Lựa chọn đường vào và phương pháp can thiệp nội mạch trong phối hợp phẫu thuật với can thiệp mạch máu (Hybrid) - Kinh nghiệm giai đoạn 2014-2017

Lựa chọn đường vào và phương pháp can thiệp nội mạch trong phối hợp phẫu thuật và can thiệp nội mạch một thì (Hybrid) có vai trò quan trọng trong hạn chế biến chứng, nâng cao khả năng thành công của điều trị. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu vị trí chọc ĐM, cách tiếp cận tổn thương và biến chứng của can thiệp trên BN điều trị bằng Hybrid tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức và Bệnh viện Đại học Y Hà Nội giai đoạn 12/2014 - 05/2017. Kết quả: Có 42 BN được tiến hành điều trị trong đó có 38 BN nam, tuổi trung bình của BN là 73,5. Có 47,62% BN sử dụng nhiều đường vào can thiệp. 73,33% vị trí chọc ĐM là ĐM đùi chung. Có thể sử dụng ĐM được bộc lộ và mạch nhân tạo sau khi làm miệng nối để can thiệp nội mạch. Tiếp cận ĐM cần can thiệp có thể là xuôi dòng 26,42%; ngược dòng 47,17%; đối bên 22,64% hoặc từ chi trên 3,77%. Cách thức can thiệp đa dạng, phụ thuộc tổn thương tuy nhiên tổn thương ĐM chậu cần can thiệp 62,26%. Tỷ lệ biến chứng trong can thiệp thấp và có thể xử trí ngay trong quá trình điều trị

pdf 9 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Lựa chọn đường vào và phương pháp can thiệp nội mạch trong phối hợp phẫu thuật với can thiệp mạch máu (Hybrid) - Kinh nghiệm giai đoạn 2014-2017", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Lựa chọn đường vào và phương pháp can thiệp nội mạch trong phối hợp phẫu thuật với can thiệp mạch máu (Hybrid) - Kinh nghiệm giai đoạn 2014-2017

Lựa chọn đường vào và phương pháp can thiệp nội mạch trong phối hợp phẫu thuật với can thiệp mạch máu (Hybrid) - Kinh nghiệm giai đoạn 2014-2017
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017 71
Lựa chọn đường vào và phương pháp can thiệp 
nội mạch trong phối hợp phẫu thuật với can 
thiệp mạch máu (Hybrid) - Kinh nghiệm giai đoạn 
2014 - 2017
Nguyễn Duy Thắng*, Đoàn Quốc Hưng**, Nguyễn Hữu Ước*, Lê Nhật Tiên* 
 Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức*
Trường Đại học Y Hà Nội** 
TÓM TẮT
 Lựa chọn đường vào và phương pháp can thiệp 
nội mạch trong phối hợp phẫu thuật và can thiệp nội 
mạch một thì (Hybrid) có vai trò quan trọng trong 
hạn chế biến chứng, nâng cao khả năng thành công 
của điều trị. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu vị trí 
chọc ĐM, cách tiếp cận tổn thương và biến chứng 
của can thiệp trên BN điều trị bằng Hybrid tại Bệnh 
viện Hữu nghị Việt Đức và Bệnh viện Đại học Y Hà 
Nội giai đoạn 12/2014 - 05/2017. Kết quả: Có 42 
BN được tiến hành điều trị trong đó có 38 BN nam, 
tuổi trung bình của BN là 73,5. Có 47,62% BN sử 
dụng nhiều đường vào can thiệp. 73,33% vị trí chọc 
ĐM là ĐM đùi chung. Có thể sử dụng ĐM được 
bộc lộ và mạch nhân tạo sau khi làm miệng nối để 
can thiệp nội mạch. Tiếp cận ĐM cần can thiệp có 
thể là xuôi dòng 26,42%; ngược dòng 47,17%; đối 
bên 22,64% hoặc từ chi trên 3,77%. Cách thức can 
thiệp đa dạng, phụ thuộc tổn thương tuy nhiên tổn 
thương ĐM chậu cần can thiệp 62,26%. Tỷ lệ biến 
chứng trong can thiệp thấp và có thể xử trí ngay 
trong quá trình điều trị. Từ khóa: Bệnh ĐM chi 
dưới, can thiệp mạch máu, hybrid
ĐẶT VẤN ĐỀ
Số lượng bệnh nhân có bệnh ĐM chi dưới được 
điều trị tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức cũng như 
Bệnh viện Đại học Y Hà Nội bằng phối hợp phẫu 
thuật và can thiệp nội mạch một thì (Hybrid) có 
xu hướng tăng dần trong những năm gần đây. Việc 
lựa chọn đường vào cũng như kỹ thuật can thiệp 
nội mạch phù hợp đóng một vai trò quan trọng, 
giúp hạn chế các biến chứng và tăng cường khả 
năng thành công chung của điều trị. Chúng tôi tiến 
hành nhiên cứu này nằm nhìn lại quy trình lựa chọn 
đường vào cho can thiệp nội mạch, cũng như lựa 
chọn kỹ thuật can thiệp nội mạch cho mỗi vị trí tổn 
thương, qua đó rút ra những kết luận về lựa chọn 
đường vào và kỹ thuật can thiệp nội mạch phù hợp 
nhất cho mỗi loại thương tổn mạch máu.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu can thiệp tiến cứu, BN được chẩn 
đoán bệnh ĐM chi dưới tại Bệnh viện Hữu nghị 
Việt Đức và Bệnh viện Đại học Y Hà Nội giai đoạn 
12/2014 - 05/2017. Có chỉ định phục hồi lưu thông 
mạch máu (thiếu máu chi giai đoạn IIb không đáp 
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.201772
ứng với điều trị nội khoa, giai đoạn III, IV theo phân 
loại Leriche – Fontaine). BN có ít nhất hai vị trí tổn 
thương trong đó phương pháp ưu tiên phục hồi lưu 
thông mạch máu trên mỗi vị trí khác nhau theo 
guidelines châu Âu và Mỹ. Can thiệp nội mạch được 
thực hiện trước, sau hoặc đồng thời với can thiệp 
phẫu thuật trong một đợt điều trị. Hybrid được tiến 
hành tại phòng can thiệp và phẫu thuật tim mạch, 
Khoa Phẫu thuật Tim mạch và Lồng ngực Bệnh viện 
Hữu nghị Việt Đức; tại Phòng Can thiệp mạch của 
Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Máy C-arm trong can 
thiệp là hệ thống GE 9900 Lite của General Electric 
và Hệ thống can thiệp Cathlab của Philip. Thuốc 
cản quang sử dụng là Telebrix và Ultravist. Bóng 
nong, Stent, guidewire, Catheter và Sheath trong 
can thiệp được sử dụng của các hãng Medtronic, 
Biotronic, Terumo và Cook (Hoa Kỳ). Các thông 
số được ghi nhận bao gồm: Tuổi và giới của bệnh 
nhân, tổn thương cần can thiệp nội mạch, vị trí lựa 
chọn đường vào can thiệp nội mạch, số đường vào 
can thiệp nội mạch, cách tiếp cận tổn thương từ vị 
trí đường vào, các biến chứng trong và sau điều trị 
liên quan đến đường vào, lựa chọn phương pháp can 
thiệp nội mạch, số vị trí tổn thương được can thiệp 
nội mạch, các biến chứng trong và sau khi can thiệp 
nội mạch, kết quả can thiệp nội mạch đánh giá bằng 
chụp mạch ngay trong mổ. Sau điều trị bệnh nhân 
được đánh giá lại bằng siêu âm Doppler và chụp cắt 
lớp vi tính trong trường hợp tổn thương không rõ 
ràng. Các số liệu được thống kê, phân tích, so sánh 
từ đó đưa ra các nhận xét và kết luận về đường vào 
và phương pháp can thiệp nội mạch trong Hybrid, 
đề xuất thay đổi thích hợp.
KẾT QUẢ
Từ tháng 12/2014 tới tháng 5/2017, có 42 bệnh 
nhân (trong đó 40 BN tại BV Việt Đức, 2 BN tại BV 
Đại học Y) có bệnh ĐM chi dưới hội đủ các chỉ tiêu 
nghiên cứu được phân bố như sau: Nam 38 (tỷ lệ 
90,48%); tuổi thấp nhất 51 cao nhất 90, trung bình 
73,5 tuổi. Lựa chọn đường vào can thiệp mạch và 
cách tiếp cận tổn thương được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 1. Lựa chọn đường vào và cách tiếp cận ĐM tổn thương
Đặc điểm Số lượng Tỷ lệ %
Số đường vào
Một vị trí 22 52,38
Hai vị trí 18 42,86
≥ Ba vị trí 2 4,76
Vị trí chọn đường vào
ĐM đùi cùng bên tổn thương 26 43,33
ĐM đùi đối bên tổn thương 18 30,00
ĐM cánh tay (1 hoặc 2 mạch) 2 3,33
ĐM được bộc lộ bằng phẫu thuật 6 10,00
ĐM nhân tạo (prothese) sau làm miệng nối 8 13,33
Tổng số 60 100
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017 73
Cách tiếp cận vị trí ĐM 
tổn thương
Xuôi dòng cho tổn thương dưới ĐM đùi chung (Antegrade) 14 26,42
Ngược dòng cho tổn thương ĐM chậu cùng bên
(Retrograde)
25 47,17
Ngược dòng cho tổn thương ĐM chân đối diện
(contralateral crossover)
12 22,64
Can thiệp từ ĐM chi trên (upper extremity approaches) 2 3,77
Ngược dòng từ mạch khoeo và dưới gối 0 0
Tổng số 53 100
Nhận xét: Có 47,62% bệnh nhân có số đường vào can thiệp nội mạch lớn hơn một.
73,33% vị trí chọc là ĐM đùi chung cùng bên hoặc đối bên. 
Tổng số cách tiếp cận tổn thương (53) nhiều hơn số bệnh nhân (42).
Lựa chọn biện pháp can thiệp cho tổn thương mạch được thể hiện ở bảng sau
Bảng 2. Lựa chọn phương pháp can thiệp nội mạch.
Đặc điểm Số lượng Tỷ lệ %
Số vị trí can thiệp
Một vị trí 34 80,95
Nhiều vị trí 8 19,05
Tổng 42 100
Cách thức can 
thiệp
Đặt Stent graft ĐM chủ chậu 1 1,89
Nong ĐM chậu đơn thuần 6 11,32
Nong và đặt Stent ĐM chậu 27 50,94
Nong ĐM đùi nông đơn thuần 8 15,09
Nong và đặt Stent ĐM đùi nông 2 3,77
Nong miệng nối mạch nhân tạo 3 5,66
Nong ĐM khoeo và dưới gối 6 11,32
Tổng số can thiệp 53 100
Nhận xét: Tỷ lệ can thiệp trên ĐM chậu là 62,26%.
Tỷ lệ can thiệp trên ĐM đùi là 18,86%.
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.201774
Các biến chứng liên quan quá trình can thiệp nội mạch được thể hiện ở bảng sau
Bảng 3. Biến chứng liên quan đến can thiệp nội mạch
Biến chứng Số lượng Tỷ lệ %
Tại vị trí chọc mạch
Chảy máu 0 0
Khối máu tụ* 3 7,14
Tắc mạch do tách thành ĐM tại vị trí chọc 0 0
Giả phồng ĐM 0 0
Nhiễm trùng/ rò bạch huyết** 2 4,76
Tại vị trí mạch can 
thiệp
Tách thành ĐM không cần can thiệp 3 7,14
Tách thành ĐM cần can thiệp (thiếu máu)*** 2 4,76
Vỡ ĐM (thoát cản quang ra ngoài lòng mạch) 0 0
Tắc mạch do huyết khối (không do lóc) 0 0
*Máu tụ nhỏ và không cần can thiệp ngoại khoa. **BN đáp ứng với điều trị bảo tồn.
***Bệnh nhân được xử trí tách thành ĐM bằng đặt Stent tại vị trí lóc.
BÀN LUẬN
Về đặc điểm bệnh nhân
Đa phần BN đều là nam giới và có hút thuốc lá. 
Rõ ràng hút thuốc là một yếu tố nguy cơ cao trong 
bệnh lý mạch máu nói chung và gắn liền với giới 
nam. Tuổi trung bình của BN là 73,5 tương ứng với 
tuổi mắc bệnh mạch máu tại Châu Âu (62-73 tuổi) 
[1]. Con số này cao hơn kết quả nghiên cứu trước 
của chúng tôi là 70,6[2] có lẽ do chất lượng cuộc 
sống, tuổi thọ trung bình của BN tại Việt Nam được 
cải thiện và BN có điều kiện hơn để tiến hành phẫu 
thuật – can thiệp so với giai đoạn trước đây.
Về vị trí chọc ĐM
Lựa chọn vị trí chọc ĐM
ĐM đùi chung và ĐM quay là hai vị trí chọc 
mạch được các nhà can thiệp tim mạch nói chung 
lựa chọn hàng đầu do vị trí nằm nông, dễ tiếp cận, 
dễ xử trí biến chứng và các ĐM này nằm trên nền 
cứng, cho phép có thể áp dụng các kỹ thuật cầm 
máu sau mổ bằng áp lực. Với can thiệp mạch vành, 
do các thiết bị can thiệp (bóng nong và Stent mạch 
vành) nhỏ do đó ĐM quay là đường tiếp cận tốt 
nhất và ít biến chứng nhất[3]. Tuy nhiên trong can 
thiệp ĐM chi dưới, ĐM đùi chung lại là vị trí chọc 
mạch tốt nhất do khẩu kính đủ lớn để đưa vào lòng 
mạch các thiết bị can thiệp nội mạch cho can thiệp 
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017 75
ĐM chủ - chậu - chi dưới. Giải pháp để thay thế ĐM 
đùi có thể là ĐM cánh tay, ĐM nách, ĐM cảnh, ĐM 
khoeo[4]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, ĐM đùi 
chung vẫn là vị trí chọc mạch được tiếp cận nhiều 
nhất (73,33%) do tính dễ tiếp cận và dễ xử trí biến 
chứng của nó. Lựa chọn thứ hai là mạch được bộc lộ 
và mạch nhân tạo sau khi làm miệng nối. ĐM cánh 
tay chỉ chiếm 3,33%; nó được lựa chọn do khả năng 
tiếp cận dễ dàng và khẩu kính của nó đủ lớn cho 
dụng cụ đi qua. Chúng tôi chỉ sử dụng ĐM cánh tay 
trong trường hợp không tiếp cận được bằng ĐM 
đùi chung.
Trong Hybrid, việc áp dụng phẫu thuật cho 
phép chúng tôi cải tiến về kỹ thuật: Lựa chọn vị trí 
chọc mạch trên mạch máu đã được bộc lộ hoặc trên 
mạch nhân tạo (hình 1). Các tiếp cận mạch máu 
này không chỉ chính xác hơn về vị trí, góc và hướng 
chọc, hạn chế đâm xuyên, còn cho phép chúng tôi 
dễ dàng xử trí các biến chứng gặp phải trong quá 
trình can thiệp.
Hình 1. Đưa dụng cụ bằng chọc qua mạch nhân tạo (trái) hoặc qua động mạch đã được bộc lộ (phải)
Số bệnh nhân có nhiều đường vào của can thiệp 
nội mạch lên tới 47,62% theo bảng 1. Như vậy có 
thể thấy việc áp dụng nhiều đường vào để can thiệp 
là cần thiết với các tổn thương mạch phức tạp có chỉ 
định Hybrid, cho phép linh hoạt thay đổi cách tiếp 
cận tổn thương, thay đổi linh hoạt biện pháp xử trí 
tùy theo tiến trình của can thiệp hoặc phẫu thuật.
Cách tiếp cận vị trí ĐM tổn thương cần can thiệp 
nội mạch
Tổn thương cần can thiệp nội mạch thường gặp 
nhất trên các bệnh nhân của chúng tôi là tổn thương 
của ĐM chậu gốc, không có tổn thương khác cùng 
bên (bảng 2). Đường tiếp cận chúng tôi sử dụng 
chủ yếu là tiếp cận ngược dòng (retrograde) từ ĐM 
đùi chung cùng bên, có thể bao gồm ĐM được bộc 
lộ hoặc ĐM nhân tạo đã làm miệng nối (chiếm 
47,17% theo bảng 1). Cách tiếp cận này cho phép 
chúng tôi sử dụng guidewire ngắn, hạn chế các biến 
chứng trên đường đi của can thiệp nội mạch và tiết 
kiệm thời gian luồn dây dẫn, thời gian can thiệp. 
Số bệnh nhân được can thiệp từ ĐM đùi đối bên 
(crossover) chỉ chiếm 22,64% (bảng 1). Chúng 
tôi áp dụng biện pháp tiếp cận này với tổn thương 
nhiều vị trí trên cùng một chi, hoặc trong trường 
hợp can thiệp ngược dòng cùng bên thất bại. Kết 
quả này cũng tương ứng theo khuyến nghị về can 
thiệp nội mạch của Schneider[5]. Đây là ưu điểm 
lớn của kỹ thuật Hybrid so với kỹ thuật can thiệp nội 
mạch đơn thuần
- Với các can thiệp của ĐM đùi nông và dưới 
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.201776
gối, bệnh nhân của chúng tôi có tỷ lệ thấp hơn (chỉ 
37,74% theo bảng 2). Các bệnh nhân đều được 
lựa chọn cách tiếp cận xuôi dòng (antegrade) hoặc 
từ đối bên (crossover). Theo Tadros, khi tiếp cận 
trên ĐM đùi nông có thể lựa chọn 3 cách tiếp cận 
chính: xuôi dòng từ ĐM đùi chung, đối bên từ 
ĐM đùi chung bên đối diện và ngược dòng từ ĐM 
khoeo[6]. Không có bệnh nhân nào của chúng tôi 
áp dụng biện pháp tiếp cận ngược dòng do việc tiếp 
cận từ ĐM đùi chung hai bên đã đủ để tiếp cận và 
tiến hành can thiệp cho bệnh nhân. Việc can thiệp 
ngược dòng từ ĐM khoeo cần kỹ năng chọc mạch 
rất tốt, cần hỗ trợ của siêu âm mạch máu và người 
can thiệp được đào tạo bài bản.
Có hai bệnh nhân của chúng tôi phải sử dụng 
tiếp cận can thiệp mạch chi dưới sử dụng ĐM cánh 
tay. Đây là hai trường hợp có biến chứng lóc tách 
ĐM có thiếu máu chi và không thể vào lại lòng thật 
ĐM qua các đường chọc ĐM đùi chung. Chúng tôi 
can thiệp bằng phương pháp đặt Stent phủ qua vị 
trí tách thành mạch. Việc tiếp cận từ ĐM chi trên 
cho phép chúng tôi luồn dây dẫn (guidewire) vào 
đúng lòng thật của mạch máu, đây là đường tiếp 
cận cuối cùng và có những khó khăn do đường can 
thiệp dài, phải đi qua ĐM chủ ngực và bụng, cần 
can thiệp thời gian dài hơn và khó tiếp cận được các 
tổn thương dưới gối do dây dẫn không đủ dài.
Về lựa chọn phương pháp can thiệp ĐM
Hướng dẫn lựa chọn phương pháp can thiệp ĐM 
trên thế giới
a. Can thiệp trên tầng chủ chậu
Mặc dù các tác giả trên thế giới đã chứng minh 
kết quả lâu dài của đặt Stent ĐM chậu sẽ tốt hơn so 
với nong bóng ĐM chậu đơn thuần, trong nghiên 
cứu của chúng tôi vẫn có 6 BN (11,32%-bảng 2) 
được can thiệp ĐM chậu bằng phương pháp nong 
bóng đơn thuần. Chúng tôi áp dụng phương pháp 
này cho các bệnh nhân có tổn thương ngắn theo 
hướng dẫn của tác giả Schneider [5], và trong một 
số trường hợp là muốn tiết kiệm chi phí điều trị cho 
bệnh nhân khi không phải thanh toán tiền Stent.
b. Can thiệp trên ĐM đùi chung
Nong ĐM đùi đơn thuần cho các tổn thương 
ĐM đùi – khoeo ngắn có kết quả tương đối tốt. 
Nghiên cứu STAR thống kê số liệu tại 7 cơ sở y tế 
cho thấy kết quả nong mạch còn tốt sau 1, 2 và 3 
năm tương ứng là 87, 80 và 69% cho các mạch máu 
tổn thương trung bình 3,8cm[7]. Nghiên cứu FAST 
so sánh giữa nong ĐM đùi bằng bóng đơn thuần với 
đặt Stent tự nở (không phủ thuốc) cho tổn thương 
ĐM đùi dưới 10cm cho thấy không có sự khác biệt 
về kết quả giữa hai phương pháp trên sau 1 năm [8].
Nghiên cứu ABSOLUTE được tiến hành năm 
2004 sử dụng Stent nitinol tự nở cho các tổn 
thương dài trên 10cm, nhiều Stent đặt chồng lên 
nhau và kết quả cho thấy tỷ lệ tái hẹp ở nhóm 
nong bóng đơn thuần cao hơn so với nhóm đặt 
Stent, như vậy ở những tổn thương dài việc đặt 
Stent là có ý nghĩa [9].
Chúng tôi áp dụng đặt Stent trong trường hợp 
tổn thương dài trên 10cm, nong bóng trong các 
trường hợp mạch máu tổn thương ngắn dưới 10cm 
và trong một số trường hợp muốn tiết kiệm chi phí 
điều trị cho BN.
c. Can thiệp mạch dưới gối 
Tổn thương các mạch máu nhỏ ở cẳng chân 
trong bệnh ĐM chi dưới có đặc điểm là vôi hóa lan 
tỏa, là thách thức lớn cho can thiệp nội mạch do 
nguy cơ biến chứng cao và tỷ lệ tái hẹp cao xuất hiện 
sớm sau điều trị [10]. Phẫu thuật vẫn là biện pháp 
điều trị được lựa chọn ưu tiên cho các tổn thương 
mạch dưới gối do hiệu quả điều trị lâu dài tốt, tuy 
nhiên với những bệnh nhân có nguy cơ phẫu thuật 
cao thì can thiệp nội mạch vẫn chứng minh được vai 
trò do tỷ lệ tử vong và nằm viện thấp[1]. Chúng tôi 
vẫn áp dụng phương pháp can thiệp nội mạch cho 
các tầng tổn thương dưới gối do kỹ thuật phẫu thuật 
bắc cầu mạch ngoại biên là một kỹ thuật phức tạp, 
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017 77
Hình 2. Can thiệp nong, đặt Stent mạch chậu và nong miệng nối mạch dưới gối bị hẹp
Các biến chứng liên quan đến quá trình can 
thiệp nội mạch
Biến chứng liên quan đến vị trí chọc ĐM
Tỷ lệ biến chứng: Theo nghiên cứu tổng hợp 
của Ricci và cộng sự trên 7,690 bệnh nhân can thiệp 
mạch nói chung, tỷ lệ biến chứng của chọc ĐM là 
1% (111 bệnh nhân) trong đó có 41 bệnh nhân cần 
phẫu thuật, 10 bệnh nhân giả phồng 4 bệnh nhân 
thông ĐM-TM, tắc mạch 9 BN và nhiễm trùng là 5 
BN. Biến chứng chảy máu khác gặp ở 83 BN [11]. 
Ortiz và cộng sự nghiên cứu trên 22.226 BN can 
thiệp mạch chi dưới cho thấy có 936 (3,5%) BN 
có biến chứng. 74,4% là biến chứng nhẹ, 9,7% biến 
chứng cần truyền máu và 10,5% bệnh nhân cần phải 
mổ lại[12].
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho kết quả 
đáng khích lệ: không có bệnh nhân nào gặp biến 
chứng cần phải mổ lại, và nếu gặp biến chứng thì 
có thể xử trí ngay trong quá trình phẫu thuật/ 
can thiệp vì thủ thuật được thực hiện ngay trong 
phòng mổ với trang thiết bị phẫu thuật sẵn sàng; 
không có bệnh nhân nào gặp giả phồng mạch/
thông ĐM-TM sau điều trị (bảng 3).
Vấn đề áp dụng siêu âm trong chọc ĐM được 
các tác giả trên thế giới khuyến nghị, giúp hạn chế 
biến chứng xảy ra đặc biệt trong trường hợp chọc 
“mù”[4],[5]. Các bệnh nhân của chúng tôi chưa 
được sử dụng máy siêu âm nên chúng tôi còn có 
bệnh nhân gặp khối máu tụ vùng chọc mạch, có 
lẽ việc áp dụng siêu âm cần được đưa vào ở các 
bệnh nhân điều trị tiếp theo để giảm biến chứng 
dạng này.
bệnh nhân của chúng tôi tuổi cao và có nhiều vị trí 
mạch tổn thương khác cần được xử trí.
Tính đa dạng của các phương pháp can thiệp ĐM
Các bệnh nhân của chúng tôi có phương pháp 
điều trị đa dạng tại các vị trí khác nhau, bao gồm 
nong bóng đơn thuần, nong và đặt Stent, nong 
miệng nối mạch máu (hình 2) tuy nhiên còn chưa 
có bệnh nhân nào được áp dụng các biện pháp 
điều trị như dùng thiết bị cắt nội mạc mạch máu 
(atherectomy) và thiết bị bơm thuốc tiêu sợi huyết 
tại chỗ. Trong tương lai việc mở rộng đầu tư trang 
thiết bị, xây dựng bảo hiểm y tế sẽ giúp chúng tôi 
có nhiều kỹ thuật tiên tiến hơn nữa để áp dụng cho 
bệnh nhân.
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.201778
Biến chứng tại vị trí mạch can thiệp
Tỷ lệ biến chứng trên thế giới: Theo nghiên 
cứu tổng hợp can thiệp nội mạch tại các vị trí 
của Schillinger: Tỷ lệ biến chứng chung liên quan 
đến vị trí mạch can thiệp là 3,5% trong đó biến 
chứng huyết khối là 3,2% và vỡ mạch là 0,2%. 
Biến chứng trong quá trình tiếp cận mạch máu 
gặp 2,7% trong đó lóc tách gặp 0,4% và huyết tắc 
là 2,3% [12],[13].
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi rất đáng khích 
lệ: không có biến chứng huyết khối và huyết tắc, không 
có biến vỡ mạch cần can thiệp. Tỷ lệ biến chứng tách 
thành ĐM cao 7/42 BN (bảng 3) tuy nhiên nếu 
cần can thiệp (2 BN) có thể xử lý bằng can thiệp đặt 
Stent cố định lại thành mạch bị lóc tách thành công. 
Hybrid còn cho phép giải quyết biến chứng linh 
hoạt, chúng tôi có thể tiến hành phẫu thuật ngay để 
xử trí các biến chứng nặng như vỡ mạch máu không 
điều trị được bằng nong bóng, tắc mạch máu hoặc 
lóc tách mạch máu không thể xử trí bằng can thiệp 
nội mạch. Một vấn đề nữa cần đặt ra là cần cải thiện 
tỷ lệ gặp biến chứng lóc tách mạch máu nhờ việc sử 
dụng các dây dẫn (guidewire) đúng kích thước, tăng 
cường huấn luyện và thực hành thao tác đúng.
KẾT LUẬN
Đường vào trong Hybrid cho bệnh ĐM chi 
dưới rất đa dạng, phẫu thuật tạo thêm đường vào 
cho can thiệp nội mạch trong Hybrid đồng thời 
phẫu thuật cũng cho phép xử trí tổn thương ngay 
trong quá trình phối hợp phẫu thuật và can thiệp 
nội mạch. Nhìn chung tỷ lệ biến chứng liên quan 
đến vị trí chọc mạch của chúng tôi thấp hơn so 
với tất cả nghiên cứu về can thiệp nội mạch đơn 
thuần. Lựa chọn phương pháp can thiệp mạch 
trong Hybrid đa dạng, phụ thuộc vào hình thái 
của tổn thương. Các biến chứng liên quan đến 
vị trí can thiệp mạch có thể gặp trong quá trình 
điều trị bệnh nhân nhưng có thể được linh hoạt 
thay thế bằng can thiệp hoặc phẫu thuật khác. 
Có thể hạn chế các biến chứng mà chúng tôi gặp 
phải bằng áp dụng siêu âm định hướng đường 
vào trong chọc mạch máu, cũng như không 
ngừng học hỏi kinh ngiệm và nâng cao tay nghề, 
áp dụng trang thiết bị vật tư hiện đại. Việc xây 
dựng và kiện toàn hệ thống bảo hiểm y tế cũng 
sẽ giúp chúng tôi có nhiều cơ hội hơn nữa ứng 
dụng những tiến bộ mới nhất của y học thế giới 
cho bệnh nhân.
SUMMARY
Assessment Site and intervention technique selection in combining open surgery and endovascular 
interventions (Hybrid) for peripheral artery disease (PAD) play important role in limiting complications and 
enhancing the success rate of treatment. We report assessment sites, approach methods and techniques, 
complications of interventions in patients treated at Viet Duc University Hospital and Hanoi Medical 
University Hospital during 12/2014 - 05. / 2017. Results: 42 patients, 38 was male, the average age was 
73.5. 47.62% of patients used multiple assessment sites. 73,33% of assessment sites are common femoral 
artery. Exposed arteries and post-anasmotic vascular protheses are feasible. Approach methods conclude 
antegrade 26.42%; Retrograde 47.17%; Crossover 22.64% and upper extremity approaches 3.77%. The 
method of intervention varies depending on lesions. Prevalence of iliac artery interventions 62.26%. The 
rate of complications is low and complications can be managed during treatment.
Keywords: PAD, vascular intervention, hybrid.
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Michael H. Criqui and Victor Aboyans (2015). “Epidemiology of Peripheral Artery Disease” Circulation 
Research April 24, Volume 116, Issue 9.
2. Nguyễn Duy Thắng, Đoàn Quốc Hưng, Nguyễn Hữu Ước, Phạm Quốc Đạt (2013) “Kết quả phối 
hợp phẫu thuật và can thiệp nội mạch một thì (Hybrid) trong điều trị bệnh lý mạch máu tại Bệnh viện hữu 
nghị Việt Đức”. Tạp chí y học thực hành số 7(876)/ tr 43-46
3. Dobies DR, Barber KR, Cohoon AL. “Analysis of safety outcomes for radial versus femoral access for 
percutaneous coronary intervention from a large clinical registry” Open Heart 2016;3:e000397.
4. Craig R. Narins: “Access strategies for peripheral arterial intervention”. Cardiology Journal 2009, Vol. 16, 
No. 1, pp. 88–97.
5. Schneider PA. Endovascular Skills, 3rd Ed. New York: Informa 2009
6. Tadros RO, Vouyouka AG, Ting W, Teodorescu V, Kim SY, et al. (2015) A Review of Superficial 
Femoral Artery Angioplasty and Stenting. J Vasc Med Surg 3:183.
7. Clark TW, Groffsky JL, Soulen MC: “Predictors of long-term patency after femoropopliteal angioplasty: 
Results from the STAR registry”. J Vasc Interv Radiol. 2001 Aug; 12(8):923-33.
8. Krankenberg H, Schlüter M, Steinkamp HJ, Bürgelin K, Scheinert D, Schulte KL, Minar E, Peeters 
P, Bosiers M, Tepe G, Reimers B, Mahler F, Tübler T, Zeller T: “Nitinol Stent implantation versus 
percutaneous transluminal angioplasty in superficial femoral artery lesions up to 10 cm in length: The 
femoral artery Stenting trial (FAST)”. Circulation. 2007 Jul 17; 116(3):285-92.
9. Schillinger M, Sabeti S, Loewe C, Dick P, Amighi J, Mlekusch W, Schlager O, Cejna M, Lammer J, 
Minar E: “Balloon angioplasty versus implantation of nitinol Stents in the superficial femoral artery. N Engl 
J Med”. 2006 May 4; 354(18):1879-88.
10. Bishop PD, Feiten LE, Ouriel K, et al. “Arterial calcification increases in distal arteries in patients with 
peripheral arterial disease”. Ann Vasc Surg. 2008; 22:799-805. Epub July 21, 2008.
11. Ricci MA, Trevisani GT, Pilcher DB (1994). Vascular complications of cardiac catheterization. 
American Journal of Surgery [01 Apr, 167(4):375-378].
12. Ortiz D1, Jahangir A1, Singh M1, Allaqaband S1, Bajwa TK1, Mewissen MW2 2014 “Access site 
complications after peripheral vascular interventions: incidence, predictors, and outcomes”. Circ Cardiovasc 
Interv. Dec;7(6):821-8.
13. Đoàn Quốc Hưng, Nguyễn Duy Thắng (2016). Cập nhật hướng dẫn điều trị quốc tế và kết quả phối 
hợp phẫu thuật-can thiệp bệnh động mạch chi dưới. Tạp chí tim mạch học Việt Nam, 77:10-19

File đính kèm:

  • pdflua_chon_duong_vao_va_phuong_phap_can_thiep_noi_mach_trong_p.pdf