Lợi ích tinh thần cảm nhận khi mua hàng trực tuyến
TÓM TẮT
Thị trường thương mại điện tử tại Việt Nam đang phát triển một cách nhanh chóng trong thời
gian gần đây. Hiểu được lợi ích mà khách hàng cảm nhận sẽ mang lại lợi thế cho các doanh nghiệp.
Nghiên cứu này phát triển và xác nhận thang đo để đo lường lợi ích tinh thần cảm nhận của khách
hàng khi họ mua hàng trên các trang thương mại điện tử tại Việt Nam. Nghiên cứu dựa trên các lý
thuyết về hành vi dự định, lý thuyết sự tự quyết, mô hình chấp nhận công nghệ, thuyết học tập và
kiến tạo, học thuyết riêng tư và lý thuyết hiệu ứng truyền thông thuyết phục. Phương pháp nghiên
cứu hỗn hợp được áp dụng với phương pháp định tính (khảo sát chuyên gia, thảo luận nhóm) và
phương pháp định lượng (khảo sát bằng bảng câu hỏi với 917 đáp viên). Kết quả nghiên cứu đã
chỉ ra lợi ích tinh thần cảm nhận được xem như một khái niệm bậc hai gồm năm khía cạnh (cảm
nhận mua sắm thú vị, cảm nhận tương tác xã hội, cảm nhận kín đáo, cảm nhận kiểm soát và cảm
nhận an tâm) với 23 biến quan sát. Trên cơ sở khảo sát các đối tượng có sự hiểu biết và sử dụng
thương mại điện tử, kết quả phân tích cho thấy thang đo này đảm bảo tính hữu hiệu, độ tin cậy,
tính đơn hướng và giá trị hội tụ. Những hàm ý quản trị cũng như đề xuất cho nghiên cứu trong
tương lai cũng được thảo luận trong bài.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Lợi ích tinh thần cảm nhận khi mua hàng trực tuyến
Nguyễn M. Hà và Bùi T. Khoa. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 14(1), 3-17 3 LỢI ÍCH TINH THẦN CẢM NHẬN KHI MUA HÀNG TRỰC TUYẾN NGUYỄN MINH HÀ1,*, BÙI THÀNH KHOA2 1Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh 2Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh *Email: ha.nm@ou.edu.vn (Ngày nhận: 26/12/2018; Ngày nhận lại: 04/01/2018; Ngày duyệt đăng: 14/01/2019) TÓM TẮT Thị trường thương mại điện tử tại Việt Nam đang phát triển một cách nhanh chóng trong thời gian gần đây. Hiểu được lợi ích mà khách hàng cảm nhận sẽ mang lại lợi thế cho các doanh nghiệp. Nghiên cứu này phát triển và xác nhận thang đo để đo lường lợi ích tinh thần cảm nhận của khách hàng khi họ mua hàng trên các trang thương mại điện tử tại Việt Nam. Nghiên cứu dựa trên các lý thuyết về hành vi dự định, lý thuyết sự tự quyết, mô hình chấp nhận công nghệ, thuyết học tập và kiến tạo, học thuyết riêng tư và lý thuyết hiệu ứng truyền thông thuyết phục. Phương pháp nghiên cứu hỗn hợp được áp dụng với phương pháp định tính (khảo sát chuyên gia, thảo luận nhóm) và phương pháp định lượng (khảo sát bằng bảng câu hỏi với 917 đáp viên). Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra lợi ích tinh thần cảm nhận được xem như một khái niệm bậc hai gồm năm khía cạnh (cảm nhận mua sắm thú vị, cảm nhận tương tác xã hội, cảm nhận kín đáo, cảm nhận kiểm soát và cảm nhận an tâm) với 23 biến quan sát. Trên cơ sở khảo sát các đối tượng có sự hiểu biết và sử dụng thương mại điện tử, kết quả phân tích cho thấy thang đo này đảm bảo tính hữu hiệu, độ tin cậy, tính đơn hướng và giá trị hội tụ. Những hàm ý quản trị cũng như đề xuất cho nghiên cứu trong tương lai cũng được thảo luận trong bài. Từ khóa: Lợi ích tinh thần cảm nhận; Mua hàng trực tuyến; Thương mại điện tử. Perceived mental benefits of online shopping ABSTRACT The e-commerce market in Vietnam has been developing rapidly in recent years. Understanding customers’ perceived benefits will bring great advantages for businesses. This research develops and validates a scale to measure customers’ perceived mental benefits when shopping on e-commerce sites in Vietnam. The scale based on Theory of Planned Behavior, Self- determination Theory, Technology Acceptance Model, Learning and Constructivism Theory, Theory of Privacy, and Persuasive Communication Theory. The mixed method is applied using both qualitative methods (in-depth interview, focus group discussion) and a quantitative method (questionnaire survey with 917 respondents). The results indicate that the perceived mental benefit is a second-order factor of five dimensions (perceived shopping enjoyment, perceived social interaction, perceived discreet, perceived control and perceived credibility) with 23 variables. Based on the survey of knowledgeable respondents using e-commerce, the analysis results show that this scale ensures validity, reliability, unidimensionality and convergent validity. The managerial implications and suggestions for future research are also discussed. Keywords: E-commerce; Online shopping; Perceived mental benefit. 4 Nguyễn M. Hà và Bùi T. Khoa. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 14(1), 3-17 1. Giới thiệu Tổng lợi ích của khách hàng là giá trị được nhận thức bao gồm các thành phần lợi ích kinh tế, chức năng và tâm lý mà khách hàng mong đợi từ một người bán nhất định dựa trên sản phẩm, dịch vụ, con người và hình ảnh được cung cấp (Kotler và Keller, 2016). Thương mại điện tử đã mang lại rất nhiều lợi ích cho khách hàng so với thương mại truyền thống. Nhiều nhà nghiên cứu đã thảo luận về những lợi ích của thương mại điện tử như tính thuận tiện khi mua hàng, sự dễ dàng trong sự chọn lựa sản phẩm, tính dễ dùng trong việc thao tác cũng như quy trình mua hàng trực tuyến hay sự vui thích của khách hàng khi thực hiện giao dịch trực tuyến. Người mua được hưởng lợi từ mua sắm thương mại điện tử như siêu tốc độ, hiệu quả mua sắm, chi phí thấp hơn và phục vụ 24 giờ và hỗ trợ thường xuyên (Law và Hsu, 2006). Li và cộng sự (2006) đã nghiên cứu lại một số quan điểm trước đó, và cuối cùng thừa nhận ba lợi ích lớn liên quan đến hành vi mua hàng trực tuyến: (1) Lợi ích về giá; (2) lợi ích thuận tiện; và (3) lợi ích giải trí. Tsai và cộng sự (2011) thừa nhận rằng nhận thức hữu ích, khả năng cá nhân hóa và tùy chỉnh sản phẩm lợi ích thông qua mua hàng trực tuyến theo nhóm. Sheth (1981) đề xuất rằng các yếu tố cá nhân của việc mua sắm truyền thống có thể được hiểu rộng rãi là bị ảnh hưởng bởi các lý do chức năng và phi chức năng. Các động lực chức năng được xác định bởi các yếu tố bao gồm sự thuận tiện, đa dạng sản phẩm và chất lượng hàng hóa và giá cả, trong khi các động lực phi chức năng liên quan đến cảm xúc thích thú, trải nghiệm mua sắm. Trong khi những nghiên cứu về lợi ích chức năng của thương mại điện tử được quan tâm bởi nhiều nhà nghiên cứu, thì lợi ích phi chức năng ít được chú ý và nhắc đến. Cũng theo báo cáo Thương mại điện tử 2017 về các nhân tố được người tiêu dùng chú ý khi mua sắm trực tuyến, có 69% người được khảo sát cho biết họ rất quan tâm đến uy tín của người bán, vấn đề giải trí trong việc mua sắm trực tuyến cũng được 58% người được khảo sát lựa chọn. Ngoài ra chính sách riêng tư có 38% quan tâm, dịch vụ khách hàng 50% lựa chọn, chính sách đổi trả 55% lựa chọn (VECITA, 2017). Tóm lại, người tiêu dùng không chỉ tập trung đến lợi ích tiền tệ hay quy trình mà họ còn xem xét đến giá trị tinh thần khi mua sắm tại các trang mạng thương mại điện tử. Khái niệm “tinh thần” có liên quan đến trí tuệ như được diễn giải với hoạt động tình cảm hoặc tham gia vào quá trình suy nghĩ (Oxford, 2009). Từ đó, chúng ta có thể được kết luận lợi ích tinh thần khi mua sắm trực tuyến là những lợi ích thuộc về giá trị tâm lý, cảm xúc mà cá nhân cảm nhận khi mua sắm trực tuyến. Về lợi ích tinh thần cảm nhận, Chandon và cộng sự (2000) đã xác định tất cả những lợi ích thu được từ việc sử dụng và hưởng thụ sản phẩm liên quan đến giải trí, thăm dò, và biểu hiện của giá trị bao gồm niềm vui, cảm xúc, và lòng tự trọng. Bên cạnh đó, lợi ích tinh thần cảm nhận là chủ đề mới, ít có nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước. Mục đích của nghiên cứu này là xây dựng một thang đo lường cụ thể cho sự cảm nhận về lợi ích tinh thần khi mua hàng trực tuyến từ đó đề xuất một số hàm ý chính sách mà các doanh nghiệp thương mại điện tử nên thực hiện nhằm tối đa hóa lợi ích tinh thần cho khách hàng trực tuyến cũng như xây dựng nên một cấu trúc mới trong lĩnh vực khoa học nghiên cứu tâm lý, hành vi tiêu dùng, thương mại điện tử từ đây làm cơ sở cho các nghiên cứu tiếp theo. 2. Lý thuyết nền Lý thuyết về sự tự quyết được nghiên cứu bởi Deci và Ryan (1985). Lý thuyết về sự tự quyết là một cách tiếp cận động lực và tính cách con người trong bối cảnh xã hội. Theo lý thuyết này, có ba nhu cầu tâm lý cơ bản đáp ứng động lực bên trong và gắn với việc thực hiện một hành động nhằm đạt được một kết quả không có liên quan đến hành động (Ryan và Deci, 2000). Nghiên cứu xác định động lực bên trong gắn với việc thực hiện hành vi bởi những hứng thú liên quan trực tiếp đến hành động chứ không phải bởi một kết quả không có liên quan. Theo đó, động lực nội tại là sự quan tâm, hưởng Nguyễn M. Hà và Bùi T. Khoa. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 14(1), 3-17 5 thụ hoặc hài lòng. Thông qua lý thuyết này, có thể giải thích được khách hàng khi mua hàng trực tuyến sẽ bị ảnh hưởng không chỉ bởi các động lực bên ngoài mà còn có cả các động lực bên trong đó là các cảm nhận về lợi ích tinh thần khi mua sắm trực tuyến. Thuyết hành vi dự định được Ajzen (1991) xây dựng dựa trên lý thuyết hành động hợp lý bằng cách bổ sung thêm biến “Nhận thức điều khiển hành vi” (PBC). PBC này bị tác động bởi hai biến số là niềm tin kiểm soát và sự dễ dàng cảm nhận. Niềm tin kiểm soát được định nghĩa là một cá nhân cảm thấy tự tin về khả năng của anh/cô ta để thực hiện một hành vi, tương tự như sự tự tin. Tính dễ sử dụng được định nghĩa đó là sự đánh giá của một cá nhân về các nguồn lực cần thiết để đạt được kết quả. Trong thương mại điện tử, các cá nhân có thể dễ dàng nhận được các quảng cáo phù hợp với nhu cầu từ các nhà cung cấp khi cung cấp thông tin trên trang web bán hàng hoặc phơi bày thông tin trên các trang mạng xã hội, đây là khái niệm cá nhân hóa (personalization). Đồng thời, khi công nghệ phát triển, các khách hàng có thể tự tạo ra các sản phẩm đúng với nhu cầu, thể trạng của bản thân (customization). Mô hình chấp nhận công nghệ (TAM) do Davis đề xuất vào năm 1989 (Davis, 1989), được phát triển từ lý thuyết hành vi để dự đoán sự chấp nhận của con người đối với các hệ thống công nghệ thông tin. Mô hình chấp nhận công nghệ gợi ý rằng tính hữu dụng và cảm nhận dễ sử dụng ảnh hưởng đến thái độ sử dụng hệ thống, và thái độ ảnh hưởng đến ý định của người dùng và ý định sử dụng thì ảnh hưởng đến hành vi chấp nhận của người dùng về các hệ thống công nghệ thông tin. Mô hình TAM cung cấp giải thích về các yếu tố ảnh hưởng đến tín thác của người dùng (cảm nhận dễ sử dụng, nhận thức hữu ích) về thái độ và mục đích sử dụng cho một hệ thống dịch vụ hoặc công nghệ. Thương mại điện tử phát triển dựa trên các yếu tố công nghệ như máy vi tính, thiết bị cầm tay (điện thoại di động thông minh, máy tính bảng,) và Internet, việc chấp nhận sử dụng thương mại điện tử cũng sẽ xuất phát từ các cảm nhận của người dùng về lợi ích của chính hệ thống này, đặc biệt là những hữu ích về mặt tinh thần. Lý thuyết kiến tạo xã hội được xây dựng bởi Vygostski (1985). Xuất phát từ lý thuyết kiến tạo (Piaget và Inhelder, 1967), lý thuyết kiến tạo xã hội đưa thêm khái niệm tương tác xã hội, có nghĩa là người học tương tác với những người khác để kiến tạo kiến thức của mình. Tương tác xã hội giữa những người tham gia đóng một vai trò quan trọng trong bối cảnh học tập được xem là nguồn phát triển nhận thức. Lý thuyết này cung cấp một sự hiểu biết sâu hơn về cách cá nhân có được kiến thức bằng cách tương tác với một người có kiến thức tích cực. Sự tham gia và tương tác của các thành viên trong các cuộc thảo luận nhóm cung cấp cho họ cơ hội để tổng quát và chuyển giao kiến thức của họ, tổng hợp ý tưởng của người khác và xây dựng một sự hiểu biết để tạo điều kiện học tập. Mua sắm trực tuyến là quá trình mang lại nhiều lợi ích nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro cho người tiêu dùng. Người mua cần có những hiểu biết nhất định để tránh khỏi những rủi ro không đáng có. Học tập qua tương tác xã hội với các người mua khác là một trong những cách để hiểu biết về quá trình mua hàng và các kinh nghiệm trong việc mua hàng hóa, dịch vụ trực tuyến. Thông qua Internet, khách hàng có thể trao đổi qua tin nhắn, xem các bình luận hay chia sẻ những hiểu biết của mình với các khách hàng khác một cách đơn giản và dễ dàng. Theo mô hình giới hạn/kiểm soát hạn chế (Restricted Access/Limited Control - RALC), một cá nhân có quyền riêng tư trong một tình huống liên quan đến những người khác, có nghĩa là cá nhân đó được bảo vệ khỏi xâm nhập, can thiệp và truy cập thông tin bởi người khác (Moor 1997). Khái niệm về “tình huống” có vai trò quan trọng trong định nghĩa về quyền riêng tư, sự vô ý hoặc cố ý đều có thể xâm phạm sự riêng tư. Một tình huống có thể là một "hoạt động ở một địa điểm", "một mối quan hệ" (Moor, 1990). Với các tình huống riêng tư, có thể bao gồm các địa điểm như cửa hàng, quầy phục vụ, quầy tính tiền (Tavani và Moor 2001). 6 Nguyễn M. Hà và Bùi T. Khoa. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 14(1), 3-17 Vì lý thuyết RALC liên kết khái niệm về quyền riêng tư với khái niệm bảo vệ cá nhân bằng cách giới hạn hoặc hạn chế quyền truy cập, xâm phạm hay nắm bắt được hành động con người hoặc thông tin về người đó. Mua hàng tại các siêu thị hay điểm bán hàng tạo ra thuận lợi cho khách hàng trong việc lựa chọn hàng hóa, dịch vụ. Tuy nhiên, các mặt hàng thuộc về sức khỏe cá nhân hay có tính liên quan đến tình dục cũng là các sản phẩm khó để mua trực tiếp vì tính nhạy cảm khi mua ở nơi đông người (Do và cộng sự, 2014). Lý thuyết hiệu ứng truyền thông thuyết phục cho rằng có năm yếu tố chính ảnh hưởng đến hiệu ứng truyền thông, những yếu tố này tương ứng với các yếu tố cơ bản của quá trình truyền thông - nguồn, kênh, thông điệp, người nhận và ngữ cảnh. Các đặc điểm của một nguồn thuyết phục tập trung vào cách mọi người cảm nhận các đặc điểm của một nguồn về mặt chuyên môn, sự tin cậy và các khía cạnh khác (O'keefe, 2002). Ngoài sự tín nhiệm nguồn, các yếu tố nguồn khác, chẳng hạn như ý thích, sự giống nhau và sức hấp dẫn của một nguồn cũng đã được nghiên cứu là có thể ảnh hưởng đến hiệu ứng thuyết phục (Cunningham và Bright, 2012). Ngày nay, khách hàng vừa là người nhận thông tin và cũng đồng thời là người tạo ra thông tin (Bruns, 2008). Các yếu tố theo ngữ cảnh, với sự phát triển của các trang mạng xã hội như Twitter hay Facebook hoặc các diễn đàn... thì các kênh truyền thông đang tạo ra ảnh hưởng sâu rộng và nhiều đến việc nhận thức của khách hàng. Việc xây dựng một hiệu quả truyền thông thuyết phục sẽ tạo ra sự an tâm cho khách hàng khi mua hàng trực tuyến, nơi khách hàng không thể hoặc rất khó để kiểm tra sản phẩm trước khi mua. Tạo ra các yếu tố an tâm cho khách hàng cũng chính là tạo cho khách hàng sự tin cậy được xem như là một lợi ích cho khách hàng khi mua hàng trực tuyến. 3. Phát triển thang đo lợi ích tinh thần cảm nhận Sheth (1981) đề xuất rằng các yếu tố cá nhân của việc mua sắm truyền thống có thể được hiểu rộng rãi như là bị ảnh hưởng bởi các lý do chức năng và phi chức năng. Động lực chức năng bao gồm sự tiện lợi, đa dạng sản phẩm và chất lượng hàng hóa và giá cả, trong khi động cơ phi chức năng liên quan đến yêu cầu xã hội và cảm xúc để thưởng thức, kinh nghiệm mua sắm hấp dẫn. Tất cả những động cơ này cũng là những yếu tố có lợi cho người tiêu dùng mua hàng trực tuyến. Mua sắm trực tuyến cũng giúp người tiêu dùng thuận tiện mà không có bất kỳ sự xấu hổ vì không mua bất cứ thứ gì và chỉ duyệt các sản phẩm (Forsythe và cộng sự, 2006). Khi mua sắm, đôi khi khách hàng đề cao việc mua sắm giải trí hơn là chất lượng của sản phẩm. Sự tiêu khiển liên quan đến hành vi tiêu dùng trong việc tìm kiếm hạnh phúc, đánh thức, cảm giác, và thú vị. Động cơ mà người tiêu dùng thích mua sắm là việc thưởng thức quá trình mua sắm chứ không phải là hoàn thành mục tiêu thể chất hoặc cố gắng hoàn thành vai trò của người tiêu dùng. Nói cách khác, nghiên cứu về động cơ tiêu khiển là nghiên cứu về việc thưởng thức mua sắm. Trong các nghiên cứu trước đây, một số tác giả đã phân loại giá trị tiêu khiển của việc mua sắm trên mạng bao gồm khám phá, xã hội, ý tưởng, giá trị, quyền hạn và địa ... iển của công nghệ, thương mại điện tử giúp cho các khách hàng có thể tạo ra các sản phẩm mang thuộc tính “độc”. Khái niệm cảm nhận kiểm soát đã được đề cập trong lý thuyết TPB (Ajzen, 1991) và được thực nghiệm trong mô hình xác định lợi ích tinh thần cảm nhận này. Việc tạo ra các sản phẩm phù hợp với sở thích, nhu cầu riêng của bản thân tạo ra cảm giác kiểm soát khi mua hàng. Ngoài ra, thương mại điện tử giúp khách hàng cảm thấy dễ dàng, thoải mái hơn khi có tính năng cá nhân hóa. Theo Khánh (2017), các doanh nghiệp trực tuyến có sự hiểu biết rõ ràng về khách hàng thông qua bởi các dữ liệu từ các kênh mạng xã hội như Facebook, Instagram, Youtube, công cụ thanh toán điện tử họ sử dụng, những game họ chơi. “Big data” của khách hàng chính là chìa khóa để đội ngũ marketing vẽ được chân dung khách hàng một cách chính xác (Tynan, 2018). Các nhà bán lẻ điện tử nên đánh giá tác động của việc tùy biến hàng loạt trong kinh doanh của họ như cung cấp một cách mới để bán phương thức sản phẩm, mang lại cho khách hàng nhiều không gian hơn để tham gia vào các sản phẩm của riêng họ. Hệ thống bán lẻ để phân tích các hoạt động của khách hàng, để tìm hiểu sở thích, mối quan tâm hay nhu cầu của họ hoặc có thể liên kết với bên thứ ba để có thêm thông tin về hành vi của khách hàng để phát triển doanh nghiệp. Dựa theo lý thuyết hiệu ứng truyền thông Cunningham và Bright (2012), lợi ích tinh thần cuối cùng mà thương mại điện tử mang lại cho người mua đó chính là sự an tâm. Theo báo cáo The Tetra Pak (2017), trong giai đoạn lòng tin dễ rơi vào khủng hoảng như hiện nay, người tiêu dùng ngày càng tin vào “những người như chúng tôi”, tức những người thật, cùng chia sẻ những giá trị, sự ưu tiên và quan điểm trong cuộc sống. Những thông tin từ bên thứ ba, những nhận xét từ người tiêu dùng độc lập đang trở thành nguồn ảnh hưởng quan trọng tiếp theo đối với người tiêu dùng. Những thông tin thể hiện rõ ràng trên web, danh tiếng của doanh nghiệp trên thị trường trực tuyến, những nhận xét tốt hay xấu về doanh nghiệp trên diễn đàn hay trang mạng xã hội hoặc số lượng người mua tại các trang mạng và sự phát triển của thương mại điện tử tại Việt Nam đã phần nào gỡ bỏ tâm lý e ngại mua hàng trực tuyến của khách hàng ngày nay. Các nhà bán lẻ điện tử nên cung cấp trang của họ với chứng nhận đủ điều kiện hoặc chứng nhận về bán hàng để nâng cao độ tin cậy của khách hàng khi họ truy cập vào trang web. Tạo giao diện thú vị cho trang web của họ mà không có sai ngữ pháp, lỗi mã và chứng minh các hiệu quả để đảm bảo cảm giác của khách hàng khi họ lướt web là một cách để tăng độ tin cậy của khách hàng. Cải thiện độ tin cậy của nhà bán lẻ điện tử bằng cách cung cấp trang web bảo đảm của họ bằng bên thứ ba đáng tin cậy như chính phủ hoặc thương hiệu nổi tiếng. 7. Kết luận, hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo Nghiên cứu đã sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính bao gồm tổng hợp từ các tài liệu nghiên cứu trước đây cũng như phương 14 Nguyễn M. Hà và Bùi T. Khoa. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 14(1), 3-17 pháp chuyên gia, thảo luận nhóm để xây dựng được thang đo các khái niệm trong mô hình biến phản ánh lợi ích tinh thần cảm nhận. Lợi ích tinh thần cảm nhận được xem như một khái niệm bậc 2 gồm 5 khía cạnh (cảm nhận mua sắm thú vị, cảm nhận tương tác xã hội, cảm nhận kín đáo, cảm nhận kiểm soát và cảm nhận an tâm) với 23 biến quan sát. Dựa trên dữ liệu khảo sát (917 quan sát), nghiên cứu đã sử dụng các kiểm định Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá (EFA), phân tích nhân tố khẳng định (CFA), và phân tích mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM) để chứng tỏ những thang đo này đều đảm bảo được giá trị nội dung, độ tin cậy, tính đơn hướng, giá trị hội tụ. Kết quả đã cho thấy mức độ quan tâm và đánh giá các lợi ích tinh thần cảm nhận bởi khách hàng được sắp xếp theo thứ tự quan tâm giảm dần bao gồm cảm nhận kín đáo, cảm nhận mua sắm thú vị, cảm nhận tương tác xã hội, cảm nhận kiểm soát và cảm nhận an tâm. Từ đó, nghiên cứu đã đề xuất một số hàm ý cho các doanh nghiệp kinh doanh trực tuyến trong việc nâng cao lợi ích cảm nhận cho khách hàng ở khía cạnh tinh thần. Giống như các dự án nghiên cứu khác, tuy đã nỗ lực hết sức nhưng nghiên cứu này cũng có nhiều hạn chế. Mặc dù Thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố lớn, mật độ dân cư cao và khoa học phát triển nhất cả nước tuy nhiên nghiên cứu này chỉ được thực hiện tại Thành phố Hồ Chí Minh nên khả năng khái quát hóa các kết quả của nghiên cứu có thể không đáng kể do giới hạn phạm vi nghiên cứu và kích thước mẫu. Để tăng độ tin cậy của mô hình nghiên cứu, nghiên cứu nên được tiến hành trên quy mô toàn quốc, không chỉ ở Thành phố Hồ Chí Minh. Phương pháp lấy mẫu có thể sử dụng phương pháp xác suất để tăng độ tin cậy cho kết quả bằng cách kết hợp với các doanh nghiệp thương mại điện tử lớn để có danh sách mẫu cụ thể. Có thể nghiên cứu thêm các yếu tố khác có liên quan đến lợi ích tinh thần cảm nhận như chi phí tinh thần cảm nhận, giá trị cảm nhận để nhận thức rõ hơn về hành vi của người tiêu dùng trực tuyến Tài liệu tham khảo Ajzen, I. (1985). From intentions to actions: A theory of planned behavior. In Action control. Berlin, Heidelberg Springer. Ajzen, I. (1991). The theory of planned behavior. Organizational behavior and human decision processes, 50, 179-211. Akram, U. et al (2018). Factors Affecting Online Impulse Buying: Evidence from Chinese Social Commerce Environment. Sustainability, 10, 352. Arnold, M. J. & Reynolds, K. E. (2003). Hedonic shopping motivations. Journal of retailing, 79, 77-95. Baek, T. H., Kim J. & Yu, J. H. (2010). The differential roles of brand credibility and brand prestige in consumer brand choice. Psychology & Marketing, 27, 662-678. Bandura, A. (1997). Self-efficacy: The exercise of control, Macmillan. Bhatnagar, A. & Ghose, S. (2004a). A latent class segmentation analysis of e-shoppers. Journal of business research, 57, 758-767. Bhatnagar, A. & Ghose, S. (2004b). Segmenting consumers based on the benefits and risks of Internet shopping. Journal of Business Research, 57, 1352-1360. Nguyễn M. Hà và Bùi T. Khoa. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 14(1), 3-17 15 Bruns, A. (2008). Blogs, Wikipedia, Second Life, and beyond: From production to produsage, Peter Lang. Burke, R. R. (1997). Do you see what I see? The future of virtual shopping. Journal of the Academy of Marketing Science, 25, 352-360. Butler, B. et al. (2002). Community effort in online groups: Who does the work and why. Leadership at a distance: Research in technologically supported work, 1, 171-194. Cunningham, N. & Bright, L. F. (2012). The Tweet Is in Your Court: Measuring Attitude Towards Athlete Endorsements in Social Media. International Journal of Integrated Marketing Communications, 4(2). Chandon, P., Wansink, B. & Laurent, G. (2000). A benefit congruency framework of sales promotion effectiveness. Journal of Marketing, 64, 65-81. Childers, T. L. et al. (2002). Hedonic and utilitarian motivations for online retail shopping behavior. Journal of retailing, 77, 511-535. Davis, F. D. (1989). Perceived usefulness, perceived ease of use, and user acceptance of information technology. MIS quarterly, 13(3), 319-340. Deci, E. & Ryan, R. M. (1985). Intrinsic motivation and self-determination in human behavior, Springer Science & Business Media. Do, T. H. et al. (2014). Determinants of condom use at sexual debut among young Vietnamese. International journal of adolescent medicine and health, 26, 403-410. Du, X., Jiao, J. & Tseng, M. (2001). Product platform planning for mass customization. Department of Industrial Engineering & Engineering Management, The Hong Kong University of Science and Technology, Hong Kong. Eastlick, M. A. & Feinberg, R. A. (1999). Shopping motives for mail catalog shopping. Journal of Business Research, 45, 281-290. Estes, J. et al. (2007). Method for shipping a package privately to a customer. Google Patents. Forsythe, S. at al. (2006). Development of a scale to measure the perceived benefits and risks of online shopping. Journal of interactive marketing, 20, 55-75. Freeman, K. S. & Spyridakis, J. H. (2004). An examination of factors that affect the credibility of online health information. Technical Communication, 51, 239-263. Godek, J. (2003). Customization decisions: The effects of perceived control and decomposition on evaluations presented at Association for Consumer Research Annual Conference, Toronto, Canada. Godek, J. & Yates, J. F. (2005). Marketing to individual consumers online: The influence of perceived control. Online consumer psychology:Understanding and influencing consumer behavior in the virtual world, 225-244. Gupta, A., Bansal, R. & Bansal, A. (2013). Online shopping: A shining future. International Journal of Techno-Management Research, 1, 1-10. Hair, J. F. et al. (2010). Multivariate data analysis: A global perspective, Pearson Upper Saddle River, NJ. 16 Nguyễn M. Hà và Bùi T. Khoa. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 14(1), 3-17 Han, J. & Han, D. (2001). A framework for analyzing customer value of internet business. JITTA: Journal of Information Technology Theory and Application, 3, 25. Hovland, C. I., Janis, I. L. & Kelley, H. H. (1953). Communication and persuasion; psychological studies of opinion change. New Haven, Yale University Press Hui, M. K. & Bateson, J. E. (1991). Perceived control and the effects of crowding and consumer choice on the service experience. Journal of consumer research, 18, 174-184. Jarvenpaa, S. L. & Todd, P. A. (1997). Is there a future for retailing on the Internet. Electronic marketing and the consumer, 1, 139-154. Kahn, R. E. & Cerf, V. G. (1999). What is the internet (and what makes it work)? Open Architecture, 17. Korgaonkar, P. & Wolin, L. D. (2002). Web usage, advertising, and shopping: relationship patterns. Internet Research, 12, 191-204. Kotler, P. & Keller, K. L. (2016). Marketing management, Pearson. Koufaris, M. (2002). Applying the technology acceptance model and flow theory to online consumer behavior. Information systems research, 13, 205-223. Tang, K. (2017). Marketing 4.0: “Vẽ” chân dung khách hàng bằng data. Law, R. & Hsu, C. H. (2006). Importance of hotel website dimensions and attributes: perceptions of online browsers and online purchasers. Journal of Hospitality & Tourism Research, 30, 295-312. Li, D., Browne, G. J. & Wetherbe, J. C. (2006). Why do internet users stick with a specific web site? A relationship perspective. International journal of electronic commerce, 10, 105-141. Maslow, A. H. (1943). A theory of human motivation. Psychological review, 50, 370. Mentalhealth. (2018). Friendship and mental health [Trực tuyến]. Truy cập tại https://www.mentalhealth.org.uk/a-to-z/f/friendship-and-mental-health. Moore, R. S. et al. (2015). Creepy marketing: Three dimensions of perceived excessive online privacy violation. Marketing Management, 25, 42-53. Neuman, L. W. (2002). Social research methods: Qualitative and quantitative approaches. University of Wisconsin Newham, M. (2012). Is social networking affecting social interaction between users? O'keefe, D. J. (2002). Persuasion: Theory and research, Sage. Onlymyhealth.Com. (2017). Can shopping help relieve stress? Here's the answer! [Trực tuyến]. Truy cập tại https://www.onlymyhealth.com/can-shopping-help-relieve-stress-heres- answer-1300184407. Oxford, O. E. (2009). Oxford English Dictionary, Oxford: Oxford University Press. Piaget, J. & Inhelder, B. (1967). The Child's Conception of Space. See especially “Systems of Reference and Horizontal-Vertical Coordinates". New York: WW Norton &Co. Prahalad, C. K. & Ramaswamy, V. (2000). Co-opting customer competence. Harvard business review, 78, 79-90. Nguyễn M. Hà và Bùi T. Khoa. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 14(1), 3-17 17 Rabiee, F. 2004. Focus-group interview and data analysis. Proceedings of the nutrition society, 63, 655-660. Ryan, R. M. & Deci, E. L. (2000). Intrinsic and extrinsic motivations: Classic definitions and new directions. Contemporary educational psychology, 25, 54-67. Scheinkman, J. A. (2008). Social interactions. The new palgrave dictionary of economics, 2. Sheth, J. N. (1981). An integrative theory of patronage preference and behavior, College of Commerce and Business Administration, Bureau of Economic and Business Research, University of Illinois, Urbana-Champaign. Sheth, J. N. (1983). Integrative theory of patronage and behavior, in patronage behavior and retail management. New York, North-Holland, elserier Science Publishing Company, Inc. Silverman, D. (2016). Qualitative research, Sage. Steenkamp, J.-B. E. & Van Trijp, H. C. (1991). The use of LISREL in validating marketing constructs. International Journal of Research in marketing, 8, 283-299. Tabachnick, B. & Fidell, L. (2007). Multivariate analysis of variance and covariance. Using multivariate statistics, 3, 402-407. Tavani, H. T. (2007). Philosophical theories of privacy: Implications for an adequate online privacy policy. Metaphilosophy, 38, 1-22. Tsai, M. T., Cheng, N. C. & Chen, K. S. (2011). Understanding online group buying intention: the roles of sense of virtual community and technology acceptance factors. Total Quality Management & Business Excellence, 22, 1091-1104. Tseng, S. & Fogg, B. (1999). Credibility and computing technology. Communications of the ACM, 42, 39-44. Tynan, D. (2018). Personalization Is a Priority for Retailers, but Can Online Vendors Deliver? [Trực tuyến]. Truy cập tại https://www.adweek.com/digital/personalization-is-a-priority- for-retailers-online-and-off-but-its-harder-than-it-looks-in-an-off-the-shelf-world/ The Tetra Pak (2017). The Connected Consumer. [Trực tuyến]. Truy cập tại https://www.tetrapak.com/about/tetra-pak-index/tetra-pak-index-connected-consumer Vecita (2017). Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam 2017. Cục Thương mại điện tử và Công nghệ thông tin, Bộ Công Thương. Venkatesh, V. & Davis, F. D. (2000). A theoretical extension of the technology acceptance model: Four longitudinal field studies. Management science, 46, 186-204. Vygostski, L. (1985). Pensée et langage. coll. Terrains. Paris: Messidor. Wallston, K. A. et al. (1987). Perceived control and health. Current Psychology, 6, 5-25. Webster, J., Trevino, L. K. & Ryan, L. (1993). The dimensionality and correlates of flow in human- computer interactions. Computers in human behavior, 9, 411-426. Wood, R. (2017). Consumer sexualities: women and sex shopping, Routledge. Zhang, Y. & Hiltz, S. R. (2003). Factors that influence online relationship development in a knowledge sharing community. AMCIS 2003 Proceedings, 53.
File đính kèm:
- loi_ich_tinh_than_cam_nhan_khi_mua_hang_truc_tuyen.pdf