Liên quan hình ảnh học của xuất huyết đồi thị do tăng huyết áp với tỷ lệ tử vong sau hai tuần
Mục tiêu: Tìm mối liên quan giữa đặc điểm hình ảnh xuất huyết đồi thị trên
chụp CT-scan với tỷ lệ tử vong sau hai tuần ở bệnh nhân tăng huyết áp.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đây là một nghiên cứu hồi cứu.
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu mối liên quan giữa đặc điểm hình ảnh xuất huyết
đồi thị trên CT-scan với tỷ lệ tử vong sau hai tuần ở bệnh nhân tăng huyết áp trên
56 trường hợp xuất huyết đồi thị được chụp CT-scan não. Xuất huyết đồi thị được
chia thành năm vùng: trước, sau trong, sau bên, lưng và lan tỏa nhiều vùng.
Kết quả: Xuất huyết đồi thị nhóm lưng chiếm tỷ lệ cao nhất 37,5%; nhóm lan
tỏa 19,6%; nhóm trong 17,9%; nhóm sau bên 16,1%; nhóm trước 8,9%. Tỷ lệ tử
vong 17,9%. Tỷ lệ tử vong cao nhất ở nhóm lan tỏa 72,7%. Thể tích ổ xuất huyết
≥30 cm3, độ lệch đường giữa ≥ 5 mm, điểm Glasgow ≤8 điểm là biến độc lập tiên
lượng tử vong ở bệnh nhân xuất huyết đồi thị, p<>
Kết luận: Thể tích ổ xuất huyết, độ lệch đường giữa, điểm Glasgow là biến
độc lập tiên lượng tử vong ở bệnh nhân xuất huyết đồi thị.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Liên quan hình ảnh học của xuất huyết đồi thị do tăng huyết áp với tỷ lệ tử vong sau hai tuần
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 5 (1) Trung tâm HLNCYHQS phía Nam/HVQY (2) Bệnh viện Quân y 175 (3) Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Văn Chương ([email protected]) Ngày nhận bài: 26/12/2016. Ngày phản biện đánh giá bài báo: 28/12/2016. Ngày bài báo được đăng: 30/12/2016 Tóm tắt Mục tiêu: Tìm mối liên quan giữa đặc điểm hình ảnh xuất huyết đồi thị trên chụp CT-scan với tỷ lệ tử vong sau hai tuần ở bệnh nhân tăng huyết áp. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đây là một nghiên cứu hồi cứu. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu mối liên quan giữa đặc điểm hình ảnh xuất huyết đồi thị trên CT-scan với tỷ lệ tử vong sau hai tuần ở bệnh nhân tăng huyết áp trên 56 trường hợp xuất huyết đồi thị được chụp CT-scan não. Xuất huyết đồi thị được chia thành năm vùng: trước, sau trong, sau bên, lưng và lan tỏa nhiều vùng. Kết quả: Xuất huyết đồi thị nhóm lưng chiếm tỷ lệ cao nhất 37,5%; nhóm lan tỏa 19,6%; nhóm trong 17,9%; nhóm sau bên 16,1%; nhóm trước 8,9%. Tỷ lệ tử vong 17,9%. Tỷ lệ tử vong cao nhất ở nhóm lan tỏa 72,7%. Thể tích ổ xuất huyết ≥30 cm3, độ lệch đường giữa ≥ 5 mm, điểm Glasgow ≤8 điểm là biến độc lập tiên lượng tử vong ở bệnh nhân xuất huyết đồi thị, p<0,01. Kết luận: Thể tích ổ xuất huyết, độ lệch đường giữa, điểm Glasgow là biến độc lập tiên lượng tử vong ở bệnh nhân xuất huyết đồi thị. Từ khóa: Xuất huyết đồi thị, điểm glasgow, tăng huyết áp. LIÊN QUAN HÌNH ẢNH HỌC CỦA XUẤT HUYẾT ĐỒI THỊ DO TĂNG HUYẾT ÁP VỚI TỶ LỆ TỬ VONG SAU HAI TUẦN Nguyễn Văn Chương1 Nguyễn Văn Tân2, Võ Duy Ân3 TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 8 - 12/2016 6 Abstract THE RELATIONSHIP BETWEEN IMAGING CHARACTERISTICS OF THALAMIC HEMORRHAGE WITH MORTALITY AFTER TWO WEEKS Objectives: To find the relationship between imaging characteristics of thalamic hemorrhage on CT-scan with mortality after two weeks in hypertensive patients. Methodology: The retrospective study. We studied in 56 patients with thalamic hemorrhage taken CT-scan of the brain and mortality after two weeks in hypertensive patients. The thalamic hemorrhage were divided into five groups: anterior, posteromedial, posterolateral, dorsal and global. Results: The incidences of thalamic hemorrhage at anterior, posteromedial, posterolateral, dorsal and global areas were 8.9%, 17.9%, 16.1%, 37.5% and 19.6%, respectively. The overall mortality rate was 17.9%. The highest mortality rate in the group global was 72.7%. The volume of the thalamus hemorrhage ≥ 30 cm3, deviation median lines ≥ 5 mm and Glasgow score ≥ 8 point is that independent variable mortality prognosis in hypertensive patients with thalamic hemorrhage, p<0,01. Conclusions: The volume of the thalamus hemorrhage, deviation median lines and Glasgows score is that independent variable mortality prognosis in hypertensive patients with thalamic hemorrhage. Keyword: Thalamic hemorrhage, glasgow score, hypertension. ĐẶT VẤN ĐỀ Xuất huyết đồi thị có những đặc điểm lâm sàng, diễn tiến và hình ảnh học tương đối riêng biệt [3]. Xuất huyết đồi thị không chỉ xuất hiện ở nhu mô não mà còn ở hệ thống não thất. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng tỷ lệ tử vong giai đoạn cấp và phục hồi chức năng dài hạn của các bệnh nhân xuất huyết đồi thị có liên quan đến mức độ hôn mê [4]. Về mặt giải phẫu, đồi thị liên quan với hệ thống não thất, bao trong, hạch nền, vùng dưới đồi và trung não. Do vậy, xuất huyết đồi thị do tăng huyết áp là một trong những nguyên nhân gây tử vong lớn nhất [3]. Vì vậy chúng tôi nghiên cứu đề tài này với mục tiêu: Tìm mối liên quan giữa đặc điểm hình ảnh xuất huyết đồi thị trên chụp CT-scan với tỷ lệ tử vong sau hai tuần ở bệnh nhân tăng huyết áp. CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 7 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu được thực hiện trên 56 đối tượng được chẩn đoán xuất huyết đồi thị do tăng huyết áp nhập viện điều trị tại Bệnh viện Nguyễn Trãi TP. Hồ Chí Minh, từ 12/2013 đến 12/2014. - Tiêu chuẩn lựa chọn: Các bệnh nhân được chẩn đoán xuất huyết đồi thị bằng lâm sàng và CT-scan não được thăm khám trong vòng 72 giờ kể từ khi khởi phát bệnh, theo dõi tỷ lệ sống còn sau hai tuần kể từ khi khởi phát, bệnh nhân hoặc thân nhân đồng ý tham gia nghiên cứu. - Tiêu chuẩn loại trừ: Xuất huyết đồi thị do chấn thương, u não, các bệnh lý về máu, vỡ dị dạng mạch máu não, đang dùng thuốc kháng đông, xuất huyết ở hơn một vị trí, bệnh nhân có rối loạn nhịp tim hoặc nhồi máu cơ tim trong thời gian nằm viện, hoặc có tiền sử tiểu đường, mổ sọ não cũ, bệnh nhân hoặc thân nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu. 2. Phương Pháp Nghiên Cứu Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang. Các dữ liệu được thu thập ngay lúc bệnh nhân nhập viện, bao gồm: các dữ liệu từ lâm sàng và các dữ liệu từ CT Scan não. Bệnh nhân được theo dõi tỷ lệ sống còn sau hai tuần (14 ngày) kể từ khi bệnh khởi phát. Trên CT Scan, vị trí xuất huyết trong đồi thị được chia theo 5 nhóm: trước, trong, sau bên, lưng và lan tỏa nhiều vùng (Hình 1); Hướng lan của xuất huyết được chia: đồi thị đơn thuần hay lan vào nhân bèo, nhân đuôi, bao trong, hạ đồi, trung não và não thất; Thể tích xuất huyết được tính theo công thức V= a.b.n/2 (với a và b là đường kính lớn nhất của ổ XHN trên một lát cắt, n là số lát cắt dày 10mm) [6]; Mức độ đẩy lệch đường giữa được đo (mm); Mức độ dãn não thất được đánh giá bằng thang điểm Diringer [5], và mức độ xuất huyết vào trong não thất được đánh giá bằng thang điểm Graeb [8]. Tất cả bệnh nhân được theo dõi điều trị và đánh giá sau hai tuần dưới hai dạng sống hoặc tử vong. Hình 1. Các vị trí xuất huyết đồi thị Số liệu thu được xử lý theo các thuật toán thường dùng trong thống kê y sinh học. Phân tích dữ liệu sử dụng phần mềm SPSS 22.0. Tỉ lệ phần trăm dùng mô tả cho các biến định tính, trung bình và độ lệch chuẩn dùng cho các biến định lượng. TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 8 - 12/2016 8 3. Kết quả nghiên cứu Nghiên cứu trên 56 trường hợp. Nam giới chiếm tỷ lệ 64,3%; Nữ giới chiếm 35,7%. Xuất huyết đồi thị phải 53,6%, đồi thị trái 46,4%. Bảng 1. Các vị trí xuất huyết đồi thị ở đối tượng nghiên cứu Vị trí (n=56) n % Trước 5 8,93 Trong 10 17,86 Sau bên 9 16,07 Lưng 21 37,50 Lan tỏa 11 19,64 Cộng 56 100 Nhận xét: Xuất huyết vùng lưng đồi thị chiếm tỷ lệ cao nhất 37,5%. Bảng 2. Liên quang tỷ lệ tử vong sau hai tuần với vị trí xuất huyết Vị trí (n=56) Tỷ lệ tử vong n % Trước (n=5) 0 0 Trong (n=10) 0 0 Sau bên (n=9) 1 11,1 Lưng (n=21) 1 4,8 Lan tỏa (n=11) 8 72,7% Chung (n=56) 10 17,9 Nhận xét: Xuất huyết lan tỏa có tỷ lệ tử vong cao nhất với 72,7%. CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 9 Bảng 3. So sánh thể tích ổ xuất huyết đồi thị, độ lệch đường giữa nhóm tử vong và không tử vong Tiêu chí (n=56) Chung Tử vong Không Tử vong p Thể tích ổ xuất huyết (cm3) 11,62 ± 11,35 27,59 ± 17,21 8,15 ± 0,79 <0,001 Độ lệch đường giữa (mm) 4,72 ± 2,91 6,25 ± 3,37 3,55 ± 1,90 <0,05 Nhận xét: Thể tích ổ xuất huyết đồi thị trung bình 11,62 ± 11,35. Độ lệch đường giữa trung bình 4,72 ± 2,91 mm. Sự khác nhau giữa phân nhóm tử vong và không tử vong có ý nghĩa thống kê, p<0,05. Bảng 4. Mức độ giãn não thất (Diringer score), chỉ số Evan và mức độ xuất huyết vào não thất (Graeb score) ở đối tượng nghiên cứu Tiêu chí (n=56) Trung bình ± ĐLC Tử vong Không Tử vong p Điểm Diringer 0,63 ± 2,33 3,20 ± 4,82 0,07 ± 0,44 Chỉ số Evan 0,24 ± 0,06 0,30 ± 0,7 0,22 ± 0,4 Điểm Graeb 2,11 ± 2,36 4,30 ± 3,33 1,63 ± 1,18 <0,01 Nhận xét: Tổng điểm Diringer trung bình là 0,63 ± 2,33. Chỉ số Evan trung bình của nhóm nghiên cứu là 0,24 ± 0,06. Tổng điểm Graeb trung bình ở đối tượng nghiên cứu là 2,11 ± 2,36. Sự khác nhau về trị số trung bình giữa phân nhóm tử vong và không tử vong có ý nghĩa thống kê, p<0,05. Bảng 5. Phân tích đa biến liên quan diễn tiến tử vong với thể tích ổ xuất huyết, lệch đường giữa và điểm glasgow ≤ 8 điểm. Yếu tố (n=56) p OR [95% - CI] Thể tích xuất huyết não ≤ 30 cm3 0,001 1,66 1,05-2,76 Điểm Glasgow ≤ 8 0,002 12,30 2,56-59,07 CT Scan não lệch đường giữa 0,004 10,15 1,89-54,32 Nhận xét: Có mối liên quan diễn tiến tử vong với thể tích ổ xuất huyết, lệch đường giữa và điểm glasgow ≤ 8 điểm với p<0,01. TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 8 - 12/2016 10 BÀN LUẬN Trong nghiên cứu này chúng tôi đánh giá xuất huyết đồi thị trên hình ảnh chụp cắt lớp điện toán sọ não dựa trên vị trí của chúng theo vùng mạch máu cung cấp vào đồi thị. Nghiên cứu của chúng tôi đánh giá xuất huyết đồi thị chia làm 5 nhóm đó là: trước; trong; sau bên; lưng và lan tỏa nhiều vùng. Có thể thấy rằng cùng một thể tích nhưng nếu vị trí khác nhau thì mức độ nặng và khả năng hồi phục chức năng sẽ khác nhau. Tổng hợp phân tích các vị trí tổn thương theo mạch máu nuôi dưỡng chúng tôi thu được như sau: trước 8,9%; trong 17,9%; sau bên 16,1%; lưng 37,5%; lan tỏa nhiều vùng 19,6%. Như vậy xuất huyết vùng lưng đồi thị chiếm tỷ lệ cao nhất 37,5%. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự như kết quả nghiên cứu của một số tác giả trong và ngoài nước. Tác giả Trần Công Thắng (2010), nghiên cứu trên 193 bệnh nhân bị xuất huyết đồi thị do tăng huyết áp cho thấy vị trí xuất huyết ở đồi thị là: trước 6,7%; trong 24,9%; sau bên 29%; lưng 28,1% và lan tỏa nhiều vùng 17,6% [2]. Nghiên cứu của Chung CS và cộng sự (1996), trên 175 bệnh nhân xuất huyết đồi thị cũng cho kết quả tương tự: trước 6,3%; trong 13,7%; sau bên 44,0%; lưng 18,3% và lan tỏa 17,7%[4]. Tác giả Cao Phi Phong và Nguyễn Tuấn Anh (2013) nghiên cứu trên 55 bệnh nhân bị xuất huyết não nhận thấy tỷ lệ xuất huyết não đồi thị chiếm tỷ lệ cao nhất 60% tiếp đó là nhân đậu 27,3%, và nhân đuôi là 12,7% [1]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy vị trí xuất huyết lan tỏa chiếm tỷ lệ tử vong cao nhất với 72,7% (10/11 trường hợp). Tỷ lệ tử vong chung của đối tượng nghiên cứu là 17,9%. Trần Công Thắng (2010), tỷ lệ tử vong do xuất huyết đồi thị trong giai đoạn hai tuần đầu là 34,2% [2]. Tác giả Cao Phi Phong và Nguyễn Tuấn Anh (2013), cho kết quả tỷ lệ tử vong do xuất huyết đồi thị với tỷ lệ là 3% [1]. Nghiên cứu của Chung CS và cộng sự thì tỷ lệ tử vong là 37% [4]. Một nghiên cứu khác của Inagawa thì tỷ lệ tử vong sau hai tuần do xuất huyết đồi thị chỉ có 13%. Trong khi đó nghiên cứu của Kumral thì lại cho kết quả tử vong do xuất huyết đồi thị là 25% [7]. Như vậy tỷ lệ tử vong sau hai tuần do xuất huyết đồi thị trong nghiên cứu của chúng tôi có thể nói là bằng hoặc cao hơn các nghiên cứu trên. Điều này cũng thật khó đưa ra một sự lý giải chính xác, tuy nhiên theo chúng tôi một phần là do tổn thương các vùng chức năng khác nhau và có thể là do cỡ mẫu và đối tượng nghiên cứu của mỗi nghiên cứu khác nhau, vì thế tỷ lệ này cần phải có nhiều nghiên CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 11 cứu đa trung tâm với cỡ mẫu lớn hơn. Cao Phi Phong và Nguyễn Tuấn Anh (2013), nghiên cứu ý nghĩa tiên lượng của thể tích và vị trí xuất huyết trên bệnh nhân xuất huyết não – não thất tăng huyết áp cho kết quả: Thể tích máu tụ trong não trung bình là 18,74ml, trong não thất: 10,67ml, tổng thể tích máu: 29,4ml. Tác giả cho biết khi phân tích đơn biến, chỉ có thể tích máu trong nhu mô là có ý nghĩa tiên lượng tỷ lệ tử vong của bệnh nhân xuất huyết não lúc xuất viện [1]. Trong nghiên cứu của chúng tôi cho kết quả: Thể tích ổ xuất huyết đồi thị trung bình 11,62 ± 11,35. Sự khác nhau giữa phân nhóm tử vong và không tử vong có ý nghĩa thống kê, p<0,05. So với thể tích trung bình của các ổ xuất huyết não trên lều của các nghiên cứu khác như Trần Công Thắng [2] là 30,6 cm3, Gelbel [9] là 68,7 cm3 thì xuất huyết đồi thị có thể tích trung bình nhỏ hơn. Điều này có thể do đồi thị gần với hệ thống não thất nên máu sẽ chảy vào não thất khi ổ chảy máu có xu hướng tăng về thể tích. Mức độ đẩy lệch đường giữa trung bình trong nghiên cứu này là 4,72 ± 2,91 mm; Sự khác nhau giữa phân nhóm tử vong và không tử vong có ý nghĩa thống kê, p<0,05. Nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 8,93% bệnh nhân xuất huyết đồi thị bị giãn não thất. Tổng điểm Diringer trung bình là 0,63 ± 2,33. Chỉ số Evan trung bình của nhóm nghiên cứu là 0,24 ± 0,06. Sự khác nhau giữa phân nhóm tử vong và không tử vong có ý nghĩa thống kê, p<0,05. Tuy nhiên kết quả này thấp hơn các nghiên cứu của một số tác giả khác, có thể do cỡ mẫu của chúng tôi chưa đủ lớn. Trần Công Thắng (2010), tỷ lệ ứ giãn não thất là 77% [2]. Nghiên cứu của Chung CS và cộng sự [4], tỷ lệ xuất huyết đồi thị gây ứ giãn não thất là 78,9%. Theo kết quả nghiên cứu chúng tôi ghi nhận được ở các đối tượng nghiên cứu cho thấy: Tổng điểm Graeb trung bình ở đối tượng nghiên cứu là 2,11 ± 2,36. Tỷ lệ bệnh nhân bị xuất huyết vào não thất là 60,71% ở các đối tượng nghiên cứu. Sự khác nhau giữa phân nhóm tử vong và không tử vong có ý nghĩa thống kê, p<0,05. Trần Công Thắng tỷ lệ xuất huyết đồi thị gây chảy máu vào não thất là 85,0% [2]. Thể tích là yếu tố liên quan chặt chẽ (p<0,01) đến tình trạng sống còn của bệnh nhân. Trong nghiên cứu của chúng tôi, 4 ca có thể tích xuất huyết≥ 30 ml thì tử vong 100%. Khi đưa vào phân tích đa biến thì thể tích xuất huyết là một yếu tố độc lập đến tiên lượng tử vong của bệnh nhân xuất huyết đồi thị. Đường giữa bị đẩy lệch về bên đối diện xuất huyết chứng tỏ hiệu ứng choán chỗ nhiều do chảy máu nhiều, TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 8 - 12/2016 12 phù não nhiều. Vì thế, tỷ lệ tử vong càng cao nếu di lệch đường giữa càng nhiều. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cho nhận xét tương tự: mức độ di lệch đường giữa có liên quan chặt chẽ (p<0,01) đến tình trạng sống còn của bệnh nhân. Khi đưa vào phân tích đa biến thì dấu lệch đường giữa >5mm là một yếu tố độc lập đến tiên lượng tử vong của bệnh nhân xuất huyết đồi thị, với p<0,01. Thang điểm hôn mê Glasgow là thang điểm đánh giá hôn mê được sử dụng rộng rãi trên lâm sàng cũng như các nghiên cứu về xuất huyết não. Đây là một thang điểm ngắn gọn, đơn giản, dễ sử dụng nhưng có giá trị đánh giá rất cao. Trong kết quả nghiên cứu của chúng tôi, điểm Glasgow có liên quan chặt chẽ (p<0,01). Glasgow lúc nhập viện không chỉ liên quan đến tình trạng sống còn mà còn là yếu tố độc lập mạnh mẽ nhất đến tiên lượng tử vong của bệnh nhân. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu trên 56 đối tượng bị xuất huyết đồi thị do tăng huyết áp chúng tôi rút ra một số kết luận về mối liên quan giữa đặc điểm hình ảnh xuất huyết đồi thị trên chụp CT-scan với tỷ lệ tử vong sau hai tuần ở bệnh nhân tăng huyết áp như sau: - Vị trí xuất huyết đồi thị nhóm lưng chiếm tỷ lệ cao nhất 37,5%; nhóm lan tỏa 19,6%; nhóm trong 17,9%; nhóm sau bên 16,1%; nhóm trước 8,9%. - Tỷ lệ tử vong chung 17,9%. Tỷ lệ tử vong cao nhất ở nhóm lan tỏa 72,7%. - Thể tích ổ xuất huyết ≥30 cm3, độ lệch đường giữa ≥ 5 mm, điểm Glasgow ≤8 điểm là biến độc lập tiên lượng tử vong ở bệnh nhân xuất huyết đồi thị, p<0,01. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Cao Phi Phong, Nguyễn Tuấn Anh (2013), “Ý nghĩa tiên lượng của thể tích và vị trí xuất huyết trên bệnh nhân xuất huyết não – não thất tăng huyết áp”, Y Học TP. Hồ Chí Minh, Tập 17, Phụ bản của Số 1, tr. 183-188 2. Trần Công Thắng (2010), “Nghiên cứu các yếu tố tiên lượng xuất huyết đồi thị liên quan đến tăng huyết áp”, Luận án tiến sĩ y học, Đại học Y Dược TPHCM 3. Brazis PW, Masdeu JC, Biller J (2001). Thalamus. In: Localization in Clinical Neurology (4th ed). Brazis PW, Masdeu JC, Biller J. Lippincott Wiliams & Wilkins:403-424. 4. Chung CS, Caplan LR, Han W, et al (1996), “Thalamic hemorrhage”, Brain, 119, 1873-1886 5. Diringer MN, Edwards DF, Zazulia AR (1998). Hydrocephalus: A Previously Unrecognized Predictor CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 13 of Poor Outcome From Supratentorial Intracerebral Hemorrhage. Stroke;29;1352-1357. 6. Kothari RU, Brott T, Broderick JP, et al (1996). The ABCs of Measuring Intracerebral Hemorrhage Volumes. Stroke.;27:1304-1305. 7. Kumral E, Kocaer T, Ertubey N.O, et al (1995), “Thalamic Hemorrhage: A Prospective Study of 100 Patients”, Stroke, 26: 964-970 8. Graeb DA, Robertson WD, Lapointe JS, et al (1982). Computed Tomographic Diagnosis of Intraventricular Hemorrhage. Radiology;143:91-96. 9. Gebel JM, Sila CA, Sloan MA, et al (1998), “Comparison of the ABC/2 estimation technique to computer assisted volumetric analysis of intraparenchymal and subdural hematomas complicating the GUSTO-1 trial”, Stroke 29, pp. 1799-1801.
File đính kèm:
lien_quan_hinh_anh_hoc_cua_xuat_huyet_doi_thi_do_tang_huyet.pdf

