Liên quan giữa tình trạng kháng insulin với một số yếu tố nguy cơ tim mạch ở bệnh nhân cao tuổi có tăng huyết áp

Mục tiêu: Khảo sát mối liên quan với một số yếu tố nguy cơ tim mạch ở bệnh

nhân cao tuổi có tăng huyết áp tại bệnh viện quân y 175.

Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 121 bệnh nhân cao

tuổi, được chia làm 2 nhóm. Nhóm bệnh gồm 84 bệnh nhân có tăng huyết áp, nhóm chứng

gồm 37 bệnh nhân không tăng huyết áp. Đánh giá tình trạng kháng insulin bằng mô hình

HOMA 2.

Kết quả: Chỉ số kháng insulin (HOMA.IR) của nhóm bệnh nhân cao tuổi có tăng

huyết áp cao hơn so với nhóm bệnh nhân cao tuổi không có tăng huyết áp. Chức năng

tế bào beta (HOMA.B) và độ nhạy cảm với insulin (HOMA.S) của nhóm bệnh nhân cao

tuổi có tăng huyết áp thấp hơn so với nhóm bệnh nhân cao tuổi không có tăng huyết áp.

Chỉ số HOMA.B ở bệnh nhân THA có kèm theo hội chứng chuyển hóa thấp hơn có ý

nghĩa so với bệnh nhân THA không kèm hội chứng chuyển hóa. Chỉ số HOMA.IR tương

quan thuận mức độ trung bình với BMI. Ngược lại HOMA.B và HOMA.S tương quan

nghịch mức độ trung bình với BMI. Không có mối liên quan giữa các chỉ số đề kháng

insulin với tuổi và giới (p > 0,05)

pdf 8 trang phuongnguyen 200
Bạn đang xem tài liệu "Liên quan giữa tình trạng kháng insulin với một số yếu tố nguy cơ tim mạch ở bệnh nhân cao tuổi có tăng huyết áp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Liên quan giữa tình trạng kháng insulin với một số yếu tố nguy cơ tim mạch ở bệnh nhân cao tuổi có tăng huyết áp

Liên quan giữa tình trạng kháng insulin với một số yếu tố nguy cơ tim mạch ở bệnh nhân cao tuổi có tăng huyết áp
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
5
1 Bệnh viện Quân y 175
Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Thanh Bình ([email protected])
Ngày nhận bài: 20/10/2018, ngày phản biện: 25/10/2018
Ngày bài báo được đăng: 30/3/2019
LIÊN QUAN GIỮA TÌNH TRẠNG KHÁNG INSULIN VỚI 
MỘT SỐ YẾU TỐ NGUY CƠ TIM MẠCH 
Ở BỆNH NHÂN CAO TUỔI CÓ TĂNG HUYẾT ÁP
Nguyễn Thanh Bình1, Trương Đình Cẩm1
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát mối liên quan với một số yếu tố nguy cơ tim mạch ở bệnh 
nhân cao tuổi có tăng huyết áp tại bệnh viện quân y 175.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 121 bệnh nhân cao 
tuổi, được chia làm 2 nhóm. Nhóm bệnh gồm 84 bệnh nhân có tăng huyết áp, nhóm chứng 
gồm 37 bệnh nhân không tăng huyết áp. Đánh giá tình trạng kháng insulin bằng mô hình 
HOMA 2.
Kết quả: Chỉ số kháng insulin (HOMA.IR) của nhóm bệnh nhân cao tuổi có tăng 
huyết áp cao hơn so với nhóm bệnh nhân cao tuổi không có tăng huyết áp. Chức năng 
tế bào beta (HOMA.B) và độ nhạy cảm với insulin (HOMA.S) của nhóm bệnh nhân cao 
tuổi có tăng huyết áp thấp hơn so với nhóm bệnh nhân cao tuổi không có tăng huyết áp. 
Chỉ số HOMA.B ở bệnh nhân THA có kèm theo hội chứng chuyển hóa thấp hơn có ý 
nghĩa so với bệnh nhân THA không kèm hội chứng chuyển hóa. Chỉ số HOMA.IR tương 
quan thuận mức độ trung bình với BMI. Ngược lại HOMA.B và HOMA.S tương quan 
nghịch mức độ trung bình với BMI. Không có mối liên quan giữa các chỉ số đề kháng 
insulin với tuổi và giới (p > 0,05).
Kết luận: Ở bệnh nhân tăng huyết áp người cao tuổi có mối liên quan có ý nghĩa 
giữa chức năng tế bào beta và độ nhạy cảm insulin liên quan với hội chứng chuyển hóa 
và chỉ số BMI.
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 17 - 3/2019 
6
Từ khóa: Người cao tuổi có tăng huyết áp, Chỉ số kháng insulin.
RELATIONSHIP BETWEEN INSULIN RESISTANCE 
WITH SOME CARDIOVASCULAR RISK FACTORS
IN ELDERLY PATIENTS WITH HYPERTENSION
SUMMARY
Aim: Investigating associations with some cardiovascular risk factors in elderly 
patients with hypertension at Military Hospital 175.
Subject and Methods: A cross-sectional and case-control study of 121 elderly 
patients were divided into two groups. Disease group was included 84 patients with 
hypertension, control group of 37 patients without hypertension . Evaluation of insulin 
resistance by HOMA 2 model.
Results: Insulin resistance index (HOMA.IR) in elderly patients with hyperten-
sion was higher than in elderly patients without hypertension (p < 0,001). Beta-cell 
function (HOMA.B) and insulin sensitivity (HOMA.S) in elderly patients with hyperten-
sion was lower than in elderly patients without hypertension (p < 0,001). The HOMA.IR 
index correlates positively with BMI, whereas HOMA.B and HOMA.S correlate nega-
tively with BMI (p < 0,05). The HOMA.B index in patients with hypertension associated 
with metabolic syndrome was significantly lower in comparison with hypertensive pa-
tients without metabolic syndrome(p < 0,05). There was no correlation between insulin 
resistance and age and gender (p > 0.05).
Conclusions: In elderly patients with hypertension, there is a significant as-
sociation between beta cell function and insulin sensitivity associated with metabolic 
syndrome and BMI.
Keywords: Elderly with hypertension, Insulin resistance index.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay tỉ lệ người cao tuổi 
trên thế giới ngày càng tăng và Việt Nam 
không nằm ngoài xu hướng chung đó. Sự 
già hóa dân số sẽ kéo theo hàng loạt các 
bệnh lý liên quan đến người cao tuổi như 
thừa cân béo phì, các bệnh lý tim mạch hay 
đái tháo đường týp 2. Chăm sóc sức khỏe 
cho người cao tuổi đang là vấn đề lớn của 
ngành y tế nhằm làm giảm tỷ lệ bệnh tật, 
giảm tàn phế, giảm gánh nặng về chi phí 
điều trị và làm tăng chất lượng cuộc sống 
cho nhóm dân số này. Do vậy, vấn đề kiểm 
soát càng nhiều yếu tố nguy cơ, đặc biệt là 
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
7
tăng huyết áp (THA) và đái tháo đường, 
là chiến lược quan trọng nhằm khống chế 
hoặc làm thoái thui tỉ lệ mắc bệnh[4][8]. 
Một số nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra 
rằng, những bất thường về chuyển hóa 
như tăng Triglycerid, giảm HDL-C, tăng 
mỡ bụng, tăng huyết áp, tăng đường huyết 
là những yếu tố liên quan đến đề kháng 
insulin. Vì vậy, bệnh đái tháo đường týp 
2 chỉ là hậu quả của sự kháng insulin và 
các bất thường chuyển hóa trước đó, trong 
đó có THA[7][9]. Chúng tôi tiến hành đề 
tài này nhằm mục tiêu: Khảo sát mối liên 
quan giữa tình trạng kháng insulin với một 
số yếu tố nguy cơ tim mạch ở bệnh nhân 
cao tuổi có tăng huyết áp.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Gồm 121 bệnh nhân cao tuổi đến 
khám tại phòng khám tim mạch - khớp - 
nội tiết Bệnh viện quân y 175 từ 12/2016 
đến 06/2017. Đối tượng được chia làm 2 
nhóm, nhóm bệnh gồm 84 bệnh nhân có 
tăng huyết áp, nhóm chứng gồm 37 bệnh 
nhân không tăng huyết áp. 
* Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng 
nghiên cứu:
- Bệnh nhân trên 60 tuổi
- Chẩn đoán tăng huyết áp theo 
JNC VII.
* Tiêu chuẩn loại trừ:
- Bệnh nhân đã được chẩn đoán 
ĐTĐ theo ADA 2015.
- Bệnh nhân đang sử dụng insulin
- Đang sử dụng một số thuốc có 
ảnh hưởng đến chức năng tế bào beta như: 
corticoid...
- Mắc các bệnh nhiêm khuẩn cấp 
tính
- Suy gan, suy thận nặng.
- Có các bệnh lý đi kèm nặng.
- Bệnh nhân không đồng ý tham 
gia nghiên cứu.
2. Phương pháp nghiên cứu
- Thiết kế nghiên cứu: tiến cứu, 
mô tả cắt ngang so sánh với nhóm chứng.
- Nội dung nghiên cứu: tất cả đối 
tượng nghiên cứu được hỏi, thăm khám 
lâm sàng tỉ mỉ, làm các xét nghiệm cận 
lâm sàng.
- Hỏi bệnh sử, thăm khám tổng 
quát cơ quan: hô hấp, tuần hoàn, tiết niệu
- Phân loại tăng huyết áp dựa vào 
tiêu chuẩn JNC VII (2003) .
- Chẩn đoán rối loạn lipid máu 
(RLLPM) theo Hội Tim mạch Việt Nam 
2009.
- Chẩn đoán hội chứng chuyển 
hóa theo tiêu chuẩn NCEP-ATP III 2004.
- Đánh giá đề kháng insulin bằng 
mô hình HOMA 2 (Homeostasis Model 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 17 - 3/2019 
8
Assessment) dựa theo cặp chỉ số nồng độ 
glucose máu khi đói (mmol/l) và C-peptid 
(nmol/l)[10], lấy điểm cắt giới hạn ở tứ 
phân vị trên của nhóm chứng theo tổ chức 
y tế thế giới năm 1998 đề nghị, bao gồm:
+ Chỉ số kháng insulin: HOMA.
IR
+ Chức năng tế bào beta: HOMA.B
+ Độ nhạy insulin: HOMA.S
3. Xử lý số liệu: xử lý số liệu bằng 
phần mềm SPSS 16.0.
- So sánh các biến liên tục (định 
lượng) bằng kiểm định t - Student, so sánh 
các biến định tính bằng kiểm định χ2. 
- Khảo sát tương quan giữa 2 biến 
định lượng bằng cách tính hệ số tương quan 
r. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Bảng 1. Một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của đối tượng nghiên cứu 
Chỉ tiêu
Nhóm bệnh
(n = 84)
Nhóm chứng
(n = 37)
 p
Tuổi trung bình (năm) 68,91 ± 6,79 67,43 ± 5,96 >0,05
Nam [n;(%)] 24 (28,6) 16 (43,2)
>0,05
Nữ [n;(%)] 60 (71,4) 21 (56,8)
Béo bụng [n;(%)] 59 (70,2) 11 (29,7) <0,001
BMI (kg/m2) 24,23 ± 2,61 22,94 ± 3,03 <0,05
Đường máu đói (mg/dl) 118,72 ± 30,81 99,86 ± 11,19 <0,001
Insulin (µg/ml) 18,18 ± 6,01 10,50 ± 2,98 <0,001
RLLPM [n;(%)] 80 (95,2) 21 (56,8) <0,001
HCCH [n;(%)] 58 (69,0) 7 (18,9) < 0,001
Nhận xét: Chỉ số BMI, tình trạng béo bụng ở nhóm bệnh nhân THA cao hơn có 
ý nghĩa so với nhóm chứng, đồng thời nồng độ trung bình của insulin, glucose máu, tỷ 
lệ có rối loạn lipid máu và có hội chứng chuyển hóa đều cao hơn so với nhóm chứng có 
ý nghĩa thống kê (p<0,001). 
Bảng 2. Đặc điểm kháng insulin ở đối tượng nghiên cứu
Chỉ số
Nhóm bệnh
(n=84)
Nhóm chứng
(n=37)
p
HOMA2.B 70,83 ±22,4 138,80 ± 43,55 < 0,001
HOMA2.IR 3,70 ± 1,47 0,97 ± 0,53 < 0,001
HOMA2.S 33,45 ± 17,44 132,33 ± 58,19 < 0,001
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
9
Nhận xét: Tính toán bằng mô hình HOMA2 nhận thấy chức năng tế bào beta và 
độ nhạy cảm với insulin của nhóm có THA đều giảm so với nhóm chứng. Ngược lại chỉ 
số kháng insulin của nhóm THA cao hơn so với nhóm chứng. Sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê.
Bảng 3. Liên quan giữa các chỉ số kháng insulin với giới tính ở bệnh nhân THA
Chỉ số Nam (n = 24) Nữ (n = 64) p
HOMA.B 
 ± SD
116,76 ± 73,99 111,72 ± 76,78 > 0,05
HOMA.S 
 ± SD
82,90 ± 63,71 81,53 ± 72,65 > 0,05
HOMA.IR
 ± SD
2,30 ± 1,86 2,54 ± 2,31 > 0,05
Nhận xét: Không có mối liên quan giữa các chỉ số kháng insulin với giới tính ở 
bệnh nhân THA (p > 0,05).
Bảng 4. Liên quan giữa kháng insulin và hội chứng chuyển hóa ở bệnh nhân 
THA
Chỉ số Có HCCH 
(n = 58)
Không HCCH 
(n = 26)
p
HOMA.B 
 ± SD
100,4 ± 68,85 141,56 ± 83,33 < 0,05
HOMA.S 
 ± SD
82,90 ± 63,71 69,83 ± 62,82 > 0,05
HOMA.IR
 ± SD
2,72 ± 2,15 2,21 ± 1,91 > 0,05
Nhận xét: Chức năng tế bào beta ở bệnh nhân tăng huyết áp có HCCH thấp hơn 
những bệnh nhân không mắc HCCH, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Bảng 5. Tương quan giữa kháng insulin với tuổi và BMI ở bệnh nhân THA
Chỉ số HOMA.B HOMA.S HOMA.IR
Tuổi
r 0,121 0,031 -0,089
p > 0,05 > 0,05 > 0,05
BMI
r -0,365 -0,313 0,338
p < 0,05 < 0,05 < 0,05
Nhận xét: Chức năng tế bào beta và độ nhạy cảm insulin có tương quan 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 17 - 3/2019 
10
nghịch mức độ trung bình với chỉ số BMI, 
ngược lại chỉ số kháng insulin tương quan 
thuận mức độ trung bình với BMI (p < 
0,05). Không có mối liên quan giữa tuổi 
với các chỉ số đề kháng insulin (p > 0,05).
BÀN LUẬN
1. Về đặc điểm chung và tình trạng 
kháng insulin của đối tượng nghiên cứu
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 
giữa nhóm bệnh và nhóm chứng không 
có sự khác biệt về độ tuổi, giới tính. Tuy 
nhiên nhận thấy rằng ở nhóm bệnh nhân 
tăng huyết áp có các rối loạn chuyển hóa 
đi kèm như béo bụng, thừa cân, rối loạn 
mỡ máu cao hơn có ý nghĩa thống kê so 
với nhóm chứng. Kết quả này phù hợp với 
nghiên cứu của Giao Thị Thoa 2015[6] và 
nghiên cứu FRAMINHAM 1996. Những 
rối loạn chuyển hóa nêu trên là tiền đề để 
xuất hiện các bệnh lý tim mạch, rối loạn 
dung nạp đường máu sau này. Trên người 
bình thường, nồng độ glucose huyết được 
duy trì hằng định bởi 3 yếu tố: sự tiết 
insulin, sự thu nạp glucose ở mô ngoại vi và 
sự ức chế sản xuất glucose từ gan. Sau khi 
ăn lượng glucose tăng lên trong máu làm 
kích thích tuỵ tiết insulin để đưa glucose 
huyết về mức bình thường, nếu có khiếm 
khuyết tại tế bào beta thì sự tiết insulin sẽ 
giảm hoặc kháng với tác dụng của insulin 
tại mô đích hậu quả là tăng glucose huyết 
và bệnh đái tháo đường týp 2 xuất hiện 
trên lâm sàng[7]. Kết quả nghiên cứu tỉ lệ 
đề kháng insulin của chúng tôi thấp hơn 
so với các nghiên cứu trong nước, như 
nghiên cứu của Nguyễn Thành Thuận là 
74%, Trần Thị Kim Thảo là 69,2%[5]. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001) về chỉ 
số chức năng tế bào beta, độ nhạy insulin 
cũng như chỉ số kháng insulin giữa nhóm 
bệnh và nhóm chứng, điều này chứng tỏ 
có tình trạng đề kháng insulin cũng như có 
tình trạng suy giảm chức năng tế bào beta 
ở nhóm bệnh nhân tăng huyết áp. Chức 
năng tế bào beta suy giảm theo tuổi đó là 
suy giảm về mặt sinh lý, nhưng nhóm bệnh 
nhân bị tăng huyết áp và tăng huyết áp có 
đái tháo đường thì tình trạng suy giảm này 
trở nên có ý nghĩa hơn[9]. 
2. Mối liên quan giữa kháng insulin 
với một số yếu tố nguy cơ tim mạch
Từ khoảng thập niên 1960 đã có 
nhiều tác giả nhận thấy có tình trạng đề 
kháng insulin ở bệnh nhân tăng huyết áp, 
và cũng có nhiều công trình nghiên cứu 
trên thực nghiệm cũng như trên lâm sàng 
chứng tỏ điều này. Các nghiên cứu của 
Kowamoto trên 1269 người đánh giá đề 
kháng insulin với tăng huyết áp[9], nghiên 
cứu IRAS của Saad và cộng sự hay nghiên 
cứu của Norman M.Kaplan 1994 đều chỉ 
ra có mối tương quan giữa tình trạng đề 
kháng insulin với tăng huyết áp. Hơn thế 
các tác giả còn nhận thấy rằng khi khống 
chế tốt huyết áp và tình trạng béo phì ở 
nhóm bệnh nhân này thì sẽ cải thiện được 
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
11
tình trạng đề kháng insulin, cũng như giảm 
thiểu các yếu tố nguy cơ tim mạch và tử 
xuất[3]. Khi tìm hiểu mối liên quan giữa 
chỉ số kháng insulin với một số yếu tố 
nguy cơ tim mạch chúng tôi nhận thấy ở 
nhóm bệnh nhân có Hội chứng chuyển hóa 
thì chức năng tế bào beta kém hơn so với 
nhóm không mắc Hội chứng chuyển hóa. 
Đồng thời chỉ số kháng insulin (HOMA.
IR) có mối tương quan thuận mức độ trung 
bình với BMI, nồng độ glucose máu lúc 
đói và insulin máu lúc đói. Kết quả nghiên 
cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu 
của Nguyễn Thanh Bình (2016)[1]. 
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, 
khi phát hiện đái tháo đường thì đã có ít 
nhất 50% tế bào beta bị suy, tình trạng 
kháng insulin xảy ra từ rất sớm, khi mà xét 
nghiệm đường máu vẫn bình thường[7]. 
Đặc biệt ở các đối tượng người cao tuổi 
có các triệu chứng của hội chứng chuyển 
hóa như thừa cân béo phì, rối loạn mỡ máu 
hay tăng huyết áp, tình trạng kháng insulin 
xảy ra từ rất sớm, đó là tiền đề để tiến triển 
thành đái tháo đường sau này. Vì vậy đối 
tượng bệnh nhân cao tuổi có THA (có chỉ 
số kháng insulin cao hơn nhóm cao tuổi 
không THA) sẽ có nguy cơ tăng nồng độ 
glucose máu dẫn đến các rối loạn dung nạp 
glucose và tiến triển thành đái tháo đường 
sau này[8]. Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa 
định hướng cho các nhà lâm sàng trong quá 
trình chăm sóc quản lý bệnh nhân cao tuổi, 
cần quan tâm khảo sát đầy đủ các yếu tố 
nguy cơ tim mạch, đái tháo đường... kiểm 
soát tốt huyết áp mục tiêu có vai trò rất 
quan trọng để giảm thiểu các biến cố tim 
mạch cũng như tình trạng đề kháng insulin 
cho người bệnh.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu mối liên quan 
giữa tình trạng kháng insulin với một số 
yếu tố nguy cơ tim mạch ở bệnh nhân cao 
tuổi có THA bằng mô hình HOMA2 chúng 
tôi rút ra một số kết luận:
- Chức năng tế bào beta ở bệnh 
nhân THA có hội chứng chuyển hóa thấp 
hơn có ý nghĩa so với bệnh nhân THA 
không mắc hội chứng chuyển hóa (p < 
0,05). 
- Chức năng tế bào beta và độ nhạy 
cảm insulin có tương quan nghịch mức độ 
trung bình với chỉ số BMI, ngược lại chỉ 
số kháng insulin tương quan thuận mức 
độ trung bình với BMI (p < 0,05). Không 
có mối liên quan giữa các chỉ số đề kháng 
insulin với tuổi và giới (p > 0.05)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thanh Bình (2016), 
“Khảo sát nồng độ glucose máu sau ăn ở 
bệnh nhân đái tháo đường type 2”, Luận 
văn Thạc sĩ y học, Học viện quân y.
2. Trương Tuyết Mai (2014), 
“Tình trạng kháng insulin và hội chứng 
chuyển hóa ở người trưởng thành tại một 
phường nội thành Hà nội”, Tạp chí Y tế 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 17 - 3/2019 
12
công cộng, 33, tr.42-48.
3. Thái Hồng Quang (2012), 
“Bệnh béo phì”, Thực hành lâm sàng bệnh 
đái tháo đường, Nhà xuất bản y học, tr. 
379.
4. Đỗ Trung Quân (2015), «Chẩn 
đoán đái tháo đường», Chẩn đoán đái tháo 
đường và điều trị, Nhà xuất bản giáo dục 
Việt Nam, tr. 56 - 66.
5. Nguyễn Thành Thuận (2010), 
“Mối tương quan giữa đề kháng insulin và 
tăng huyết áp ở nhóm công chức-viên chức 
Quận 10 TPHCM”, Luận văn tốt nghiệp 
bác sĩ nội trú, Đại học Y Dược TPHCM.
6. Giao Thị Thoa, Huỳnh Đình 
Lai, Hoàng Anh Tuấn (2015), Nghiên cứu 
hội chứng chuyển hóa trên bệnh nhân tăng 
huyết áp tại bệnh viện Đà Nẵng.
7. Nguyễn Hải Thủy (2008) “Đề 
kháng insulin trong rối loạn nội tiết - 
chuyển hóa”. NXB ĐH Huế, tr9 - 58.
8. American Diabetes Association 
(2015), “Standards of medical care in 
diabetes”, Diabetes Care, 38, p.9.
9. Kawamoto R.Kohara, K. 
Tabara. Y, Abe (2010). “Insulin resistance 
and prevalence of prehypertension and 
hypertension among community - dwelling 
persons”, Journal of atherosclerosis and 
thrombosis, 17(2), pp 148 - 155.
10. Ki Chul Sung (2011), 
“Hyperinsulinemia and Homeostasis 
Model Assessment of Insulin Resistance 
as Predictors of Hypertension: A 5-year 
Follow-Up Study of Korean Sample”, 
American Journal of Hypertension, 24(9), 
pp. 1041-1045.

File đính kèm:

  • pdflien_quan_giua_tinh_trang_khang_insulin_voi_mot_so_yeu_to_ng.pdf