Máy tạo nhịp tạm thời là một thủ thuật cấp cứu cơ bản trong Tim mạch. Mục đích của tạo nhịp tạm thời là tái tạo lại khử cực tim và co bóp cơ tim. Dù có nhiều các phương thức khác nhau để tạo nhịp tạm thời như tạo nhịp qua thực quản, tạo nhịp ngoại mạc, tạ

Máy tạo nhịp tạm thời là một thủ thuật cấp cứu cơ bản trong Tim mạch. Mục đích của tạo nhịp tạm thời là tái tạo lại khử cực tim và co bóp cơ tim. Dù có nhiều các phương thức khác nhau để tạo nhịp tạm thời như tạo nhịp qua thực quản, tạo nhịp ngoại mạc, tạo nhịp nội mạc cơ tim, tạo nhịp qua da và tạo nhịp qua đường tĩnh mạch. Tạo nhịp tạm thời qua đường tĩnh mạch là phương thức áp dụng nhiều nhất trong tạo nhịp tạm thời ở các khoa Tim mạch. Tạo nhịp tạm thời qua đường tĩnh mạch là đặt một điện cực vào buồng thất phải của tim qua đường tĩnh mạch trung tâm. Đây là cách tiếp cận ít biến chứng nhất mà đạt được hiệu quả tái tạo lại khử cực tim và co bóp cơ tim

pdf 15 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Máy tạo nhịp tạm thời là một thủ thuật cấp cứu cơ bản trong Tim mạch. Mục đích của tạo nhịp tạm thời là tái tạo lại khử cực tim và co bóp cơ tim. Dù có nhiều các phương thức khác nhau để tạo nhịp tạm thời như tạo nhịp qua thực quản, tạo nhịp ngoại mạc, tạ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Máy tạo nhịp tạm thời là một thủ thuật cấp cứu cơ bản trong Tim mạch. Mục đích của tạo nhịp tạm thời là tái tạo lại khử cực tim và co bóp cơ tim. Dù có nhiều các phương thức khác nhau để tạo nhịp tạm thời như tạo nhịp qua thực quản, tạo nhịp ngoại mạc, tạ

Máy tạo nhịp tạm thời là một thủ thuật cấp cứu cơ bản trong Tim mạch. Mục đích của tạo nhịp tạm thời là tái tạo lại khử cực tim và co bóp cơ tim. Dù có nhiều các phương thức khác nhau để tạo nhịp tạm thời như tạo nhịp qua thực quản, tạo nhịp ngoại mạc, tạ
đào tạo liên tục
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 65.2014110
KỸ THUẬT ĐẶT MÁY TẠO NHỊP TẠM THỜI QUA 
ĐƯỜNG TĨNH MẠCH.
Phạm Như Hùng.
Viện Tim mạch Việt Nam.
Máy tạo nhịp tạm thời là một thủ thuật cấp 
cứu cơ bản trong Tim mạch. Mục đích của 
tạo nhịp tạm thời là tái tạo lại khử cực tim 
và co bóp cơ tim. Dù có nhiều các phương 
thức khác nhau để tạo nhịp tạm thời như tạo 
nhịp qua thực quản, tạo nhịp ngoại mạc, tạo 
nhịp nội mạc cơ tim, tạo nhịp qua da và tạo 
nhịp qua đường tĩnh mạch. Tạo nhịp tạm thời 
qua đường tĩnh mạch là phương thức áp dụng 
nhiều nhất trong tạo nhịp tạm thời ở các khoa 
Tim mạch. Tạo nhịp tạm thời qua đường tĩnh 
mạch là đặt một điện cực vào buồng thất phải 
của tim qua đường tĩnh mạch trung tâm. Đây 
là cách tiếp cận ít biến chứng nhất mà đạt 
được hiệu quả tái tạo lại khử cực tim và co 
bóp cơ tim.
Bài viết này điểm qua chỉ định đặt máy tạo 
nhịp tạm thời và mưu tả cách tạo nhịp mù với 
theo dõi điện tâm đồ (là cách có thể áp dụng ở 
mọi phòng cấp cứu tim mạch). Xác định vị trí 
đặt của điện cực và các biến chứng cũng được 
điểm qua.
CHỈ ĐỊNH VÀ CHỐNG CHỈ ĐỊNH.
Chỉ định đặt máy tạo nhịp tạm thời được 
trình bày ở bảng 1 và bảng 2 [1-4]. Các chỉ 
định này được phân thành tạo nhịp cấp cứu 
và tạo nhịp dự phòng; điều trị nhịp chậm và 
điều trị nhịp nhanh; bệnh nhân có nhồi máu 
hay không có nhồi máu. Chống chỉ định đặt 
máy tạo nhịp tạm thời chỉ có chống chỉ định 
tương đối. Các chống chỉ định tạo nhịp tạm 
thời được trình bày ở bảng 3.
Tên Chỉ định đặt máy tạo nhịp tạm thời cấp cứu
Nhịp chậm
Suy nút xoang có triệu chứng
 Ngừng xoang 
 Nhịp chậm xoang
Blốc nhĩ thất có triệu chứng.
 Blốc nhĩ thất cấp II, Mobitz II.
 Blốc nhĩ thất cấp III.
Quá liều thuốc có triệu chứng
Nhịp nhanh
Tạo nhịp vượt tần số cho những cơn tim nhanh trơ với các thuốc điều trị.
Xoắn đỉnh
Dự phòng
Dự phòng trước khi sốc điện ở bệnh nhân có bệnh lý nút xoang.
Blốc nhĩ thất và blốc nhánh mới xuất hiện trong viêm nội tâm mạc, viêm cơ tim cấp.
Trong khi mổ bệnh nhân blốc 2 nhánh.
Để điều trị các thuốc mà những thuốc này có thể làm nhịp chậm hơn.
Làm sinh thiết nội mạc cơ tim, làm thông tim, cấy máy tạo nhịp tái đồng bộ tim trên bệnh
nhân có blốc nhánh trái.
Bảng 1. Chỉ định đặt máy tạo nhịp tạm thời cấp cứu
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 65.2014 111
đào tạo liên tục
DỤNG CỤ
Dụng cụ đòi hỏi cho tạo nhịp tạm thời bao 
gồm một ống mở đường vào (sheath), một 
dây tạo nhịp (hình 1), một máy tạo nhịp ngoài 
(hình 2) và máy theo dõi điện tâm đồ. Các 
dụng cụ khác như kim chọc mạch, các dung 
dịch sát khuẩn, gây tê, ga, gạc, găng vô trùng 
cũng được chuẩn bị giống như các can thiệp 
xâm lấn. 
Hình 1. Dây tạo nhịp tạm thời. 
Hình 2. Máy tạo nhịp ngoài. Phần nút xoay trên cùng là 
điều chỉnh tần số. Phần nút giữa là cường độ xung. Phần 
nút dưới là nhận cảm xung. Dưới cùng là 2 nút nhỏ thường 
có màu tím – nút tắt (bên trái) và màu xanh – nút bật (bên 
phải).
ĐẶT MÁY TẠO NHỊP TẠM THỜI QUA 
ĐƯỜNG TĨNH MẠCH.
Chuẩn bị và lựa chọn vị trí chọc.
Thủ thuật cần tiến hành ở nơi có đầy đủ 
phương tiện cấp cứu tim mạch. Khi đã chuẩn 
bị đầy đủ dụng cụ, bệnh nhân được sát trùng 
vùng định chọc. Nên làm sạch một vùng rộng 
và bệnh nhân được chải ga để đảm bảo tất cả 
các dụng cụ được vô trùng.
Tên Chỉ định đặt máy tạo nhịp tạm thời ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim
Nhồi máu cơ tim có:
Vô tâm thu
Blốc nhĩ thất cấp III
Blốc nhĩ thất cấp II Mobitz II
Suy nút xoang có triệu chứng
Nhịp chậm có triệu chứng (bao gồm cả nhịp chậm xoang có huyết áp thấp, blốc nhĩ thất 
cấp I có huyết áp thấp mà không đáp ứng với atropine).
Blốc 2 nhánh.
Blốc nhánh luân phiên.
Trong can thiệp động 
mạch vành cấp.
Thân chung động mạch vành
Động mạch vành phải
Bảng 2. Chỉ định đặt máy tạo nhịp tạm thời ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim
Bảng 3. Các chống chỉ định khi đặt máy tạo nhịp tạm thời.
Các chống chỉ định khi đặt 
máy tạo nhịp tạm thời.
Nhiễm trùng tại chỗ chọc mạch
Huyết khối tại chỗ tĩnh mạch dự định chọc.
Rối loạn đông máu, chảy máu.
đào tạo liên tục
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 65.2014112
Lựa chọn vị trí tĩnh mạch phụ thuộc vào 
kinh nghiệm và thói quen của từng bác sĩ. 
Các tĩnh mạch có thể lựa chọn là tĩnh mạch 
cảnh trong, tĩnh mạch dưới đòn, tĩnh mạch đùi 
hoặc tĩnh mạch cánh tay. Tuy nhiên, tĩnh mạch 
cảnh trong bên phải và tĩnh mạch dười đòn 
trái thường được lựa chọn và cho thấy là thích 
hợp nhất để đặt máy tạo nhịp tạm thời. Nếu 
bệnh nhân đang dùng thuốc tiêu huyết khối, 
đường chọc từ tĩnh mạch cảnh trong và tĩnh 
mạch đưới đòn nên tránh. Trong trường hợp 
này, tĩnh mạch đùi thích hợp hơn. Tĩnh mạch 
cánh tay hiếm khi được sử dụng do dây điện 
cực ở đây dễ bị tuột và vị trí chọc này có nguy 
cơ cao nhiễm trùng và huyết khối [5].
Kỹ thuật chọc.
Bài viết sẽ trình bày đường vào chính là 
tĩnh mạch dưới đòn (đường vào hay được tiến 
hành nhất khi đặt máy tạo nhịp). Kỹ thuật 
chọc đường vào là kỹ thuật Seldinger. Vùng 
chọc được xác định là vùng an toàn của Byrd 
[6] (hình 3). Vùng này được cho là an toàn và 
thích hợp nhất khi chọc tĩnh mạch dưới đòn 
và tránh được xương, sụn và cơ. Điểm chọc 
thường là điểm cắt bờ dưới xương đòn với 
đường thẳng nối đầu xương mỏn xương mỏ 
quả với đầu trên điểm nối xương đòn và xương 
ức [7] (hình 4). Hướng chọc của mũi kim sẽ 
hướng lên mỏn vai của bên đối diện bên chọc 
mạch. Khi chọc ta đẩy nhẹ kim thẳng theo 
hướng chọc, vừa đi ta vừa hút chân không) 
đến khi kim chạm vào tĩnh mạch (thấy máu 
chảy nhiều bơm tiêm và hút máu ra dễ dàng). 
Lúc đó ta đẩy dây dẫn đường (guidewire) vào 
qua kim chọc. Sau đó rút kim ra và chúng ta 
đẩy ống dẫn đường (sheath) vào trong lòng 
mạch. Kết thúc giai đoạn này, chúng ta chú ý 
nên tráng dịch có heparine với ống dẫn đường 
(flushing). 
Hình 3. Vùng an toàn của Byrd. Được tính là 
vùng giữa của 2 đường trước bên và đường giữa. 
Hình 4. Điểm chọc là điểm cắt bờ dưới xương đòn với 
đường thẳng nối đầu mỏn xương mỏ quả với đầu trên điểm 
nối xương đòn và xương ức.
 Kỹ thuật đưa điện cực mù
Sau khi chọc được được tĩnh mạch, chúng 
ta đưa điện cực vào buồng tim. Trước khi 
đưa điện, ta nên uốn đầu điện cực như hình 
5. Chúng ta cũng nên làm động tác đo từ chỗ 
chọc đến mỏm tim để đánh dấu cữ đưa vào. 
Khi đưa điện cực vào buồng tim, nối điện 
cực tạo nhịp với máy tạo nhịp tạm thời. Máy 
tạo nhịp tạm thời được cài đặt với cường 
độ (output) ở mức tối đa và tần số tạo nhịp 
ở tần số từ 60-80 nhịp/phút, và nhận cảm 
(sensitivity) ở mức thấp nhất. Khi dây điện 
cực được đưa vào sâu, theo dõi điện tâm đồ 
(ĐTĐ) sẽ thấy được nhát phát xung (spikes) 
của máy tạo nhịp. Khi dây điện cực vào thất 
phải và chạm vào thành nội mạc cơ tim, hình 
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 65.2014 113
đào tạo liên tục
ảnh blốc nhánh trái (thấy trên màn hình ĐTĐ 
phức bộ QRS rộng) với nhát phát xung chạy 
trước mỗi phức bộ (hình 6). Hình ảnh ĐTĐ 
blốc nhánh trái sau mỗi nhát phát xung xuất 
hiện liên tục trên ĐTĐ chứng tỏ máy tạo nhịp 
đã dẫn tốt (capture). Nếu máy tạo nhịp không 
dẫn hoàn toàn, nên đặt lại dây điện cực bằng 
cách đẩy sâu thêm điện cực vào buồng tim. 
Nếu dây điện cực vào trong động mạch phổi, 
sóng P âm xuất hiện trên ĐTĐ. Lúc đó, ta kéo 
nhẹ dây điện cực lại cho xuất hiện hình ảnh 
như hình 6. Nếu rút quá mạnh tay, dây điện 
cực có thể chạy ra ngoài buồng nhĩ phải với 
biểu hiện sóng P lớn, dương. Nếu dây điện 
cực chạy xuông tĩnh mạch chủ xuống, sóng P 
sẽ dương nhỏ và có thể có giật ở thành ngực. 
Nếu dây điện cực nằm ở tĩnh mạch chủ trên, 
chúng ta cũng có thể thấy sóng P nhỏ và có thể 
có giật thành ngực [8].
Hình 5. Uốn đầu điện cực sẽ giúp dễ dàng hơn đưa điện cực vào thất phải.
Hình 6. Hình ảnh ĐTĐ của máy tạo nhịp tạm thời dẫn với hình ảnh ĐTĐ blốc nhánh trái và có phát xung của máy tạo 
nhịp (mũi tên chỉ) đứng trước phức bộ QRS. 
đào tạo liên tục
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 65.2014114
Thử ngưỡng.
Ngưỡng tạo nhịp và ngưỡng nhận cảm nên 
được thử sau khi ta cho rằng máy tạo nhịp tạm 
thời đã tốt. Ngưỡng tạo nhịp là dòng thất nhất 
cần để có thể tạo nhịp. Nó xác định bằng cách 
giảm dần cường độ kích thích. Ngưỡng tạo 
nhịp lý tưởng là ngưỡng <1 mA. Ngưỡng tạo 
nhịp nên đặt từ 2-2,5 lần ngưỡng tạo nhịp lý 
tưởng. Ngưỡng nhận cảm chỉ nên được thử 
khi ta dùng kiểu kích thích đồng bộ hoặc kích 
thích theo đáp ứng, nếu bệnh nhân có nhịp cơ 
bản để “nhận cảm”. Để thử ngưỡng nhận cảm 
ta nên đặt nhịp máy dưới 10 nhịp so với nhịp 
nội tại của bệnh nhân và thử ngưỡng nhận 
cảm từ thấp lên cao cho đến khi có nhát dẫn 
của máy tạo nhịp. Cài đặt nhận cảm nên thấp 
hơn ngưỡng nhận cảm để đảm bảo không có 
những nhát kích thích không thích hợp như 
đánh vào sóng T, nhiễu (artifact), run cơ để 
không bị vượt nhận cảm (oversensed) [8].
Kiểm tra sau đặt máy.
Các phương pháp kiểm tra sau đặt máy 
tạo nhịp mò có thể dùng là chụp XQ tim phổi 
thẳng, làm ĐTĐ và siêu âm tim thấy điện cực 
buồng thất phải.
CÁC BIẾN CHỨNG CỦA ĐẶT MÁY TẠO 
NHỊP TẠM THỜI.
Các biến chứng đặt máy tạo nhịp tạm thời 
đi theo từng giai đoạn của quá trình thủ thuật. 
Đầu tiên là chọc đường vào với nguy cơ chọc 
vào động mạch, tràn khí màng phổi, tràn máu 
màng phổi và nhiễm trùng cũng như các biến 
chứng ít gặp hơn như huyết khối do khí, huyết 
khối tĩnh mạch. Sau đó là những nguy cơ của 
thông tim phải như rối loạn nhịp, mất dẫn, 
mất nhận cảm và quá nhận cảm (oversensing). 
Rồi, dây điện cực có thể vào nhầm chỗ như 
trong xoang vành là ngưỡng cao, mất dẫn. Khi 
các động tác quá thô bạo có thể gây thủng tim 
gây tràn máu màng tim, ép tim và tử vong [9]. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Jafri SM, Kruse JA. Temporary transvenous cardiac pacing. Crit Care Clin 1992;8:713–25.
2. Wald DA. Therapeutic procedures in the emergency department patient with acute myocardial infarction. Emerg 
Med Clin North Am 2001;19:451– 67.
3. Bressman ES. Emergency cardiac pacing. In: Roberts JR, Hedges JR, eds. Clinical procedures in emergency 
medicine, 4th edn. Philadelphia, PA: Saunders; 2004:283–304.
4. Peters RW, Vijayaraman P, Ellenbogen KA. Chapter 1. Indications for permanent and temporary cardiac pacing. 
In Cardiac Pacing and ICDs, 5th edition. Edited by Kenneth A. Ellenbogen and Mark A. Wood.. 2008 Blackwell 
Publishing:1-45.
5. Belott PH. Chapter 4. Implant Techniques. In Cardiac Pacing for the Clinician, 2nd edition. Edited by Kusumoto FM, 
Goldschlager NF. 2008 Springer Publishing: 107-246.
6. Byrd CL. Safe introducer technique for pacemaker lead implantation. PACE 1992; 15:262.
7. Braner DAV, Lai S, Eman S, Tegtmeyer K. Central Venous Catheterization - Subclavian Vein. NEJM. 2007;357:e26.
8. Waldo AL, Wells JL Jr, Cooper TB, MacLean WA. Temporary cardiac pacing: applications and techniques in the 
treatment of cardiac arrhythmias. Prog Cardiovasc Dis 1981; 23:451.
9. Hynes JK, Holmes DR, Harrison CE. Five-year experience with temporary pacemaker therapy in the coronary care 
unit. Mayo Clin Proc 1983;58:122– 6.
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 65.2014 115
DÀNH CHO NGƯỜI BỆNH
BỆNH TIM VÀ ĐỜI SỐNG TÌNH DỤC
Bạn hoặc người bạn đời (bạn tình) của bạn 
có bệnh tim? Bạn thường bị những cơn đau 
ngực? Hoặc bạn đã trải qua phẫu thuật tim?.
Khi ấy, bạn có thể băn khoăn về đời sống 
tình dục của mình. Chúng tôi muốn báo cho 
bạn một tin vui - bạn vẫn có thể tiếp tục sinh 
hoạt tình dục, nhưng cần có sự hiểu biết và tôn 
trọng những lời khuyên của thầy thuốc.
Vấn đề hoạt động tình dục và quả tim 
của bạn
Có nhiều người coi hoạt động tình dục chỉ 
là những hành vi giao hợp đơn thuần. Nhưng 
tình dục còn có ý nghĩa nhiều hơn thế. Bạn có 
thể thể hiện ham muốn tình dục của mình theo 
nhiều cách. Có thể chỉ là muốn bạn tình ở gần 
mình, hoặc muốn chạm vào, hay ôm lấy anh 
ấy hoặc cô ấy...
Khi quan hệ tình dục, những biến đổi sinh 
lý thông thường đã được ghi nhận, ví dụ như:
Khi bạn được kích thích, nhịp thở của bạn 
sẽ tăng dần. Da sẽ đỏ lên. Cả nhịp tim và huyết 
áp đều tăng nhẹ.
Khi bạn ở trạng thái hưng phấn, người bạn 
sẽ căng lên. Cả nhịp tim và huyết áp đều tăng 
cao.
Vào thời điểm cực khoái, bạn sẽ giải phóng 
những năng lượng bị dồn nén. Sau đó, nhịp 
tim, huyết áp, và nhịp thở sẽ giảm dần về mức 
bình thường.
Tất cả những đáp ứng trên là bình thường 
trong lúc sinh hoạt tình dục. Thực tế, ít người 
để ý đến chúng. Những bệnh nhân tim mạch 
cũng có các biến đổi sinh lý tương tự người 
bình thường. Tuy vậy, đối với những người 
bệnh tim mạch, sự thay đổi này đôi khi lại là 
gánh nặng cho quả tim nếu chúng ta không có 
một nhận thức đúng đắn.
Đời sống tình dục sau cơn đau tim hay 
sau phẫu thuật tim
Bạn gần như có thể tiếp tục sinh hoạt tình 
dục ngay khi bạn cảm thấy sẵn sàng. Tuy 
nhiên cần trao đổi trước với bác sĩ của bạn.
Nói chung, cả phụ nữ lẫn nam giới đều bắt 
đầu sinh hoạt tình dục trở lại khoảng vài tuần 
sau cơn đau tim hay sau phẫu thuật tim. Nhiều 
người duy trì thói quen tình dục như trước. 
Tuy nhiên, một số có giảm sút hoạt động tình 
dục. Có thể do lo lắng, do trầm cảm, hay giảm 
ham muốn. Các chăm sóc và tư vấn y tế, cùng 
với thời gian, sẽ giúp giải quyết vấn đề này.
Khi đã hồi phục sau một cơn đau tim, bạn 
sẽ hay để ý hơn về nhịp tim, nhịp thở, cũng 
như tình trạng căng cơ. Điều này hoàn toàn 
bình thường, đừng lo lắng gì cả.
 Bạn có thể ôm ấp hay vuốt ve bạn tình mà 
không nhằm mục đích đạt cực khoái. Các bạn 
vẫn có cảm giác được yêu thương và che chở 
mà không phải gắng sức thể lực quá nhiều. 
Chẳng cần quá nhiều năng lượng cho những 
cử chỉ ôm ấp vuốt ve, và việc ấy hoàn toàn có 
thể diễn ra ngay khi bạn xuất viện. Bạn có thể 
quay lại chuyện sinh hoạt tình dục một cách 
từ từ. Khi tự tin hơn, bạn sẽ thấy thư giãn hơn 
với bản thân và với bạn tình của mình.
DÀNH CHO NGƯỜI BỆNH
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 65.2014116
Hoạt động giao hợp đòi hỏi nhiều năng 
lượng hơn đôi chút. Bác sĩ có thể yêu cầu bạn 
đợi đến khi sức khoẻ khá lên. Đa số bắt đầu lại 
chuyện giao hợp khoảng 4 đến 6 tuần sau cơn 
đau ngực. Những bệnh nhân không có biến 
chứng có thể sớm hơn, sau 7 đến 10 ngày. Đối 
với phẫu thuật tim mạch, khoảng thời gian 
này thường là 2 đến 3 tuần. Theo ước tính, 
nếu bạn có thể đi bộ lên 3 tầng thang gác một 
cách bình thường, bạn có thể trở lại hoạt động 
tình dục một cách từ từ và bình thường.
Nếu bạn không chắc chắn về tình trạng 
sức khoẻ của mình, bác sĩ có thể cho bạn làm 
nghiệm pháp gắng sức để đánh giá khả năng 
gắng sức của bạn. Dựa trên nhịp tim và huyết 
áp, thầy thuốc sẽ quyết định bạn đã có thể sinh 
hoạt tình dục hay chưa. 
Nếu các triệu chứng xuất hiện khi bạn quan 
hệ tình dục, hãy ngừng lại và nằm nghỉ. Sau 
đó đến khám bác sĩ.
Vài yếu tố tâm lý có thể giảm khả năng và 
ham muốn tình dục. Sau đợt bệnh, bạn có thể 
gặp một số vấn đề sau:
- Trầm cảm, buồn bã, và lo âu.
- Mất ngủ, hoặc ngủ quá nhiều, đặc biệt là 
ngủ nhiều trong ngày.
- Ăn nhiều hoặc ít hơn bình thường.
- Tăng hoặc sút cân, và ít quan tâm đến 
cuộc sống.
- Luôn cảm thấy kiệt sức (đặc biệt sau khi 
vận động).
Những trạng thái trên rất phổ biến. Nói 
chung, chúng sẽ mất đi trong vòng vài tháng 
sau khi bạn hồi phục. Các vấn đề liên quan đời 
sống tình dục có thể trầm trọng hơn nếu bạn 
vẫn trầm cảm. Ham muốn sút giảm thường 
xuất phát từ nỗi sợ sai lầm rằng, bệnh sẽ nặng 
lên khi quan hệ tình dục. Đó là lý do nhiều 
đôi ngừng hẳn sinh hoạt tình dục trong nhiều 
tháng, thậm chí nhiều năm.
Không nhất thiết phải như thế. Hãy tham 
khảo ý kiến bác sĩ. Nếu bị trầm cảm quá 3 đến 
6 tháng thì ham muốn và đời sống tình dục sẽ 
sút giảm nhiều hơn hẳn so với sớm thoát khỏi 
trạng thái trầm cảm.
Thuốc có ảnh hưởng đến đời sống tình 
dục hay không?
Rất nhiều thuốc điều trị bệnh tim có thể 
ảnh hưởng tới ham muốn và hành vi tình dục 
của bạn. Đó có thể là:
- Thuốc hạ huyết áp.
- Thuốc an thần và thuốc chống trầm cảm.
- Một vài thuốc chống đau ngực, thuốc 
chống loạn nhịp tim
Những thuốc trên có thể tác động tới hành 
vi và chức năng tình dục. Nam giới có thể gặp 
hoặc vẫn bị rối loạn cương (bất lực). Một số 
người có thể mắc chứng xuất tinh sớm hoặc 
không thể xuất tinh. 
Nữ giới có thể giảm tiết dịch âm đạo, gây 
đau đớn khi giao hợp. Một số phụ nữ không 
thể có hưng phấn, hoặc không thể đạt được 
cực khoái (rối loạn khoái cảm).
Tuy nhiên, các biến đổi trên có thể do một 
nguyên nhân nào đó khác ngoài thuốc. Vì 
thế, bạn không nên vội vàng dừng thuốc. Hãy 
tham khảo ý kiến bác sĩ về chuyện này và luôn 
phải cân nhắc giữa lợi ích và nguy cơ của việc 
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 65.2014 117
DÀNH CHO NGƯỜI BỆNH
dùng thuốc. Thông thường, việc điều chỉnh về 
loại thuốc hay liều dùng sẽ giúp giải quyết vấn 
đề này.
Hai người cùng hợp sức đương đầu với 
bệnh tật
Bệnh nhân tim mạch thường không phải là 
người duy nhất phải đối đầu với bệnh tật. Vợ 
hoặc chồng, hay người yêu của họ cũng có 
thể lo lắng hay trầm cảm. Những suy nghĩ của 
bạn cũng như của bạn tình có thể làm tăng sức 
ép lên quan hệ giữa hai người. Cả hai bạn cần 
quan tâm, tôn trọng, và cố gắng thấu hiểu và 
chia sẻ những tâm tư của người kia.
 Nói chung, vợ/chồng hay người yêu của 
bệnh nhân tim mạch sẽ cố gắng để cân bằng, 
không nên “sốt sắng” hoặc tỏ ra “cảm thông” 
che chở quá mức. Tâm lý chung là, họ không 
muốn đòi hỏi quá nhiều và làm phiền lòng 
người bệnh, hoặc họ không để cho người bệnh 
quay lại với những hoạt động thường ngày. 
Đôi khi, họ sẽ có cảm giác áy náy về bệnh tật 
của bạn tình và tự dằn vặt bản thân rằng đó có 
thể là lỗi của họ. Vậy, hãy đúng mực và chia 
sẻ.
Bệnh tim có thể làm thay đổi ít nhiều hoặc 
vĩnh viễn vai trò của bạn và bạn đời. Dù thế 
nào thì vợ/chồng, hay người yêu cũng đóng 
một vai trò to lớn trong cuộc chiến chống lại 
bệnh tật của bạn.
Thông thường thì người bạn tình sẽ băn 
khoăn về nguy cơ xuất hiện triệu chứng trong 
lúc đang sinh hoạt tình dục. Anh ấy/cô ấy có 
thể lo ngại về đời sống tình dục của hai người, 
cũng những quan hệ khác. Anh ta/cô ta có thể 
tức giận hoặc nản chí.
Nếu một cặp đã gặp vấn đề trong sinh hoạt 
tình dục trước khi phát bệnh tim, sự việc có 
thể càng tồi tệ hơn sau một cơn đau tim hay 
phẫu thuật tim. Hãy cùng trao đổi những suy 
nghĩ của bạn, các căn nguyên của vấn đề, và 
hướng giải quyết. Những vấn đề không được 
giải quyết có thể dẫn tới các hậu quả nặng nề 
hơn về thể chất, tâm lý, xã hội. Những đôi 
cùng nhau trao đổi về nhu cầu tình dục và các 
mối lo ngại sẽ đương đầu tốt hơn với bệnh tật. 
Sự gần gũi và thẳng thắn sẽ giúp cả hai sớm 
bắt đầu lại đời sống tình dục và có cảm giác 
dễ chịu hơn. Hai người cũng có thể trò chuyện 
với nhân viên y tế về những lo lắng chung.
Tiếp tục đời sống tình dục
Việc tiếp tục quan hệ tình dục sẽ giúp hai 
bạn cảm thấy gần gũi nhau hơn. Nó giúp khơi 
gợi lại những cảm xúc dịu dàng và lãng mạn. 
Sau một cơn đau tim hay phẫu thuật tim, quan 
hệ tình dục đúng mực sẽ giúp giải toả stress 
và làm bạn thấy tự tin hơn, tin yêu vào cuộc 
sống hơn và vững vàng hơn trong cuộc chiến 
đấu chống bệnh tật tim mạch. Có vài cách 
để việc quay lại đời sống tình dục trở nên dễ 
dàng hơn:
- Duy trì những thói quen giữ gìn sức khoẻ 
như ăn uống điều độ, tập thể dục, nghỉ ngơi, 
dùng thuốc.
- Tập thể dục để cảm thấy khoẻ mạnh và tự 
tin hơn. Các hoạt động thể chất bao gồm đi bộ, 
chạy bộ, bơi, đạp xe, và khiêu vũ có thể giúp 
giảm nguy cơ tăng nhịp tim, khó thở, hay đau 
ngực trong lúc quan hệ tình dục.
- Nếu đang hút thuốc lá, hãy ngừng hút ngay.
- Kiên nhẫn với bản thân. Cố gắng hiểu suy 
nghĩ của cả hai bạn. Người bệnh có thể cảm 
thấy dễ tổn thương sau một đợt bệnh tim; và 
cảm xúc có thể thay đổi nhanh chóng, thoắt 
vui thoắt buồn, dễ sung sướng, dễ cáu giận. 
Những biến đổi xúc cảm đột ngột ấy chỉ là 
tạm thời. Cả hai cần kiên nhẫn với nhau. Sự 
hài hước và lạc quan sẽ giúp ích trong trường 
hợp này.
DÀNH CHO NGƯỜI BỆNH
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 65.2014118
- Tránh vội vã sinh hoạt tình dục chỉ để 
chứng tỏ mọi việc đã “hoàn toàn trở lại bình 
thường”. Quan hệ tình dục trước khi thực sự 
sẵn sàng không phải là một cách để xua đi lo 
sợ, mà đôi khi còn khiến các bạn cảm thấy lo 
lắng hơn.
- Ban đầu, đừng kỳ vọng quá nhiều. Phần 
lớn mọi người đều phải điều chỉnh đời sống 
tình dục sau đợt bệnh tim. Hãy quay trở lại 
một cách từ từ và để mọi chuyện diễn tiến tự 
nhiên.
- Lựa chọn thời điểm cả hai đều cảm thấy 
thoải mái và thư giãn.
- Đừng quan hệ tình dục quá sớm sau khi 
ăn, hãy đợi hai hoặc ba tiếng đồng hồ để bạn 
có thời gian tiêu hoá thức ăn. Tương tự những 
hoạt động thể chất khác, việc tiêu hoá thức ăn 
cũng đòi hỏi được cấp máu, và tim bạn sẽ phải 
hoạt động nhiều hơn.
- Chọn một nơi quen thuộc kín đáo để tránh 
bị làm phiền.
- Uống thuốc theo đơn của bác sĩ trước khi 
quan hệ tình dục.
Sau một đợt bệnh tim, hầu như mọi người 
sẽ không thay đổi các tư thế quan hệ tình dục 
hay những động tác kích thích. Tuy nhiên, có 
thể thay đổi đôi chút sẽ tốt hơn. Lấy ví dụ, 
người có bệnh tim mạch sẽ cảm thấy thoải mái 
hơn khi nằm dưới. Tuy nhiên với tư thế này, 
vết rạch da sau phẫu thuật tim có thể gây khó 
chịu cho hai bạn. Trong trường hợp ấy, hãy 
nằm nghiêng người. Tư thế này giúp giảm áp 
lực đè lên thành ngực và giúp người bệnh dễ 
thở hơn.
Nếu khó thở, hai người sẽ ưa thích tư thế 
ngồi trên ghế, quay mặt vào nhau. Tốt nhất là 
chọn ghế có chân đế rộng và đủ thấp để cả hai 
đều có thể thả chân thoải mái trên sàn nhà.
Nhân viên y tế sẽ giúp bạn và bạn tình lựa 
chọn những biện pháp tình dục thay thế. Với 
một số người, thủ dâm có tác dụng phục hồi 
sự tự tin và giúp quay lại với đời sống tình 
dục dễ dàng hơn. Thủ dâm ít gây đáp ứng ở 
tim hơn và đỡ mất sức hơn. Quan hệ tình dục 
đường miệng không làm tim phải hoạt động 
quá nhiều, nhưng quan hệ qua đường hậu môn 
có thể gây loạn nhịp tim.
Nếu xuất hiện triệu chứng tim mạch 
trong lúc đang quan hệ tình dục
Trong lúc quan hệ tình dục, tim bạn đập 
nhanh hơn và mạnh hơn, da bạn sẽ đỏ lên và 
ẩm hơn. Đó là những biểu hiệnh bình thường, 
không phải triệu chứng của tăng gánh nặng 
cho tim. 
Bạn có thể gặp các triệu chứng của cơn đau 
thắt ngực (tương tự đau ngực do bệnh mạch 
vành). Những triệu chứng đau thắt ngực cho 
thấy tim bạn đang phải hoạt động quá tải bao 
gồm:
- Cảm giác nặng, đau, tức ở hàm, cổ, tay, 
ngực, hoặc bụng.
- Khó thở rõ rệt.
- Nhịp tim rất nhanh hoặc không đều.
Nếu gặp bất kì triệu chứng nào kể trên 
khi đang quan hệ tình dục, hãy nói cho bạn 
tình biết. Giảm các hoạt động, nghỉ ngơi, 
và uống thuốc theo chỉ dẫn của bác sĩ. Viên 
nitroglycerin, ngậm dưới lưỡi hoặc loại xịt 
dưới lưỡi cách nhau mỗi 12-15 phút, có thể có 
tác dụng. Khi các triệu chứng mất đi, bạn có 
thể tiếp tục quan hệ tình dục.
Nếu thuốc không làm giảm triệu chứng, 
hoặc triệu chứng lại xuất hiện khi tiếp tục 
quan hệ tình dục, hãy ngừng lại và đi khám 
bác sĩ.
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 65.2014 119
DÀNH CHO NGƯỜI BỆNH
Bạn cần báo cáo với bác sĩ nếu như:
- Bạn khó ngủ, hoặc khó nghỉ ngơi sau khi 
quan hệ tình dục.
- Bạn nhận thấy một thay đổi về vị trí đau 
ngực, tần số xuất hiện cơn đau, hoặc mức độ 
nặng của cơn đau.
- Bạn rất mệt.
Có thể bạn sẽ cần thay đổi một số thói quen 
thường ngày, hoặc đổi thuốc. Bác sĩ có thể 
cho bạn sử dụng nitroglycerin (hoặc một chất 
tương tự) ngậm dưới lưỡi 15-20 phút trước 
khi sinh hoạt tình dục.
Các vấn đề liên quan đến thuốc Viagra
Nam giới mắc bệnh mạch vành, hoặc 
những người từng có cơn đau tim thường gặp 
các rối loạn về tình dục. Thường là do lo lắng 
vì những nguyên nhân khác, nhưng tối thiếu 
15-20% trường hợp là do vấn đề của cơ quan 
sinh dục.
Sildenafil (biệt dược: Viagra) là thuốc điều 
trị chứng bất lực ở nam giới. Nó có thể hiệu 
quả với những người có vấn đề về hoạt động 
tình dục. Tuy nhiên, bệnh nhân tim mạch cần 
trao đổi với bác sĩ về các lợi ích và nguy cơ 
khi dùng thuốc.
Một số trường hợp không được sử dụng 
Viagra, như khi bệnh nhân đang dùng các 
thuốc nhóm nitrate. Sử dụng đồng thời hai 
thuốc này có thể gây tụt huyết áp và nguy 
hiểm tới tính mạng.
Dùng Viagra cũng nguy hiểm với những 
đối tượng sau:
Có bệnh động mạch vành đang tiến triển 
(chưa được giải quyết một cách tối ưu).
- Có suy tim và huyết áp thấp.
- Đang dùng đồng thời nhiều thuốc điều trị 
tăng huyết áp.
- Đang sử dụng các thuốc có thể ảnh hưởng 
tới chuyển hóa và thải trừ của Viagra.
Những thông tin trên có ý nghĩa cảnh báo, 
không phải là chống chỉ định tuyệt đối. Viagra 
chưa được thử nghiệm rộng rãi ở các bệnh 
nhân tim mạch, do đó, đừng sử dụng thuốc 
nếu không có hướng dẫn của bác sĩ.
Ngay cả những người không có bệnh tim 
mạch cũng có thể có các vấn đề về tình dục. 
Nếu bạn gặp tình trạng này, hãy thảo luận 
những suy nghĩ của bạn, các căn nguyên có 
thể, và hướng giải quyết. Nếu không thể giải 
quyết, bạn sẽ gặp các vấn đề nghiêm trọng 
hơn về thể chất, tâm lý, xã hội. Ngoài ra, bạn 
cũng hoàn toàn có thể quyết định ngừng sinh 
hoạt tình dục.
Khi nào bạn cần được tư vấn
Nếu những câu hỏi về đời sống tình dục trở 
thành mối quan tâm lớn, bạn và bạn tình cần 
hỏi ý kiến các nhân viên y tế. Hai bạn có thể 
cùng đến bác sĩ, hoặc đến gặp bác sĩ riêng rẽ.
Có những cặp không thích thảo luận với 
nhau hay với bác sĩ về ham muốn tình dục hay 
các mối lo lắng về tình dục. Tuy nhiên, việc 
thảo luận sẽ có ích cho cả hai bạn.
Những hiểu biết sai lầm
Có quá nhiều hiểu biết sai lầm về tình dục 
và bệnh tim mạch. Điều này có thể gây ra nỗi 
sợ hãi và làm bạn chậm bình phục. Những 
nhầm lẫn thường gặp nhất bao gồm:
DÀNH CHO NGƯỜI BỆNH
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 65.2014120
Nhầm lẫn
Đàn ông và phụ nữ sẽ trở nên bất lực khi về già. Bất lực và mất động lực tình dục luôn luôn 
xuất hiện khi họ có bệnh tim mạch
Sự thật
Đàn ông cao tuổi có thể đạt sự cương cứng chậm hơn, nhưng thời gian quan hệ tình dục 
thường dài hơn và kiểm soát sự phóng tinh tốt hơn người trẻ tuổi.
Phụ nữ sau mãn kinh vẫn còn các ham muốn tình dục. 
Cả nam lẫn nữ đều có thể tiếp tục sinh hoạt tình dục bình thường sau cơn đau tim, hoặc sau 
phẫu thuật tim
Nhầm lẫn Quan hệ tình dục sau khi bị đau tim thường gây đột tử
Sự thật Chuyện này rất hiếm gặp. Một bạn tình mới hoặc ngoại tình có thể đem đến nhiều stress hơn.
Nhầm lẫn Rượu là một chất kích thích tốt đối với chuyện chăn gối
Sự thật
Một lượng rượu nhỏ có thể giúp giảm căng thẳng, có thể có ích. Nhưng rượu là chất gây 
trầm cảm nặng. Nó thậm chí có thể gây hại cho bạn nhiều hơn. Tác động lâu dài của rượu 
rất nghiêm trọng, người nghiện rượu bị bất lực có thể không thể phục hồi ngay cả khi đã 
ngừng uống.
Nhầm lẫn Các hormon sinh dục nam luôn giúp tăng cường khả năng tình dục
Sự thật
Chúng có thể hiệu quả ở những đàn ông có giảm lượng hormon sinh dục nam. Sự tăng khả 
năng tình dục xuất hiện sau khi họ dùng một thuốc gọi là testosteron. Tuy nhiên, thuốc này 
không có tác dụng ở những người có nồng độ hormon trong máu bình thường. 
Nhầm lẫn
Hormon sinh dục nữ (liệu pháp estrogen) sẽ tăng khả năng tình dục ở phụ nữ giới mãn kinh 
hoặc thiếu hormon
Sự thật
Chưa có nghiên cứu nào cho thấy hiệu quả này của estrogen. Tuy nhiên, hormon sinh dục nữ 
(cũng như các loại dầu trơn) có thể làm trơn âm đạo và giúp dương vật đi vào dễ dàng hơn. 
Nhờ đó, phụ nữ cảm thấy việc giao hợp dễ chịu hơn. Tuy nhiên, các Hội Tim mạch đều không 
khuyến cáo sử dụng estrogen hoặc liệu pháp hormon thay thế để phòng bệnh tim mạch
Nhầm lẫn Khi giao hợp, sẽ tốt nhất nếu người có bệnh tim nằm phía dưới
Sự thật Các nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt giữa nằm trên hay nằm dưới
Nhầm lẫn Nhịp tim ít tăng hơn nhiều khi thủ dâm, so với lúc quan hệ tình dục
Sự thật Nhịp tim ít tăng hơn khi thủ dâm, tuy nhiên không ít hơn quá nhiều
Nhầm lẫn
Suy giảm khả năng tình dục sau đợt bệnh tim là do tim không đáp ứng được chức năng cung 
cấp máu cho hoạt động thế lực khi sinh hoạt tình dục
Sự thật
Trừ vài ngoại lệ, ảnh hưởng của cơn đau tim đối với khả năng tình dục là ở yếu tố tâm lý, hơn 
là thể chất.
Nhầm lẫn
Nếu xuất hiện cơn đau thắt ngực khi đang quan hệ tình dục, không nên tiếp tục hoạt động tình 
dục
Sự thật
Đau ngực khi đang quan hệ tình dục hiếm khi trầm trọng đến mức ngăn không cho người bệnh 
tiếp tục quan hệ. Bác sĩ có thể yêu cầu bạn uống thuốc đều đặn để chống đau ngực. Thầy thuốc 
cũng sẽ khuyên bạn tập thể dục thường xuyên hơn hoặc tập những bài tập đặc biệt để hạn chế 
các vấn đề thể chất khác
KẾT LUẬN
Khi bạn và bạn tình có đời sống tình dục thoải mái hơn, cuộc sống của bạn cũng dễ chịu 
hơn về nhiều mặt. Bệnh tim có thể làm thay đổi cuộc sống theo hướng bạn không mong muốn. 
Nhưng cũng nhờ nó mà bạn nhận ra điều gì là quan trọng. Hãy nghĩ đến khía cạnh tích cực đó. 
Các mối quan hệ giữa bạn với gia đình và bạn bè có thể sẽ tốt đẹp hơn.
Tri thức là sức mạnh. Vì thế, Hãy hiểu biết để có cuộc sống tốt đẹp hơn! Chúc các bạn luôn 
khỏe và hạnh phúc.
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 65.2014 121
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 65.2014122
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 65.2014 123
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 65.2014124

File đính kèm:

  • pdfmay_tao_nhip_tam_thoi_la_mot_thu_thuat_cap_cuu_co_ban_trong.pdf