Liên quan hình ảnh học của xuất huyết đồi thị do tăng huyết áp với tỷ lệ tử vong sau hai tuần

Mục tiêu: Tìm mối liên quan giữa đặc điểm hình ảnh xuất huyết đồi thị trên

chụp CT-scan với tỷ lệ tử vong sau hai tuần ở bệnh nhân tăng huyết áp.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đây là một nghiên cứu hồi cứu.

Chúng tôi tiến hành nghiên cứu mối liên quan giữa đặc điểm hình ảnh xuất huyết

đồi thị trên CT-scan với tỷ lệ tử vong sau hai tuần ở bệnh nhân tăng huyết áp trên

56 trường hợp xuất huyết đồi thị được chụp CT-scan não. Xuất huyết đồi thị được

chia thành năm vùng: trước, sau trong, sau bên, lưng và lan tỏa nhiều vùng.

Kết quả: Xuất huyết đồi thị nhóm lưng chiếm tỷ lệ cao nhất 37,5%; nhóm lan

tỏa 19,6%; nhóm trong 17,9%; nhóm sau bên 16,1%; nhóm trước 8,9%. Tỷ lệ tử

vong 17,9%. Tỷ lệ tử vong cao nhất ở nhóm lan tỏa 72,7%. Thể tích ổ xuất huyết

≥30 cm3, độ lệch đường giữa ≥ 5 mm, điểm Glasgow ≤8 điểm là biến độc lập tiên

lượng tử vong ở bệnh nhân xuất huyết đồi thị, p<>

Kết luận: Thể tích ổ xuất huyết, độ lệch đường giữa, điểm Glasgow là biến

độc lập tiên lượng tử vong ở bệnh nhân xuất huyết đồi thị.

pdf 9 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Liên quan hình ảnh học của xuất huyết đồi thị do tăng huyết áp với tỷ lệ tử vong sau hai tuần", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Liên quan hình ảnh học của xuất huyết đồi thị do tăng huyết áp với tỷ lệ tử vong sau hai tuần

Liên quan hình ảnh học của xuất huyết đồi thị do tăng huyết áp với tỷ lệ tử vong sau hai tuần
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
5
(1) Trung tâm HLNCYHQS phía Nam/HVQY
(2) Bệnh viện Quân y 175
(3) Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch
Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Văn Chương ([email protected])
Ngày nhận bài: 26/12/2016. Ngày phản biện đánh giá bài báo: 28/12/2016. 
Ngày bài báo được đăng: 30/12/2016
Tóm tắt
Mục tiêu: Tìm mối liên quan giữa đặc điểm hình ảnh xuất huyết đồi thị trên 
chụp CT-scan với tỷ lệ tử vong sau hai tuần ở bệnh nhân tăng huyết áp. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đây là một nghiên cứu hồi cứu. 
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu mối liên quan giữa đặc điểm hình ảnh xuất huyết 
đồi thị trên CT-scan với tỷ lệ tử vong sau hai tuần ở bệnh nhân tăng huyết áp trên 
56 trường hợp xuất huyết đồi thị được chụp CT-scan não. Xuất huyết đồi thị được 
chia thành năm vùng: trước, sau trong, sau bên, lưng và lan tỏa nhiều vùng.
Kết quả: Xuất huyết đồi thị nhóm lưng chiếm tỷ lệ cao nhất 37,5%; nhóm lan 
tỏa 19,6%; nhóm trong 17,9%; nhóm sau bên 16,1%; nhóm trước 8,9%. Tỷ lệ tử 
vong 17,9%. Tỷ lệ tử vong cao nhất ở nhóm lan tỏa 72,7%. Thể tích ổ xuất huyết 
≥30 cm3, độ lệch đường giữa ≥ 5 mm, điểm Glasgow ≤8 điểm là biến độc lập tiên 
lượng tử vong ở bệnh nhân xuất huyết đồi thị, p<0,01.
Kết luận: Thể tích ổ xuất huyết, độ lệch đường giữa, điểm Glasgow là biến 
độc lập tiên lượng tử vong ở bệnh nhân xuất huyết đồi thị.
Từ khóa: Xuất huyết đồi thị, điểm glasgow, tăng huyết áp.
LIÊN QUAN HÌNH ẢNH HỌC CỦA XUẤT HUYẾT ĐỒI THỊ DO 
TĂNG HUYẾT ÁP VỚI TỶ LỆ TỬ VONG SAU HAI TUẦN
Nguyễn Văn Chương1 
 Nguyễn Văn Tân2, Võ Duy Ân3
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 8 - 12/2016
6
Abstract
THE RELATIONSHIP BETWEEN IMAGING CHARACTERISTICS OF 
THALAMIC HEMORRHAGE WITH MORTALITY
AFTER TWO WEEKS 
Objectives: To find the relationship between imaging characteristics of 
thalamic hemorrhage on CT-scan with mortality after two weeks in hypertensive 
patients.
Methodology: The retrospective study. We studied in 56 patients with thalamic 
hemorrhage taken CT-scan of the brain and mortality after two weeks in hypertensive 
patients. The thalamic hemorrhage were divided into five groups: anterior, 
posteromedial, posterolateral, dorsal and global.
Results: The incidences of thalamic hemorrhage at anterior, posteromedial, 
posterolateral, dorsal and global areas were 8.9%, 17.9%, 16.1%, 37.5% and 
19.6%, respectively. The overall mortality rate was 17.9%. The highest mortality 
rate in the group global was 72.7%. The volume of the thalamus hemorrhage 
≥ 30 cm3, deviation median lines ≥ 5 mm and Glasgow score ≥ 8 point is that 
independent variable mortality prognosis in hypertensive patients with thalamic 
hemorrhage, p<0,01.
Conclusions: The volume of the thalamus hemorrhage, deviation median 
lines and Glasgows score is that independent variable mortality prognosis in 
hypertensive patients with thalamic hemorrhage.
Keyword: Thalamic hemorrhage, glasgow score, hypertension.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Xuất huyết đồi thị có những đặc 
điểm lâm sàng, diễn tiến và hình ảnh 
học tương đối riêng biệt [3]. Xuất huyết 
đồi thị không chỉ xuất hiện ở nhu mô 
não mà còn ở hệ thống não thất. Nhiều 
nghiên cứu đã chỉ ra rằng tỷ lệ tử vong 
giai đoạn cấp và phục hồi chức năng 
dài hạn của các bệnh nhân xuất huyết 
đồi thị có liên quan đến mức độ hôn mê 
[4]. Về mặt giải phẫu, đồi thị liên quan 
với hệ thống não thất, bao trong, hạch 
nền, vùng dưới đồi và trung não. Do 
vậy, xuất huyết đồi thị do tăng huyết áp 
là một trong những nguyên nhân gây tử 
vong lớn nhất [3].
Vì vậy chúng tôi nghiên cứu đề tài 
này với mục tiêu: Tìm mối liên quan 
giữa đặc điểm hình ảnh xuất huyết đồi 
thị trên chụp CT-scan với tỷ lệ tử vong 
sau hai tuần ở bệnh nhân tăng huyết áp.
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
7
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện trên 56 
đối tượng được chẩn đoán xuất huyết 
đồi thị do tăng huyết áp nhập viện điều 
trị tại Bệnh viện Nguyễn Trãi TP. Hồ 
Chí Minh, từ 12/2013 đến 12/2014.
- Tiêu chuẩn lựa chọn: Các bệnh 
nhân được chẩn đoán xuất huyết đồi 
thị bằng lâm sàng và CT-scan não được 
thăm khám trong vòng 72 giờ kể từ khi 
khởi phát bệnh, theo dõi tỷ lệ sống còn 
sau hai tuần kể từ khi khởi phát, bệnh 
nhân hoặc thân nhân đồng ý tham gia 
nghiên cứu.
- Tiêu chuẩn loại trừ: Xuất huyết 
đồi thị do chấn thương, u não, các bệnh 
lý về máu, vỡ dị dạng mạch máu não, 
đang dùng thuốc kháng đông, xuất 
huyết ở hơn một vị trí, bệnh nhân có 
rối loạn nhịp tim hoặc nhồi máu cơ tim 
trong thời gian nằm viện, hoặc có tiền 
sử tiểu đường, mổ sọ não cũ, bệnh nhân 
hoặc thân nhân không đồng ý tham gia 
nghiên cứu.
2. Phương Pháp Nghiên Cứu 
Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt 
ngang.
Các dữ liệu được thu thập ngay lúc 
bệnh nhân nhập viện, bao gồm: các dữ 
liệu từ lâm sàng và các dữ liệu từ CT 
Scan não. Bệnh nhân được theo dõi tỷ 
lệ sống còn sau hai tuần (14 ngày) kể 
từ khi bệnh khởi phát.
Trên CT Scan, vị trí xuất huyết 
trong đồi thị được chia theo 5 nhóm: 
trước, trong, sau bên, lưng và lan tỏa 
nhiều vùng (Hình 1); Hướng lan của 
xuất huyết được chia: đồi thị đơn thuần 
hay lan vào nhân bèo, nhân đuôi, bao 
trong, hạ đồi, trung não và não thất; 
Thể tích xuất huyết được tính theo công 
thức V= a.b.n/2 (với a và b là đường 
kính lớn nhất của ổ XHN trên một lát 
cắt, n là số lát cắt dày 10mm) [6]; Mức 
độ đẩy lệch đường giữa được đo (mm); 
Mức độ dãn não thất được đánh giá 
bằng thang điểm Diringer [5], và mức 
độ xuất huyết vào trong não thất được 
đánh giá bằng thang điểm Graeb [8]. 
Tất cả bệnh nhân được theo dõi điều trị 
và đánh giá sau hai tuần dưới hai dạng 
sống hoặc tử vong.
Hình 1. Các vị trí xuất huyết đồi thị
Số liệu thu được xử lý theo các 
thuật toán thường dùng trong thống kê 
y sinh học. Phân tích dữ liệu sử dụng 
phần mềm SPSS 22.0. Tỉ lệ phần trăm 
dùng mô tả cho các biến định tính, 
trung bình và độ lệch chuẩn dùng cho 
các biến định lượng. 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 8 - 12/2016
8
3. Kết quả nghiên cứu
Nghiên cứu trên 56 trường hợp. 
Nam giới chiếm tỷ lệ 64,3%; Nữ giới 
chiếm 35,7%. Xuất huyết đồi thị phải 
53,6%, đồi thị trái 46,4%. 
Bảng 1. Các vị trí xuất huyết đồi thị ở đối tượng nghiên cứu
Vị trí (n=56) n %
Trước 5 8,93
Trong 10 17,86
Sau bên 9 16,07
Lưng 21 37,50
Lan tỏa 11 19,64
Cộng 56 100
Nhận xét: Xuất huyết vùng lưng đồi thị chiếm tỷ lệ cao nhất 37,5%.
Bảng 2. Liên quang tỷ lệ tử vong sau hai tuần với vị trí xuất huyết
Vị trí (n=56)
Tỷ lệ tử vong
n %
Trước (n=5) 0 0
Trong (n=10) 0 0
Sau bên (n=9) 1 11,1
Lưng (n=21) 1 4,8
Lan tỏa (n=11) 8 72,7%
Chung (n=56) 10 17,9
Nhận xét: Xuất huyết lan tỏa có tỷ lệ tử vong cao nhất với 72,7%.
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
9
Bảng 3. So sánh thể tích ổ xuất huyết đồi thị, độ lệch đường giữa nhóm tử 
vong và không tử vong
Tiêu chí (n=56) Chung Tử vong
Không Tử 
vong
p
Thể tích ổ xuất huyết 
(cm3)
11,62 ± 11,35
27,59 ± 
17,21
8,15 ± 0,79
<0,001
Độ lệch đường giữa 
(mm)
4,72 ± 2,91 6,25 ± 3,37 3,55 ± 1,90
<0,05
Nhận xét: Thể tích ổ xuất huyết đồi thị trung bình 11,62 ± 11,35. Độ lệch 
đường giữa trung bình 4,72 ± 2,91 mm. Sự khác nhau giữa phân nhóm tử vong và 
không tử vong có ý nghĩa thống kê, p<0,05.
Bảng 4. Mức độ giãn não thất (Diringer score), chỉ số Evan và mức độ xuất 
huyết vào não thất (Graeb score) ở đối tượng nghiên cứu
Tiêu chí (n=56)
Trung bình ± 
ĐLC
Tử vong Không Tử vong p
Điểm Diringer 0,63 ± 2,33 3,20 ± 4,82 0,07 ± 0,44
Chỉ số Evan 0,24 ± 0,06 0,30 ± 0,7 0,22 ± 0,4
Điểm Graeb 2,11 ± 2,36 4,30 ± 3,33 1,63 ± 1,18 <0,01
Nhận xét: Tổng điểm Diringer trung bình là 0,63 ± 2,33. Chỉ số Evan trung 
bình của nhóm nghiên cứu là 0,24 ± 0,06. Tổng điểm Graeb trung bình ở đối 
tượng nghiên cứu là 2,11 ± 2,36. Sự khác nhau về trị số trung bình giữa phân 
nhóm tử vong và không tử vong có ý nghĩa thống kê, p<0,05.
Bảng 5. Phân tích đa biến liên quan diễn tiến tử vong với thể tích ổ xuất huyết, 
lệch đường giữa và điểm glasgow ≤ 8 điểm.
Yếu tố (n=56) p OR [95% - CI]
Thể tích xuất huyết não ≤ 30 cm3 0,001 1,66 1,05-2,76
Điểm Glasgow ≤ 8 0,002 12,30 2,56-59,07
CT Scan não lệch đường giữa 0,004 10,15 1,89-54,32
Nhận xét: Có mối liên quan diễn 
tiến tử vong với thể tích ổ xuất huyết, 
lệch đường giữa và điểm glasgow ≤ 8 
điểm với p<0,01.
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 8 - 12/2016
10
BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu này chúng tôi 
đánh giá xuất huyết đồi thị trên hình 
ảnh chụp cắt lớp điện toán sọ não dựa 
trên vị trí của chúng theo vùng mạch 
máu cung cấp vào đồi thị. Nghiên cứu 
của chúng tôi đánh giá xuất huyết đồi 
thị chia làm 5 nhóm đó là: trước; trong; 
sau bên; lưng và lan tỏa nhiều vùng. Có 
thể thấy rằng cùng một thể tích nhưng 
nếu vị trí khác nhau thì mức độ nặng và 
khả năng hồi phục chức năng sẽ khác 
nhau. 
Tổng hợp phân tích các vị trí tổn 
thương theo mạch máu nuôi dưỡng 
chúng tôi thu được như sau: trước 
8,9%; trong 17,9%; sau bên 16,1%; 
lưng 37,5%; lan tỏa nhiều vùng 19,6%. 
Như vậy xuất huyết vùng lưng đồi thị 
chiếm tỷ lệ cao nhất 37,5%. Kết quả 
nghiên cứu của chúng tôi cũng tương 
tự như kết quả nghiên cứu của một số 
tác giả trong và ngoài nước.
Tác giả Trần Công Thắng (2010), 
nghiên cứu trên 193 bệnh nhân bị xuất 
huyết đồi thị do tăng huyết áp cho thấy 
vị trí xuất huyết ở đồi thị là: trước 
6,7%; trong 24,9%; sau bên 29%; lưng 
28,1% và lan tỏa nhiều vùng 17,6% [2]. 
Nghiên cứu của Chung CS và cộng sự 
(1996), trên 175 bệnh nhân xuất huyết 
đồi thị cũng cho kết quả tương tự: trước 
6,3%; trong 13,7%; sau bên 44,0%; 
lưng 18,3% và lan tỏa 17,7%[4].
Tác giả Cao Phi Phong và Nguyễn 
Tuấn Anh (2013) nghiên cứu trên 55 
bệnh nhân bị xuất huyết não nhận thấy 
tỷ lệ xuất huyết não đồi thị chiếm tỷ 
lệ cao nhất 60% tiếp đó là nhân đậu 
27,3%, và nhân đuôi là 12,7% [1]. 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi 
cho thấy vị trí xuất huyết lan tỏa chiếm 
tỷ lệ tử vong cao nhất với 72,7% (10/11 
trường hợp). Tỷ lệ tử vong chung của 
đối tượng nghiên cứu là 17,9%. Trần 
Công Thắng (2010), tỷ lệ tử vong do 
xuất huyết đồi thị trong giai đoạn hai 
tuần đầu là 34,2% [2]. Tác giả Cao Phi 
Phong và Nguyễn Tuấn Anh (2013), 
cho kết quả tỷ lệ tử vong do xuất huyết 
đồi thị với tỷ lệ là 3% [1]. Nghiên cứu 
của Chung CS và cộng sự thì tỷ lệ tử 
vong là 37% [4]. Một nghiên cứu khác 
của Inagawa thì tỷ lệ tử vong sau hai 
tuần do xuất huyết đồi thị chỉ có 13%. 
Trong khi đó nghiên cứu của Kumral 
thì lại cho kết quả tử vong do xuất 
huyết đồi thị là 25% [7]. Như vậy tỷ lệ 
tử vong sau hai tuần do xuất huyết đồi 
thị trong nghiên cứu của chúng tôi có 
thể nói là bằng hoặc cao hơn các nghiên 
cứu trên. Điều này cũng thật khó đưa ra 
một sự lý giải chính xác, tuy nhiên theo 
chúng tôi một phần là do tổn thương 
các vùng chức năng khác nhau và có 
thể là do cỡ mẫu và đối tượng nghiên 
cứu của mỗi nghiên cứu khác nhau, vì 
thế tỷ lệ này cần phải có nhiều nghiên 
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
11
cứu đa trung tâm với cỡ mẫu lớn hơn. 
Cao Phi Phong và Nguyễn Tuấn 
Anh (2013), nghiên cứu ý nghĩa tiên 
lượng của thể tích và vị trí xuất huyết 
trên bệnh nhân xuất huyết não – não 
thất tăng huyết áp cho kết quả: Thể tích 
máu tụ trong não trung bình là 18,74ml, 
trong não thất: 10,67ml, tổng thể tích 
máu: 29,4ml. Tác giả cho biết khi phân 
tích đơn biến, chỉ có thể tích máu trong 
nhu mô là có ý nghĩa tiên lượng tỷ lệ 
tử vong của bệnh nhân xuất huyết não 
lúc xuất viện [1]. Trong nghiên cứu của 
chúng tôi cho kết quả: Thể tích ổ xuất 
huyết đồi thị trung bình 11,62 ± 11,35. 
Sự khác nhau giữa phân nhóm tử vong 
và không tử vong có ý nghĩa thống kê, 
p<0,05. So với thể tích trung bình của 
các ổ xuất huyết não trên lều của các 
nghiên cứu khác như Trần Công Thắng 
[2] là 30,6 cm3, Gelbel [9] là 68,7 cm3 
thì xuất huyết đồi thị có thể tích trung 
bình nhỏ hơn. Điều này có thể do đồi 
thị gần với hệ thống não thất nên máu 
sẽ chảy vào não thất khi ổ chảy máu 
có xu hướng tăng về thể tích. Mức độ 
đẩy lệch đường giữa trung bình trong 
nghiên cứu này là 4,72 ± 2,91 mm; Sự 
khác nhau giữa phân nhóm tử vong và 
không tử vong có ý nghĩa thống kê, 
p<0,05.
Nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 
8,93% bệnh nhân xuất huyết đồi thị 
bị giãn não thất. Tổng điểm Diringer 
trung bình là 0,63 ± 2,33. Chỉ số Evan 
trung bình của nhóm nghiên cứu là 
0,24 ± 0,06. Sự khác nhau giữa phân 
nhóm tử vong và không tử vong có ý 
nghĩa thống kê, p<0,05. Tuy nhiên kết 
quả này thấp hơn các nghiên cứu của 
một số tác giả khác, có thể do cỡ mẫu 
của chúng tôi chưa đủ lớn. Trần Công 
Thắng (2010), tỷ lệ ứ giãn não thất là 
77% [2]. Nghiên cứu của Chung CS và 
cộng sự [4], tỷ lệ xuất huyết đồi thị gây 
ứ giãn não thất là 78,9%.
Theo kết quả nghiên cứu chúng tôi 
ghi nhận được ở các đối tượng nghiên 
cứu cho thấy: Tổng điểm Graeb trung 
bình ở đối tượng nghiên cứu là 2,11 
± 2,36. Tỷ lệ bệnh nhân bị xuất huyết 
vào não thất là 60,71% ở các đối tượng 
nghiên cứu. Sự khác nhau giữa phân 
nhóm tử vong và không tử vong có 
ý nghĩa thống kê, p<0,05. Trần Công 
Thắng tỷ lệ xuất huyết đồi thị gây chảy 
máu vào não thất là 85,0% [2]. Thể tích 
là yếu tố liên quan chặt chẽ (p<0,01) 
đến tình trạng sống còn của bệnh nhân. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 4 ca 
có thể tích xuất huyết≥ 30 ml thì tử 
vong 100%. Khi đưa vào phân tích đa 
biến thì thể tích xuất huyết là một yếu 
tố độc lập đến tiên lượng tử vong của 
bệnh nhân xuất huyết đồi thị.
Đường giữa bị đẩy lệch về bên 
đối diện xuất huyết chứng tỏ hiệu ứng 
choán chỗ nhiều do chảy máu nhiều, 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 8 - 12/2016
12
phù não nhiều. Vì thế, tỷ lệ tử vong 
càng cao nếu di lệch đường giữa càng 
nhiều. Kết quả nghiên cứu của chúng 
tôi cũng cho nhận xét tương tự: mức 
độ di lệch đường giữa có liên quan chặt 
chẽ (p<0,01) đến tình trạng sống còn 
của bệnh nhân. Khi đưa vào phân tích 
đa biến thì dấu lệch đường giữa >5mm 
là một yếu tố độc lập đến tiên lượng tử 
vong của bệnh nhân xuất huyết đồi thị, 
với p<0,01.
Thang điểm hôn mê Glasgow là 
thang điểm đánh giá hôn mê được sử 
dụng rộng rãi trên lâm sàng cũng như 
các nghiên cứu về xuất huyết não. Đây 
là một thang điểm ngắn gọn, đơn giản, 
dễ sử dụng nhưng có giá trị đánh giá 
rất cao. Trong kết quả nghiên cứu của 
chúng tôi, điểm Glasgow có liên quan 
chặt chẽ (p<0,01). Glasgow lúc nhập 
viện không chỉ liên quan đến tình trạng 
sống còn mà còn là yếu tố độc lập 
mạnh mẽ nhất đến tiên lượng tử vong 
của bệnh nhân.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu trên 56 đối tượng 
bị xuất huyết đồi thị do tăng huyết áp 
chúng tôi rút ra một số kết luận về mối 
liên quan giữa đặc điểm hình ảnh xuất 
huyết đồi thị trên chụp CT-scan với tỷ 
lệ tử vong sau hai tuần ở bệnh nhân 
tăng huyết áp như sau:
- Vị trí xuất huyết đồi thị nhóm lưng 
chiếm tỷ lệ cao nhất 37,5%; nhóm lan 
tỏa 19,6%; nhóm trong 17,9%; nhóm 
sau bên 16,1%; nhóm trước 8,9%.
- Tỷ lệ tử vong chung 17,9%. Tỷ lệ 
tử vong cao nhất ở nhóm lan tỏa 72,7%.
- Thể tích ổ xuất huyết ≥30 cm3, 
độ lệch đường giữa ≥ 5 mm, điểm 
Glasgow ≤8 điểm là biến độc lập tiên 
lượng tử vong ở bệnh nhân xuất huyết 
đồi thị, p<0,01.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cao Phi Phong, Nguyễn Tuấn 
Anh (2013), “Ý nghĩa tiên lượng của 
thể tích và vị trí xuất huyết trên bệnh 
nhân xuất huyết não – não thất tăng 
huyết áp”, Y Học TP. Hồ Chí Minh, 
Tập 17, Phụ bản của Số 1, tr. 183-188
2. Trần Công Thắng (2010), 
“Nghiên cứu các yếu tố tiên lượng xuất 
huyết đồi thị liên quan đến tăng huyết 
áp”, Luận án tiến sĩ y học, Đại học Y 
Dược TPHCM
3. Brazis PW, Masdeu JC, Biller 
J (2001). Thalamus. In: Localization 
in Clinical Neurology (4th ed). Brazis 
PW, Masdeu JC, Biller J. Lippincott 
Wiliams & Wilkins:403-424.
4. Chung CS, Caplan LR, Han W, 
et al (1996), “Thalamic hemorrhage”, 
Brain, 119, 1873-1886
5. Diringer MN, Edwards DF, 
Zazulia AR (1998). Hydrocephalus: 
A Previously Unrecognized Predictor 
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
13
of Poor Outcome From Supratentorial 
Intracerebral Hemorrhage. 
Stroke;29;1352-1357.
6. Kothari RU, Brott T, Broderick 
JP, et al (1996). The ABCs of Measuring 
Intracerebral Hemorrhage Volumes. 
Stroke.;27:1304-1305.
7. Kumral E, Kocaer T, Ertubey 
N.O, et al (1995), “Thalamic 
Hemorrhage: A Prospective Study of 
100 Patients”, Stroke, 26: 964-970
8. Graeb DA, Robertson 
WD, Lapointe JS, et al (1982). 
Computed Tomographic Diagnosis 
of Intraventricular Hemorrhage. 
Radiology;143:91-96.
9. Gebel JM, Sila CA, Sloan 
MA, et al (1998), “Comparison of 
the ABC/2 estimation technique to 
computer assisted volumetric analysis 
of intraparenchymal and subdural 
hematomas complicating the GUSTO-1 
trial”, Stroke 29, pp. 1799-1801.

File đính kèm:

  • pdflien_quan_hinh_anh_hoc_cua_xuat_huyet_doi_thi_do_tang_huyet.pdf