người có 
độ tuổi từ 60 trở lên được xác định là người cao tuổi. 
Năm 2002, có gần 400 triệu người từ 60 tuổi trở lên sống 
ở các nước đang phát triển và hơn một nửa số người cao 
tuổi của thế giới hiên sống ở Châu á [11]. Hiện nay, số 
người cao tuổi trên thế giới là khoảng 580 triệu người và 
đến năm 2025 sẽ tăng lên khoảng 2 tỷ người cao tuổi 
(NCT). Tốc độ dân số già tăng lên nhanh chóng là do 
tuổi thọ trung bình tăng, giảm tỷ lệ sinh cũng như giảm 
tỷ lệ tử vong [11],[13]. Xu hướng già hoá dân số kéo theo 
đó là vấn đề chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho một số 
lượng đông đảo NCT trong cộng đồng đang là một thách 
thức lớn đối với toàn nhân loại trong thế kỷ 21. Tương lai 
của mỗi quốc gia và toàn nhân loại đang gắn liền với sức 
khoẻ của những NCT [4]. 
Việt Nam là một nước đang phát triển, mặc dù hiện 
tại cấu trúc dân số vẫn thuộc loại trẻ, song số người cao 
tuổi đang có xu hướng tăng nhanh. Tỷ lệ NCT năm 1989 
là 7,2% và năm 2003 là 8,65%. Theo dự báo, Việt Nam 
sẽ chính thức trở thành quốc gia có dân số già vào năm 
2014 [4]. NCT Việt Nam là lớp người đã có những đóng 
góp to lớn trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước và có 
bề dày kinh nghiệm, chiều sâu trí tuệ. Chăm sóc đời 
sống vật chất tinh thần và chăm sóc sức khoẻ cho NCT 
là nghĩa vụ và trách nhiệm của toàn xã hội. Do các đặc 
điểm về sinh lý, người cao tuổi là đối tượng dễ bị mắc 
bệnh và có nhiều vấn đề sức khoẻ hơn so với các lứa 
tuổi khác. Tình hình bệnh tật của người dân nói chung và 
của NCT nói riêng phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện môi 
trường, kinh tế, văn hoá- xã hội, chính trị, tập quán,... Nó 
khác nhau theo từng giai đoạn lịch sử của mỗi nước. 
Việc xác định mô hình bệnh tật tại một nơi cụ thể, tại một 
thời điểm cụ thể, sẽ là cơ sở khoa học giúp cho công tác 
phòng bệnh, xây dựng kế hoạch cấp cứu và điều trị để 
giúp hạ thấp tối đa tần suất mắc bệnh. Tuy nhiên, cho 
đến nay, chưa có một nghiên cứu hệ thống về mô hình 
cơ cấu bệnh tật của người cao tuổi theo phân loại bệnh 
quốc tế ICD10 tại cộng đồng nói chung và các bệnh viện 
nói riêng. Đây chính là lý do mà chúng tôi tiến hành 
nghiên cứu đề tài: “Mô hình bệnh tật của người cao tuổi 
điều trị tại Viện Lão khoa Quốc gia năm 2008”, với mục 
tiêu: 
Mô tả mô hình bệnh tật của người cao tuổi điều trị tại 
Viện Lão khoa Quốc gia năm 2008. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 
1. Đối tượng nghiên cứu. 
Hồ sơ bệnh án của bệnh nhân từ 60 tuổi trở lên vào 
điều trị tại Viện Lão khoa Quốc gia từ tháng 1/2008 đến 
12/2008. 
2. Thời gian nghiên cứu. 
Từ tháng 9/2008 đến tháng 4/2009. 
3. Phương pháp nghiên cứu. 
3.1. Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. 
3.2. Cỡ mẫu: Toàn bộ bệnh án của bệnh nhân là 
người cao tuổi từ 60 tuổi trở lên vào điều trị tại Viện Lão 
khoa Quốc gia từ 1/2008 đến 12/2008. 
3.3. Cách chọn mẫu: Chọn toàn bộ bệnh án của 
bệnh nhân điều trị tại Viện Lão khoa Quốc Gia năm 
2008 được phân loại bệnh tật theo Bảng phân loại quốc 
tế bệnh tật lần thứ 10 (ICD-10). 
3.4. Phương pháp thu thập số liệu: Hồi cứu số liệu 
trên hồ sơ bệnh án. 
3.5. Công cụ thu thập số liệu: Biểu mẫu thu thập 
số liệu đã thống nhất 
4. Các biến nghiên cứu. 
+ Thông tin chung về người bệnh: tuổi, giới, nghề 
nghiệp, khu vực sống. 
 y học thực hành (666) - số 6/2009 
42 
 + Kết quả chẩn đoán của bệnh viện về bệnh chính 
của bệnh nhân. 
+ Tỷ lệ các bệnh, nhóm bệnh xếp theo phân loại 
quốc tế ICD10. 
5. Phương pháp khống chế sai số. 
Biểu mẫu thu thập số liệu được sự cố vấn của Viện Lão 
khoa Quốc gia và sự thống nhất của nhóm nghiên cứu. 
6. Đạo đức nghiên cứu. 
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là mong muốn đóng 
góp một phần nhỏ vào kế hoạch phòng chống bệnh tật 
cho người cao tuổi trong tương lai. Ngoài mục tiêu trên, 
đề tài không làm gì ảnh hưởng tới sức khoẻ và lợi ích 
của cộng đồng. 
7. Phương pháp xử lý số liệu. 
Các số liệu nghiên cứu được xử lý bằng phần mềm 
SPSS 10.0. 
Kết quả nghiên cứu 
1. Thông tin chung về bệnh nhân. 
Tỷ lệ bệnh nhân theo giới tính và nhóm tuổi: 
Tỷ lệ bệnh nhân nữ (53,9%) vào điều trị tại Viện cao 
hơn so với tỷ lệ bệnh nhân nam (46,1%). Nhóm tuổi từ 
85-89 số lượng bệnh nhân nữ cao gấp 1,5 lần so với số 
lượng bệnh nhân nam, (p<0,05, sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê). Nhóm tuổi từ 90 tuổi trở lên số lượng bệnh 
nhân nữ cao gấp 2,1 lần số lượng bệnh nhân nam, 
(p<0,001, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê). Các nhóm 
tuổi còn lại đều có số bệnh nhân nữ cao hơn số bệnh 
nhân nam nhưng p>0,05, sự khác biệt không có ý nghĩa 
thống kê. 
Tỷ lệ bệnh nhân theo nơi sống 
Bệnh nhân sống ở Hà Nội chiếm tỷ lệ cao nhất 
(55,1%), bệnh nhân sống ở Hà Tây chiếm 5,4%, Hưng 
Yên là 4,9%, còn lại bệnh nhân sống ở các tỉnh, thành 
phố khác chiếm tỷ lệ thấp hơn. Có 62,4% bệnh nhân 
sống ở thành thị, có 37,6% bệnh nhân sống ở nông thôn. 
Bệnh nhân điều trị tại Viện năm 2008 sống ở thành thị 
nhiều hơn ở nông thôn. 
2. Mô hình bệnh tật (theo ICD -10). 
2.1. Mô hình bệnh tật xếp theo các chương bệnh 
Bảng 1. Mô hình bệnh tật xếp theo các chương bệnh: 
Chương Nhóm bệnh SL % 
IX Bệnh hệ tuần hoàn (I00 – I99) 1090 36,9 
X Hệ hô hấp (J00 – J99) 482 16,3 
IV Nội tiết, dinh dưỡng và chuyển hóa (E00 
– E90) 
201 6,8 
II Khối u (C00 – D48) 188 6,4 
XIV Hệ sinh dục và tiết niệu (N00 – N99) 188 6,4 
VI Hệ thần kinh (G00 – G99) 177 6 
XIII Hệ cơ xương khớp và mô liên kết 
(M00 – M99) 
174 5,9 
XI Hệ tiêu hoá (K00 – K93) 168 5,7 
V Rối loạn tâm thần và hành vi (F00 – F99) 74 2,5 
VIII Bệnh tai và xương chũm (H60 – H95) 66 2,2 
I Nhiễm trùng và ký sinh trùng (A00 – B99) 55 1,8 
III 
Bệnh của máu, cơ quan tạo máu và các 
rối loạn liên quan đến cơ chế miễn dịch 
(D50 – D89) 
44 1,5 
XVIII 
Các triệu chứng, dấu hiệu và những biểu 
hiện lâm sàng và cận lâm sàng bất 
thường, không phân loại ở phần khác 
(R00 – R99) 
19 0,6 
XIX 
Chấn thương, ngộ độc và một số hậu 
quả khác do nguyên nhân bên ngoài 
(S00 – T98) 
15 0,5 
VII Bệnh về mắt (H00 – H59) 3 0,1 
XII Da và mô dưới da (L00 – L99) 3 0,1 
XVI Bệnh chu sinh (P00 – P96) 1 0,0 
XV Thai nghén, sinh đẻ và hậu sản 
(O00 – O99) 
0 0,0 
XVII Dị tật bẩm sinh, biến dạng và bất thường 
nhiễm sắc thể (Q00 – Q99) 
0 0,0 
XX Nguyên nhân ngoại sinh của bệnh tật và 
tử vong (V01 – Y98) 
0 0,0 
XXI Các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe và tiếp xúc dịch vụ y tế (Z00 – Z99) 0 0,0 
 Không có mã bệnh 5 0,2 
Tổng cộng 2953 100 
Nhận xét: Nhóm bệnh tuần hoàn có tỷ lệ cao nhất 
(36,9%), tiếp theo là nhóm bệnh hô hấp (16,3%), nhóm 
bệnh nội tiết chuyển hoá (6,8%), nhóm bệnh chu sinh có 
tỷ lệ thấp nhất (1/2953). 
2.2. Các bệnh phổ biến nhất trong 21 chương 
bệnh 
Bảng 2. Tỷ lệ 10 bệnh bệnh phổ biến nhất: 
STT Tên bệnh SL % 
1 Bệnh tai biến mạch máu não 647 21,9 
2 Viêm phổi 231 7,8 
3 Tăng huyết áp 226 7,7 
4 Đái tháo đường týp II 156 5,3 
5 Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính 122 4,1 
6 Suy tim 72 2,4 
7 Bệnh Parkinson 63 2,1 
8 Hội chứng tiền đình 58 2,0 
9 Loãng xương 57 1,9 
10 Viêm phế quản cấp 49 1,7 
Nhận xét: Bệnh tai biến mạch máu não là bệnh có tỷ 
lệ bệnh nhân mắc cao nhất (21,9%), tỷ lệ bệnh nhân bị 
bệnh viêm phổi là 7,8%, tỷ lệ bệnh nhân bị bệnh tăng 
huyết áp là 7,7%, tỷ lệ bệnh nhân đái tháo đường týp II 
là 5,3%. Còn lại các bệnh khác có tỷ lệ bệnh nhân bị 
bệnh thấp hơn, trong đó, bệnh viêm phế quản cấp chiếm 
tỷ lệ thấp nhất trong 10 bệnh bệnh kể trên (1,7%). 
Sự phân bố giới tính theo các chương bệnh: 
Chương IV, chương XIII, chương VIII có tỷ lệ bệnh 
nhân nữ cao hơn bệnh nhân nam lần lượt là (1,9 lần; 1,9 
lần; 2,4 lần). Chương X, chương II, chương XIV có tỷ lệ 
bệnh nhân nam cao hơn tỷ lệ bệnh nhân nữ, riêng 
chương XIV tỷ lệ bệnh nhân nam cao hơn 1,8 lần tỷ lệ 
bệnh nhân nữ . Cả 6 chương kể trên đều có p<0,05 sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê. 
Các chương còn lại đều có sự khác biệt về tỷ lệ bệnh 
nhân nam và bệnh nhân nữ nhưng đều có p>0,05, sự 
khác biệt không có ý nghĩa thống kê. 
Bàn luận 
1. Về một số đặc điểm chung của bệnh nhân. 
Tỷ lệ bệnh nhân nữ vào điều trị tại Viện Lão khoa 
Quốc gia năm 2008 cao hơn so với tỷ lệ bệnh nhân nam. 
Bên cạnh đó, theo bảng 3.11. chúng tôi nhận thấy, ở hầu 
hết các chương bệnh đều có số bệnh nhân nam thấp 
hơn số bệnh nhân nữ. Theo bác sỹ Ngô Văn Quỹ, thì các 
cụ bà có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn các cụ ông. Nhưng đi 
vào cụ thể từng bệnh thì có bệnh tỷ lệ ngang nhau, cũng 
y học thực hành (666) - số 6/2009 
43
có bệnh các cụ ông mắc nhiều hơn các cụ bà hay 
ngược lại [15]. 
Bên cạnh đó, qua nghiên cứu chúng tôi nhận thấy, 
nhóm tuổi từ 85-89 số lượng bệnh nhân nữ cao gấp 
1,5 lần so với số lượng bệnh nhân nam, nhóm tuổi từ 
90 tuổi trở lên số lượng bệnh nhân nữ cao gấp 2,1 lần 
số lượng bệnh nhân nam Phải chăng, tuổi thọ trung 
bình của nữ cao hơn so với của nam. Nhóm tuổi 70- 
79 chiếm gần một nửa số lượng bệnh nhân vào điều 
trị tại Viện (44,4%). Theo quy luật tự nhiên, khi tuổi 
càng cao, khả năng miễn dịch và sức đề kháng của 
con người ngày càng suy giảm, do đó ốm đau bệnh 
tật càng nhiều. Do vậy tuổi càng cao càng dễ mắc 
nhiều bệnh tật. Chính vì thế số lượng bệnh nhân vào 
điều trị tại Viện Lão khoa Quốc gia năm 2008 thuộc 
nhóm tuổi từ 70 -79 tuổi có tỷ lệ cao nhất là điều dễ 
hiểu. Còn nhóm tuổi từ 85 đến trên 90 có số lượng 
bệnh nhân ít hơn so với các nhóm tuổi khác. Theo 
báo cáo “Dân số thế giới 2006” (2006 WP) do Cục 
Tham chiếu dân số Mỹ (PRB) vừa công bố thì thấy 
tuổi thọ trung bình của người dân Việt Nam đạt 72 
năm. Phải chăng do tuổi thọ trung bình của người Việt 
Nam là 72 tuổi nên ở nhóm tuổi từ 85 đến trên 90 có ít 
bệnh nhân hơn so với các nhóm khác tuổi trẻ hơn. Để 
lý giải cụ thể hơn những vấn đề trên cần tiến hành 
những nghiên cứu sâu hơn. 
Bệnh nhân vào điều trị tại Viện năm 2008 sống ở 
Hà Nội chiếm tỷ lệ cao nhất (55,1%). Tỷ lệ bệnh nhân 
sống ở thành thị cao hơn so với bệnh nhân sống ở 
nông thôn trong tất cả các chương bệnh. Phải chăng, 
do người thành thị có điều kiện kinh tế hơn nên có thể 
tham gia vào các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ nhiều 
hơn và cũng có thể do người thành thị biết được thông 
tin về Viện Lão khoa Quốc gia nhiều hơn so với người 
dân sống ở nông thôn đã dẫn đến tỷ lệ bệnh nhân ở 
thành thị cao hơn so với bệnh nhân sống ở nông thôn. 
2. Mô hình bệnh tật (theo ICD -10). 
2.1. Mô hình bệnh tật xếp theo 21 chương bệnh 
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy ở NCT nhóm 
bệnh hệ tuần hoàn chiếm tỷ lệ cao nhất (36,9%). 
Theo thống kê của Bộ Y tế, những năm gần đây các 
bệnh hệ hô hấp chiếm tỷ lệ cao nhất trong các nhóm 
bệnh [3], [4]. Bên cạnh đó, bệnh về tuần hoàn là mối 
quan tâm của các nước đang phát triển như Việt 
Nam. Cùng với sự cải thiện kinh tế, tỷ lệ mắc các 
bệnh có mức sống cao như tim mạch, huyết áp cũng 
tăng lên đáng kể trong thời gian qua. áp lực công việc 
thời hội nhập cùng thói quen của địa phương như ăn 
mặn, hút thuốc và sự phối hợp các yếu tố nguy cơ 
như tăng cân, béo phì đã làm gia tăng tỷ lệ các bệnh 
về huyết áp, tim mạch. Số bệnh nhân tăng huyết áp, 
tim mạch ngày càng gia tăng ở người lớn tuổi. 
 Ngoài ra, các nhóm bệnh chiếm tỷ lệ trung bình 
gồm: nhóm bệnh nội tiết chuyển hoá (6,8%), nhóm 
bệnh hệ sinh dục và tiết niệu (6,4%), nhóm bệnh khối 
u (6,4%), nhóm bệnh hệ thần kinh (6%), nhóm bệnh 
cơ xương khớp có tỷ lệ 5,9%, nhóm bệnh hệ tiêu hoá 
có tỷ lệ 5,7%. Đây là những nhóm bệnh hay gặp ở 
NCT [18] . Đặc biệt nhóm bệnh về nội tiết, nhóm 
bệnh về khối u, nhóm bệnh hệ thần kinh sẽ ngày 
càng có xu hướng gia tăng khi mà kinh tế phát triển. ở 
các nước phát triển, cùng với bệnh lý tim mạch thì ung 
thư và nội tiết là những bệnh lý chiếm tỷ lệ tử vong 
cao [20]. 
Các nhóm: bệnh về mắt; bệnh da và mô dưới da; 
các triệu chứng, dấu hiệu và những biểu hiện lâm 
sàng và cận lâm sàng bất thường, không phân loại ở 
phần khác; chấn thương, ngộ độc và một số hậu quả 
khác do nguyên nhân bên ngoài; bệnh chu sinh có tỷ 
lệ bệnh nhân rất thấp. Phải chăng đây là những nhóm 
bệnh rất ít gặp ở NCT. 
2.2. Các bệnh phổ biến nhất trong 21 chương 
bệnh 
Tai biến mạch máu não thường gặp nhất vào 
những năm giữa và cuối cuộc đời. Mỗi năm trên thế 
giới có khoảng 15 triệu bệnh nhân bị bệnh này. Tai 
biến mạch máu não chia làm hai loại là nhồi máu não 
và xuất huyết (xuất huyết não, màng não). Theo 
thống kê của WHO, nhồi máu não chiếm khoảng 85 -
90% tai biến mạch máu não ở các nước phương Tây, 
trong khi xuất huyết não chỉ chiếm 10-15%. ở Châu á 
có tỷ lệ bệnh nhân xuất huyết não lớn hơn [19]. Kết 
quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy nhồi máu não 
ở NCT chiếm tỷ lệ 82,7% (535/647), xuất huyết chiếm 
tỷ lệ 15,1% (98/647), tai biến mạch máu não không 
xác định do xuất huyết hay nhồi máu não 2,2% 
(14/647). Bên cạnh đó, theo nghiên cứu hồ sơ bệnh 
án, nhóm tuổi từ 70 -84 tuổi chiếm 61,6% số lượng 
bệnh nhân vào điều trị và bệnh tai biến mạch máu 
não có tỷ lệ cao nhất chiếm 21,9% trong số 10 bệnh 
phổ biến nhất của Viện năm 2008. Thực tế cho thấy 
việc tự chăm sóc bản thân người cao tuổi là rất khó 
khăn, thậm chí không có khả năng tự chăm sóc bản 
thân. Đối với bệnh nhân tai biến mạch máu não thì 
càng gặp nhiều khó khăn hơn do vậy việc tăng cường 
công tác chăm sóc bệnh nhân của y tá và hộ lý là 
điều hết sức cần thiết. 
 Trong nghiên cứu của chúng tôi, bệnh viêm phổi 
là bệnh phổ biến thứ hai. Viêm phổi là bệnh dễ mắc ở 
NCT là do NCT thường mắc các bệnh như tim mạch, 
tiểu đường, suy thận, ung thư và vì cơ thể già nên suy 
nhược và mắc các bệnh mạn tính. Một nguyên nhân 
nữa khiến NCT dễ mắc viêm phổi là sự lão hóa của 
hệ thống bảo vệ miễn dịch chung và bộ máy hô hấp 
dẫn đến suy giảm sức chống đỡ trước sự tấn công 
của các loại vi khuẩn. Các bệnh mạn tính toàn thân 
hoặc các bệnh của đường hô hấp cũng tạo điều kiện 
dễ dàng cho vi khuẩn xâm nhập vào phổi [22]. 
Bệnh tăng huyết áp là bệnh phổ biến thứ 3 (chiếm 
7,7%). Như chúng ta đã biết tăng huyết áp là bệnh 
mang tính toàn cầu đã được thế giới công nhận, theo 
thống kê khoảng 20% NCT ở nước ta mắc bệnh tăng 
huyết áp. Theo WHO quá nửa số người già trên 70 
tuổi bị cao huyết áp [10]. Tỷ lệ này có sự khác biệt với 
nghiên cứu của chúng tôi, có thể sự khác biệt này là 
do trong khuôn khổ nghiên cứu này, chúng tôi chỉ 
 y học thực hành (666) - số 6/2009 
44 
nghiên cứu bệnh chính của bệnh nhân vào điều trị tại 
Viện chưa nghiên cứu về những bệnh phụ của bệnh 
nhân. Bên cạnh đó, theo TS. Lương Chí Thành, trung 
bình một NCT có khoảng gần 3 bệnh [17]. Ngoài ra, 
NCT đến Viện điều trị chưa có sự phân bố đồng đều ở 
các vùng miền, chủ yếu là NCT đến từ các tỉnh miền 
Bắc, số NCT ở các tỉnh miền Trung và miền Nam còn 
rất ít. Phải chăng vì những lý do trên đã dẫn đến sự 
khác biệt về kết quả nghiên cứu của chúng tôi so với 
thống kê của WHO. Để có thể trả lời chính xác hơn thì 
rất cần những nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này. 
Tiếp theo bệnh đái tháo đường týp II cũng chiếm 
tỷ lệ đáng kể. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi hoàn 
toàn phù hợp với thống kê của WHO. Theo WHO tỷ lệ 
mắc bệnh đái tháo đường đang gia tăng nhanh chóng 
và ước tính con số này sẽ gấp đôi trước năm 2030. 
Trong đó đái tháo đường týp II chiếm 90% số trường 
hợp mắc đái tháo đường. Tuổi trung bình của bệnh 
nhân đái tháo đường týp II vào khoảng 60- 65 tuổi. 
Tỷ lệ bệnh bắt đầu gia tăng nhanh ở nhóm người > 45 
tuổi; trên 65 tuổi: tỷ lệ mắc bệnh có thể tới 16% dân 
số chung. Gần một nửa số người mắc đái tháo đường 
thuộc nhóm người trên 65 tuổi. Theo thống kê của 
WHO: ở người trên 70 tuổi tỷ lệ mắc đái tháo đường 
cao gấp 3 đến 4 lần so với tỷ lệ mắc đái tháo đường 
chung ở người lớn [11]. 
Ngoài ra, theo nghiên cứu của chúng tôi, bệnh 
phổi tắc nghẽn mãn tính có tỷ lệ bệnh nhân là 4,1%. 
Như chúng ta đã biết, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính 
thường gặp ở tuổi trung niên, hiện nay bệnh này đang 
là gánh nặng toàn cầu bởi tỷ lệ mắc và tử vong cao, 
lại đang có xu hướng gia tăng. Tỷ lệ mắc và tử vong 
của bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính khác nhau ở các 
nước khác nhau. Mỹ, 1993 có 16 triệu người mắc 
bệnh chiếm 4%-5% dân số. Vương Quốc Anh 1997 
có 3,4 triệu người mắc chiếm 6,4 % dân số. Hiện nay 
tỷ lệ mắc bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính trên toàn cầu 
là 3,9%, ở Châu á Thái Bình Dương là 6,3%. Nghiên 
cứu dịch tễ học bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính ở 12 
quốc gia và khu vực châu á Thái Bình Dương cho 
thấy tỷ lệ mắc bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính từ 30 
tuổi trở lên ở Hồng Kông và Singapore có tỷ lệ thấp 
nhất (3,5%), cao nhất ở Việt Nam (6,7%) [16]. Tỷ lệ 
bệnh phổi tắc nghẽn ở NCT điều trị tại Viện Lão khoa 
Quốc gia có tỷ lệ thấp hơn so với tỷ lệ bệnh nhân bị 
bệnh này trên cả nước. Phải chăng, do ở đây là 
nghiên cứu tại Viện cứ không phải nghiên cứu tại 
cộng đồng, mặt khác số bệnh nhân đến điều trị tại 
Viện phân bố chưa đều tại các tỉnh/ thành phố trong 
cả nước đã dẫn đến sự khác biệt này. Đây là bệnh có 
số bệnh nhân khá đông và đứng thứ 5 trong số 10 
bệnh phổ biến nhất ở NCT, để xem xét chiều hướng 
tăng hay giảm tỷ lệ mắc bệnh ở NCT có lẽ cần tiến 
hành những nghiên cứu sâu hơn. 
Kết luận 
- Tỷ lệ bệnh nhân vào điều trị tại Viện Lão khoa 
Quốc gia năm 2008: 
+ Tỷ lệ bệnh nhân nữ chiếm: 53,9%; nam chiếm: 
46,1% 
+ Bệnh nhân sống ở thành thị chiếm 62,4%, ở nông 
thôn chiếm 37,6%. 
- Tỷ lệ các nhóm bệnh xếp theo 17 chương bệnh 
theo thứ tự giảm dần: 
+ Các nhóm bệnh chiếm tỷ lệ cao theo thứ tự lần lượt 
là: Bệnh tuần hoàn có tỷ lệ cao nhất (36,9%); Bệnh hô 
hấp (16,3%); Bệnh nội tiết chuyển hoá (6,8%); Bệnh hệ 
sinh dục và tiết niệu (6,4%); Bệnh khối u (6,3%); Bệnh 
hệ thần kinh (6%); Bệnh cơ xương khớp có tỷ lệ 5,9%; 
Hệ tiêu hoá có tỷ lệ 5,7%. 
+ Nhóm bệnh có tỷ lệ mắc thấp dưới 1% lần lượt là: 
Bệnh về mắt (0,1%); Bệnh da và mô dưới da (0,1%); 
Các triệu chứng, dấu hiệu và những biểu hiện lâm sàng 
và cận lâm sàng bất thường, không phân loại ở phần 
khác (0,6%); Chấn thương, ngộ độc và một số hậu quả 
khác do nguyên nhân bên ngoài (0,5%); Bệnh chu sinh 
chỉ có một trường hợp bệnh nhân. 
- Các bệnh phổ biến nhất trong 17 chương bệnh ở 
NCT điều trị tại Viện: 
+ Tai biến mạch máu não chiếm cao nhất: 21,9%; 
tiếp theo là viêm phổi là 7,8%; tăng huyết áp: 7,7%, đái 
tháo đường týp II: 5,3%; Các bệnh khác có tỷ lệ thấp 
hơn; Parkinson và viêm phế quản cấp thấp nhất chỉ có 
1,7%. 
Kiến nghị 
- Viện Lão khoa Quốc gia tăng cường hơn nữa công 
tác chỉ đạo tuyến đối với các Bệnh viện tuyến tỉnh/ thành 
phố khám và điều trị bệnh nhân là nguời cao tuổi. 
- Viện cần tăng cường công tác chăm sóc bệnh nhân 
của y tá, hộ lý cùng phối hợp với người nhà bệnh nhân 
để chăm sóc bệnh nhân cao tuổi. 
- Tăng cường cán bộ y tế và trang thiết bị phù hợp 
với công tác chữa bệnh, hồi sức cấp cứu kịp thời cho 
bệnh nhân. 
Tài liệu tham khảo 
1. ủy ban thường vụ Quốc hội (2000), Pháp lệnh 
NCT ở Việt Nam số 23/2000/PL-UBTVQH. 
2. Bộ Y tế (2004), Hướng dẫn thực hiện công tác 
chăm sóc sức khỏe cho NCT, Thông tư số 02/2004/TT- 
BYT. 
3. Bộ Y tế (2004), Thống kê Y tế năm 2004, Mô hình 
bệnh tật tử vong, Webside:  
4. Bộ Y tế (2006), Thống kê Y tế năm 2006, Mô hình 
bệnh tật tử vong, Webside:  
5. Bộ Y tế (2005), Điều tra tình hình chấn thương và 
các yếu tố ảnh hưởng ở trẻ em dưới 18 tuổi tại các hộ gia 
đình thuộc 6 tỉnh dự án (2005), Webside, 
6. WHO (2006), Tăng cường hoạt động để giảm tỷ lệ 
tử vong trên toàn cầu, Webside, 
7. Thông tấn xã Việt Nam (2008), WHO công bố về 
tình hình bệnh tật trên thế giới, Tạp chí Cộng sản số 20, 
năm 2008, Webside:  
8. Đàm Viết Cường và cs, 2006, “Đánh giá tình hình 
chăm sóc sức khoẻ cho NCT ở Việt Nam”, Webside: 
9. Bùi Khắc Hậu (2009), “Người cao tuổi thường mắc 
những bệnh gì”, Webside, 

File đính kèm:

  • pdfmo_hinh_benh_tat_cua_nguoi_cao_tuoi_dieu_tri_tai_vien_lao_kh.pdf