Liên quan giữa véctơ truyền bệnh sốt suất huyết dengue, sốt rét với biến đổi khí hậu tại tỉnh Gia Lai

Kết quả phân tích mối liên quan giữa véctơ truyền bệnh

sốt xuất huyết dengue và sốt rét với biến đổi khí hậu tại tỉnh

Gia Lai cho thấy: sự biến đổi về lượng mưa và nhiệt độ theo

mùa là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới sự phát triển

của véctơ sốt xuất huyết dengue. Vào mùa mưa, các chỉ số

về mật độ muỗi cái Aedes aegypti có xu hướng tăng cao

hơn (r = 0,65). Đối với véctơ truyền bệnh sốt rét, sự biến đổi

về nhiệt độ và độ ẩm ảnh hưởng tới sự phát triển của muỗi

Anopheles. Số lượng muỗi Anopheles có mối tương quan

nghịch với nhiệt độ (r = -0,83) và tương quan thuận với độ

ẩm và lượng mưa trung bình (r = 0,68 và r = 0,62)

pdf 6 trang phuongnguyen 40
Bạn đang xem tài liệu "Liên quan giữa véctơ truyền bệnh sốt suất huyết dengue, sốt rét với biến đổi khí hậu tại tỉnh Gia Lai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Liên quan giữa véctơ truyền bệnh sốt suất huyết dengue, sốt rét với biến đổi khí hậu tại tỉnh Gia Lai

Liên quan giữa véctơ truyền bệnh sốt suất huyết dengue, sốt rét với biến đổi khí hậu tại tỉnh Gia Lai
SỐ 37 - Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn 117
2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
LIÊN QUAN GIỮA VÉCTƠ TRUYỀN BỆNH SỐT SUẤT HUYẾT 
DENGUE, SỐT RÉT VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TẠI 
TỈNH GIA LAI
Nguyễn Trọng Chính1, Nguyễn Văn Chuyên1, Nguyễn Văn Ba1, Nguyễn Bá Tùng2
TÓM TẮT:
Kết quả phân tích mối liên quan giữa véctơ truyền bệnh 
sốt xuất huyết dengue và sốt rét với biến đổi khí hậu tại tỉnh 
Gia Lai cho thấy: sự biến đổi về lượng mưa và nhiệt độ theo 
mùa là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới sự phát triển 
của véctơ sốt xuất huyết dengue. Vào mùa mưa, các chỉ số 
về mật độ muỗi cái Aedes aegypti có xu hướng tăng cao 
hơn (r = 0,65). Đối với véctơ truyền bệnh sốt rét, sự biến đổi 
về nhiệt độ và độ ẩm ảnh hưởng tới sự phát triển của muỗi 
Anopheles. Số lượng muỗi Anopheles có mối tương quan 
nghịch với nhiệt độ (r = -0,83) và tương quan thuận với độ 
ẩm và lượng mưa trung bình (r = 0,68 và r = 0,62).
SUMMARY:
THE RELATION BETWEEN VECTOR BORN OF 
DENGUE FEVER AND MALARIA TRANSFERRING 
VECTOR AND CLIMATE CHANGE IN GIA LAI 
PROVINCE
Result from analysis on the relationship between dengue 
hemorrhagic fever and malaria transferring vector and 
climate change in Gia Lai province has shown that: seasonal 
variations in rainfall and temperature are important factors 
which influence on the development of dengue fever vector. 
In rainy seasons, statistics of Aedes aegypti female mosquito’s 
density tend to increase (r = 0,65). For malaria vector, the 
change in temperature and humidity affect the growth of 
Anopheles mosquito. Anopheles mosquito population has a 
negative correlation with temperature (r = -0,83) and a positive 
correlation with average humidity and rainfall (r = 0,68 and 0,62)
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Biến đổi khí hậu, đặc biệt là hiện tượng nóng lên toàn cầu 
làm mở rộng những vùng có nhiệt độ trung bình trên 16oC 
là yếu tố khiến vùng phân bố của muỗi truyền bệnh sốt xuất 
huyết và sốt rét ngày càng mở rộng. Bệnh sốt xuất huyết và 
sốt rét là những bệnh lưu hành chủ yếu ở các khu vực nhiệt 
đới có nguy cơ lan rộng ra trên phạm vi toàn cầu [6],[7]. Dự 
báo đến năm 2080 số người mắc bệnh sốt rét sẽ tăng thêm 
260-320 triệu người và sẽ có thêm 6 triệu người mắc bệnh 
sốt xuất huyết [5],[8]. Tổ chức Y tế thế giới đã xác định có 
14 dịch bệnh chính có liên quan đến BĐKH, bao gồm bệnh 
sốt rét, dịch tả, viêm não mô cầu, sốt xuất huyết,... [7],[8].
Việt Nam là một trong các quốc gia chịu ảnh hưởng nặng 
nề của biến đổi khí hậu và là vùng lưu hành nhiều dịch bệnh 
như sốt rét, sốt xuất huyết dengue (SXHD), tiêu chảy, viêm 
đường hô hấp cấp... Trong đó, bệnh SXHD và sốt rét là hai 
bệnh thường có khả năng phát triển mạnh thành dịch [1],[2]. 
Tại Việt Nam, số mắc và chết do SXHD gia tăng kể từ năm 
1994 trở lại đây, bệnh đã và đang trở thành vấn đề y tế 
nghiêm trọng. Tình hình diễn biến của dịch ngày càng lan 
rộng và phức tạp [1],[2]. Hơn nữa, SXHD không chỉ ảnh 
hưởng lên sức khỏe cá nhân mà còn là vấn đề y tế công cộng 
cần quan tâm, có ảnh hưởng tới kinh tế và xã hội. Hiện tại 
trên thế giới chưa có vắc xin phòng bệnh và cũng chưa có 
thuốc điều trị đặc hiệu, do đó biện pháp ngăn ngừa hiệu quả 
duy nhất chính là kiểm soát véctơ truyền bệnh [4]. 
Mục nghiên cứu: Phân tích ảnh hưởng của biến đổi khí 
hậu tới véctơ truyền bệnh sốt xuất huyết và sốt rét Gia Lai.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Véctơ truyền bệnh sốt xuất 
huyết, sốt rét.
* Địa điểm nghiên cứu 
- Nghiên cứu véctơ truyền bệnh sốt xuất huyết được tiến 
hành tại 7 huyện có tỷ lệ mắc sốt xuất huyết cao nhất của tỉnh 
1. Học viện Quân y. Tác giả chính: Nguyễn Văn Chuyên. ĐT: 0983.407.484 - Email: [email protected]
2. Bộ Tư lệnh Công binh
Ngày nhận bài: 07/02/2017 Ngày phản biện: 11/02/2017 Ngày duyệt đăng: 18/02/2017
 V
IỆN
 SỨ
C K
HỎE CỘNG ĐỒ
NG
SỐ 37- Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn118
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Gia Lai, gồm: Tp. Pleiku, huyện Krông Pa, Đức Cơ, huyện 
Kbang, Thị xã An Khê, huyện Phú Thiện và huyện Chu Puh. 
Đây là những huyện có Tỷ lệ mắc sốt xuất huyết/100.000 dân 
cao nhất trong 6 năm gần nhất (2009-2014) và >60. 
- Nghiên cứu véctơ truyền bệnh sốt rét: Nghiên cứu được 
tiến hành tại huyện Krông Pa là “điểm nóng” về sốt rét trong 
mấy năm gần đây với tỷ lệ ký sinh trùng được phát hiện và 
số người mắc sốt rét cao nhất cả nước. Toàn bộ 14 xã, thị trấn 
nằm trong phân vùng sốt rét lưu hành nặng của Bộ Y tế. Năm 
2013, toàn huyện có 2.073 bệnh nhân sốt rét, đến năm 2014 
có 2.210 bệnh nhân (tăng 6,6%). Tỷ lệ ký sinh trùng sốt rét 
được phát hiện là 2.048 (năm 2013) và 2.191 (năm 2014), 
tăng 6,9%.
* Thời gian nghiên cứu: 3/2015-4/2016
2.2. Nội dung nghiên cứu
- Thu thập dữ liệu khí hậu tại các địa điểm nghiên cứu. 
- Thu thập dữ liệu véctơ truyền bệnh và bệnh sốt rét, sốt 
xuất huyết dengue tại các địa điểm nghiên cứu. 
- Phân tích mối quan hệ giữa véctơ truyền bệnh sốt rét, sốt 
xuất huyết dengue và biến đổi khí hậu. 
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Nghiên cứu tập tính, phô bố véctơ truyền bệnh 
sốt xuất huyết
Phối hợp với Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh Gia Lai tiến 
hành điều tra, đánh giá tập tính và phân bố véctơ truyền bệnh 
sốt xuất huyết và sốt rét.
- Điều tra, thu thập bọ gậy và muỗi 
- Xác định phân bố, tập tính muỗi, xác định các chỉ số: 
chỉ số DI (số muỗi cái Aedes aegypti trung bình trong 1 đơn 
vị khảo sát), chỉ số HI (tỷ lệ nhà có muỗi cái Aedes aegypti 
trưởng thành), chỉ số BI (số nhà có phát hiện bọ gậy Aedes 
aegypti), chỉ số CI (%) (dụng cụ chứa nước phát hiện thấy 
loăng quăng), số lượng muỗi Anopheles epiroticus thu thập 
được [3].
2.3.2. Phân tích mối liên quan giữa biến đổi khí hậu và 
tập tính, phân bố véctơ truyền bệnh sốt xuất huyết dengue, 
sốt rét
Sử dụng hệ số tương quan r phân tích số liệu nhiệt độ, độ 
ẩm và lượng mưa với số lượng muỗi thu thập từ tháng 3 năm 
2015 đến tháng 4 năm 2016.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
Hai bệnh do muỗi truyền tương đối phổ biến ở Việt Nam 
là bệnh sốt xuất huyết và bệnh sốt rét. Bệnh sốt xuất huyết 
do muỗi Aedes truyền. Tại thành phố thường do muỗi Aedes 
aegypti truyền và tại nông thôn thường do Aedes albopictus 
truyền [1]. Bệnh sốt rét do muỗi Anopheles truyền. Tại vùng 
rừng núi phía Bắc thường do An. Minimus truyền. Tại vùng 
rừng phía Nam thường do An. Dirus truyền [2]. Tại vùng 
nước lợ phía Bắc thường do An. Subpictus truyền và tại vùng 
nước lợ phía Nam thường do An. Sundaicus truyền [2]. Thay 
đổi khí hậu ảnh hưởng rất nhiều đến phát triển của muỗi. Sự 
phát triển của muỗi quyết định khả năng truyền bệnh và dẫn 
tới sự tăng giảm của bệnh.
3.1. Liên quan giữa BĐKH và véctơ truyền bệnh sốt 
xuất huyết dengue
Hình 3.1. Phân bố số mắc SXHD theo huyện/thị xã/thành phố tại tỉnh Gia Lai (2009-2014)
SỐ 37 - Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn 119
2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
Trong giai đoạn 2009-2014, SXHD ghi nhận ở 17 huyện/
thị xã/thành phố của tỉnh Gia Lai ở hầu hết các năm. Tại Tp. 
Pleiku có tỷ lệ mắc trung bình cao nhất (236,29/1000.000 
dân), kế đến là huyện Đức Cơ (130.59/100.000 dân), Phú 
Thiện (119,99/100.000 dân); thấp hơn cả là huyện Chư Pah 
(5,78/100.000 dân). Đáng chú ý, năm 2010 số ca mắc cao 
nhất ở Tp. Pleiku (970,9/100.000 dân) và thị xã An Khê 
(859,7/100.000 dân), huyện Kbang cũng có số mắc khá cao 
(325,5/100.000 dân), các huyện khác có số mắc thấp hơn. Năm 
2013, huyện Phú Thiện có số ca mắc cao nhất (369,6/100.000 
dân), kế đến là huyện Krông Pa (257,9/100.000 dân), huyện 
Đức Cơ (256,9/100.000 dân), tp Pleiku (254,4/100.000 dân), 
huyện KBang (236,0/100.000 dân), các huyện còn lại có số 
mắc thấp hơn. Riêng thị xã An Khê, ngoại trừ năm 2010 có 
tỷ lệ mắc rất cao, nhưng có tới 4 năm không ghi nhận bệnh 
nhân SXHD.
Hình 3.2. Phân loại muỗi vào mùa khô
37.28
3.64
8.87
39.74
1.2
Ae.aegypti Ae.albopictus
Culex Anopheles sp
Khác
Hình 3.3. Phân loại muỗi vào mùa mưa
37.28
3.64
8.87
39.74
1.2
Ae.aegypti Ae.albopictus Culex
Anopheles sp Khác
Kết quả nghiên cứu tại 7 huyện /thị xã của tỉnh Gia Lai cho 
thấy, vào mùa khô, loại muỗi chiếm chủ yếu là muỗi Anopheles 
sp (39,74%), muỗi Ae.aegygti chiếm thứ 2 (37,28%). Muỗi 
Culex chiếm thứ 3 (8,87%) và thấp nhất là muỗi Ae.albopictus 
(3,64%). Còn lại 10,47% số muỗi bắt được là các loài muỗi 
khác.
Kết quả nghiên cứu vào mùa mưa tỷ lệ muỗi Ae.aegypti 
vào mùa này tăng khá cao (41,1%), tỷ lệ muỗi Anopheles sp 
cao thứ 2 (39,8 %), muỗi Ae.albopictus chỉ chiếm khoảng 
2,8%, còn lại 8,2% là muỗi Culex và 8,1% là các loại muỗi 
khác.
Bảng 3.1. Sự phân bố Ae. aegypti tại Gia Lai theo tháng
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Chỉ số Breteau (BI) 7,9 12,6 8,0 29,3 34,1 44,7 126,5 32,4 35,9 29,7 24,6 18,9
Chỉ số nhà có loăng quang 5,7 8,3 11,1 18,9 220,9 25,6 58,5 23,1 24,1 18,8 14,9 10,2
Tỉ lệ % DCCN có loăng quăng 2,1 3,4 4,3 7,6 8,7 9,6 28,6 7,8 7,8 6,6 4,8 3,8
Chỉ số mật độ loăng quăng 0 0,1 0 0 0 0,8 0 0 0 0 0 0
Chỉ số mật độ muỗi (DI) 0,1 1,7 0,4 0,6 0,8 1,3 20,3 1,0 1,1 0,8 0,6 0,7
Chỉ số nhà có muỗi (HI) 5,6 4,3 12,1 16,9 24,7 28,7 29,9 25,1 27,9 18,9 14,6 12,5
Kết quả phân tích số liệu thống kê từ năm 2003 -2013 
cho thấy, loài muỗi truyền bệnh sốt xuất huyết tại Gia Lai là 
Ae. aegypti.
Kết quả phân tích số liệu về sự phân bố của Ae. aegypti 
theo tháng cho thấy, số lượng loăng quăng và muỗi Ae. 
aegypti tăng cao vào những tháng mùa mưa và giảm thấp 
vào những tháng mùa khô. Số lượng muỗi bọ gậy và muỗi 
Ae. aegypti thường bắt đầu tăng cao từ tháng 4, đạt đỉnh vào 
tháng 7, sau đó giảm dần và thấp nhất vào tháng 1. 
 V
IỆN
 SỨ
C K
HỎE CỘNG ĐỒ
NG
SỐ 37- Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn120
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bảng 3.2. Chỉ số về mật độ muỗi cái trưởng thành và mật độ bọ gậy Ae.aegypti theo mùa
Bảng 3.3. Mô hình hồi quy giữa chỉ số về mật độ muỗi cái Aedes aegypti và điều kiện thời tiết khí hậu ở Gia Lai
Chỉ số Mùa Krông Pa Tp. Pleiku Đức Cơ Kbang Thị xã An Khê Phú Thiện Chu Puh
DI Mùa khô 0,20 0,22 0,25 0,46 0,35 1,2 0,9
Mùa mưa 0,32 0,32 0,35 0,46 0,56 1,02 1,32
HI (%) Mùa khô 70 72 76 80 82 88 84
Mùa mưa 64 68 70 84 83 86 87
BI Mùa khô 14 16 16 17 17 20 21
Mùa mưa 15 18 18 18 18 22 23
CI (%) Mùa khô 12,6 13,5 14,6 19,1 21,1 23,2 31,7
Mùa mưa 4,3 5,8 7,6 12,6 9,2 17,2 24,4
Biến khí hậu
Chỉ số về mật độ muỗi cái Aedes aegypti
Phương trình hồi quy R- F-sta Prob
Nhiệt độ trung bình tháng 3 y= -14,82x2 + 830,4x- 0,74 5,78 0,066*
Nhiệt độ trung bình tháng 11 y= 17,42x2 - 944x+ 0,85 11,28 0,023**
Nhiệt độ tối thấp tháng 3 y= -17,05x2 + 856,9x- 0,75 6,09 0,061*
Nhiệt độ tối thấp tháng 11 y= 23,53x2 - 1155x+ 0,86 12,29 0,02**
Nhiệt độ tối cao tháng tháng 4 y= -8,639x2 + 582,3x- 0,87 13,5 0,017**
Lượng mưa trung bình tháng 8 y= -0,004x2 + 1,438x- 0,78 7,24 0,047**
- Chỉ số mật độ muỗi cái trường thành và mật độ bọ 
gậy Ae.aegypti vào mùa khô, cho thấy: chỉ số DI và HI của 
Krông Pa, Tp. Pleiku và huyện Đức Cơ là thấp nhất; Chỉ số 
DI của Kbang, huyện Phú Thiện và huyện Chu Puh cao hơn; 
Chỉ số BI cao nhất ở huyện Chu Puh, tiếp đến là huyện Phú 
Thiện, thị xã An Khê, thấp nhất là Kbang (11%) và huyện 
đảo Krông Pa (14%); Chỉ số CI (%) cao nhất là ở huyện Chu 
Puh (31,7%) tiếp đến là huyện Chu Puh (23,2%), thấp nhất 
là huyện đảo Krông Pa (12,6%). Chỉ số DI ở huyện Chu Puh 
cao nhất, thấp nhất là huyện đảo Krông Pa và Tp. Pleiku.
- Chỉ số mật độ muỗi cái trường thành và mật độ bọ gậy 
Ae.aegypti vào mùa mưa: chỉ số HI cao ở Kbang, thị xã An 
Khê, huyện Phú Thiện và huyện Chu Puh. Các huyện Krông 
Pa, Tp. Pleiku và Đức Cơ thấp hơn. Sự chênh lệch về chỉ số 
này cho thấy, các huyện Thị xã An Khê, huyện Phú Thiện, 
huyện Chu Puh và Kbang có độ phổ biến véctơ SXH cao hơn. 
Chỉ số BI và CI (%) cao nhất ở huyện Chu Puh (23%, 24,4%) 
và huyện Phú Thiện (22%, 17,2%). Thấp nhất ở huyện đảo 
Krông Pa (15%, 4,3%) và huyện Tp. Pleiku (18%, 5,8%).
 Phân tích mối liên quan giữa sự gia tăng véctơ SXH/
SD và hiện tượng biến đổi khí hậu: nhóm nghiên cứu tiến 
hành khảo sát sự thay đổi của các yếu tố nhiệt độ và lượng 
mưa theo từng tháng. Sử dụng mô hình của Dana Focks cho 
thấy, sự biến đổi về lượng mưa và nhiệt độ theo mùa được 
cho là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới sự phát triển 
của véctơ SD/SXHD. Theo kết quả của nhóm nghiên cứu 
thì có sự chênh lệch về 2 chỉ số DI và HI của các Huyện 
trong mùa mưa và mùa khô. Vào mùa mưa, thì các chỉ số 
về mật độ muỗi cái Aedes aegypti có xu hướng tăng cao 
hơn (r = 0,65).
Nguồn: kết xuất từ Minitab
Ghi chú: *,** lần lượt là các mức ý nghĩa về mặt thống 
kê tương ứng α = 10%,5%. Hệ số F
2,4
 lý thuyết = 4,32; 6,94 
tương ứng lần lượt với α= 10%, 5%.
SỐ 37 - Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn 121
2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
Nhiệt độ (trung bình tháng 3 và tháng 11, tối thấp tháng 
3 và tháng 11, tối cao tháng 4) và tổng lượng mưa (tháng 8) 
được sử dụng để xây dựng công thức đánh giá mối liên quan 
giữa các hiện tượng thời tiết khí hậu với véctơ truyền bệnh 
sốt xuất huyết. Các phương trình có dạng đường cong hàm 
mũ bậc 2, phương sai của mỗi phương trình đều trên 70%.
Các mối tương quan tuyến tính có ý nghĩa thống kê cao 
(r2 > 0,7, F thực nghiệm > F lý thuyết, P < 0,066, d.f = 6).
Kết quả nghiên cứu cho thấy thay vì tương quan rõ rệt 
với yếu tố khí hậu của cả năm thì véctơ truyền bệnh sốt xuất 
huyết lại thường chỉ phụ thuộc vào yếu tố khí hậu của một số 
tháng quan trọng trong năm. Trong khoảng thời gian ngắn, 
sự gia tăng nhiệt độ trong các tháng quan trọng tuy là không 
đáng kể (xấp xỉ 0,5oC) nhưng rõ rệt hơn so với sự thay đổi 
nhiệt độ hàng năm.
Các kết quả phân tích cho thấy, véctơ truyền bệnh sốt xuất 
huyết tại Gia Lai gia tăng từ tháng 5 đến tháng 11. Tuy nhiên, 
mối tương quan lại xuất hiện sớm với nhiệt độ của các tháng 
trước đó. Tháng 3 và tháng 4 là các tháng cách đầu mùa dịch 
2-3 tháng gây ảnh hưởng lên véctơ truyền bệnh sốt xuất huyết 
đầu mùa. Điều này cho thấy mối tương quan trễ (pha lag) của 
yếu tố khí hậu đối với véctơ truyền bệnh sốt xuất huyết. 
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy có mối tương quan 
cao giữa lượng mưa tháng 8 với các chỉ số chỉ mật độ véctơ 
truyền bệnh sốt xuất huyết. Đây là tháng có lượng mưa cao 
nhất và nằm giữa mùa mưa ở Gia Lai. Yếu tố mưa và véctơ 
truyền bệnh sốt xuất huyết có sự tương quan trễ (pha lag) 
khoảng 1 tháng. Khoảng thời gian trễ này cũng phù hợp với 
vòng đời của muỗi Aedes Aegypti [5].
3.2. Liên quan giữa biến đổi khí hậu và véctơ truyền 
bệnh sốt rét
Trong phạm vi nghiên cứu, đề tài chỉ tiến hành nghiên 
cứu đánh giá ảnh hưởng của điều kiện thời tiết, khí hậu tới 
véctơ truyền bệnh sốt rét tại huyện Krông Pa. Đây là huyện 
có sốt rét cao nhất của tỉnh Gia Lai.
Kết quả khảo sát cho thấy, véc tơ chính truyền sốt xuất 
huyết tại huyện Krông Pa là An.minimus, An.dirus. Vec tơ 
phụ: An.aconitus, An.jeyporiensis, An.maculatus, An.subpictus, 
An.sinensis, An.vagus, An.indefinitus, An.campestris. Trong 
phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi chỉ tiến hành phân 
tích mối liên quan giữa Anopheles với các điều kiện thời tiết, 
khí hậu của địa phương. 
Hình 3.4. Sự biến động số lượng muỗi Anopheles theo nhiệt độ, độ ẩm và lượng mưa
0
50
100
150
200
250
300
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Nhiệt độ 
Độ ẩm
Lượng mưa
Số muỗi thu thập
Nhiệt độ tháng giảm từ tháng 10 năm 2013 đến tháng 
2 năm 2014, lượng mưa tăng từ tháng 8 đến tháng 11 năm 
2013, độ ẩm tăng từ tháng 8 năm 2013 đến tháng 1 năm 
2014, số lượng muỗi Anopheles thu thập tăng từ tháng 9 đến 
tháng 12 năm 2013. Sử dụng hệ số tương quan phân tích số 
liệu nhiệt độ, lượng mưa, độ ẩm và số lượng muỗi thu thập 
từ tháng 3 năm 2013 đến tháng 2 năm 2014 xác định: có sự 
tương quan nghịch giữa nhiệt độ và số lượng muỗi thu thập 
(r = -0,83), có mối tương quan thuận giữa lượng mưa, độ ẩm 
và số lượng muỗi (r= 0,62 và r = 0,68).
 V
IỆN
 SỨ
C K
HỎE CỘNG ĐỒ
NG
SỐ 37- Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn122
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Hình 3.5. Sự biến động bệnh sốt rét tại của Gia Lai theo nhiệt độ, độ ẩm và lượng mưa
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
0
100
200
300
400
500
600
700
B
N
S
R
 -
N
h
iệ
t 
đ
ộ
-
Ẩ
m
 đ
ộ
2008 2009 2010 2011 2012 1013 2014 
Lượng mưa BNSR Nhiệt Độ Ẩm Độ
Số ca bệnh nhân sốt rét mới phát hiện tại Giai Lai trong 
7 năm (2008-2014) có mối tương quan thuận với lượng mưa 
trung bình năm, độ ẩm và tương quan nghịch với nhiệt độ 
của địa phương. 
IV. KẾT LUẬN
Có mối liên quan giữa véctơ sốt xuất huyết dengue và hiện 
tượng biến đổi khí hậu. Sự biến đổi về lượng mưa và nhiệt độ 
theo mùa là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới sự phát 
triển của véctơ sốt xuất huyết dengue. Có sự chênh lệch về 2 
chỉ số DI và HI của các huyện trong mùa mưa và mùa khô. 
Vào mùa mưa, các chỉ về mật độ muỗi cái Aedes aegypti có xu 
hướng tăng cao hơn (r = 0,65). Có mối tương quan trễ (pha 
lag) giữa các yếu tố nhiệt độ, lượng mưa với véctơ truyền 
bệnh sốt xuất huyết tại tỉnh Gia Lai. Giữa các chỉ số đánh giá 
mật độ véctơ truyền bệnh sốt xuất huyết và yếu tố lượng mưa 
có sự tương quan trễ 1 tháng và 2 tháng với yếu tố nhiệt độ.
Có mối liên quan giữa sự gia tăng véctơ Anopheles 
truyền bệnh sốt rét và hiện tượng biến đổi khí hậu. Có sự 
tương quan nghịch (r = -0,83) giữa nhiệt độ và số lượng muỗi 
Anopheles thu thập. Giữa lượng mưa trung bình, độ ẩm và 
số lượng muỗi Anopheles có mối tương quan thuận (r = 0,62 
và r = 0,68). 
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Bộ Y tế (2006), Giám sát, chẩn đoán và điều trị bệnh Sốt Dengue/Sốt xuất huyết Dengue, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
2. Nguyễn Mạnh Hùng, Nguyễn Quang Thiều, Lê Xuân Hùng và CS (2011), “Phân vùng dịch tễ sốt rét can thiệp tại Việt 
Nam năm 2009”, Công trình khoa học báo cáo tại hội nghị ký sinh trùng lần thứ 38, Nxb Y học, Hà Nội, tr. 15-29.
3. Viện Paster TPHCM (2009), Tài liệu hướng dẫn tập huấn điều tra công trùng.
4. Gubler, D.J (1997), Dengue and dengue hemorrhagic fever; its history and resurgence as a global public health problem, 
IN Kuno, D. G. G. (Ed.) Dengue and Dengue Hemorrhagic Fever, CAB International, New York.
5. Gubler, D. J. (1998), "Dengue and Dengue Hemorrhagic Fever", Clinical Microbiology Reviews, 11(3), pp. 480-496.
6. WHO (2008), Asia- Pacific Dengue program managers meeting, World Health Organization.
7. WHO (2008), Protecting health from climate change - World Health Day 2008, 2008: Geneva.
8. WHO (2003), Climate change and human health – Risks and responses, Geneva 2003.

File đính kèm:

  • pdflien_quan_giua_vecto_truyen_benh_sot_suat_huyet_dengue_sot_r.pdf