Liên quan giữa tỉ số sFLT-1/PlGF và khả năng kéo dài thai kỳ trong bệnh lý Tiền sản giật

Đặt vấn đề: Tiền sản giật (TSG) là một trong những nguyên nhân dẫn đến chấm dứt thai kỳ

non tháng, làm tăng bệnh suất và tử suất chu sinh. Không dấu hiệu, không triệu chứng,

cũng như không xét nghiệm nào trước đây giúp tiên lượng được kết cục của tiền sản giật.

Gần đây, nhiều nhà nghiên cứu nhận thấy có sự sụt giảm của PlGF (yếu tố tăng trưởng

bánh nhau – yếu tố tạo mạch) và sự gia tăng của sFlt1 (yếu tố kháng tạo mạch) trong bệnh

lý TSG, làm gia tăng đáng kể tỉ số sFlt1/PlGF trước khi có chuyển biến nặng trên lâm sàng

như sản giật, hội chứng HELLP. Việc sử dụng tỉ số sFlt-1/PlGF để dự đoán khả năng kết

cục xấu thai kỳ sắp xảy ra và lựa chọn thời điểm chấm dứt thai kỳ thích hợp nhất cho tình

trạng mẹ và con hứa hẹn mang lại nhiều kỳ vọng cho thực hành lâm sàng hiện nay.

Mục tiêu nghiên cứu: Xác định trị số trung bình của tỉ số sFlt-1/PlGF ở nhóm thai kỳ bị

TSG có kết cục xấu và TSG không có kết cục xấu trong thai kỳ - Xác định mối liên quan

giữa tỉ số sFlt-1/PlGF với khả năng kéo dài thai kỳ trong bệnh lý tiền sản giật.

pdf 7 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "Liên quan giữa tỉ số sFLT-1/PlGF và khả năng kéo dài thai kỳ trong bệnh lý Tiền sản giật", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Liên quan giữa tỉ số sFLT-1/PlGF và khả năng kéo dài thai kỳ trong bệnh lý Tiền sản giật

Liên quan giữa tỉ số sFLT-1/PlGF và khả năng kéo dài thai kỳ trong bệnh lý Tiền sản giật
15
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
Liên quan giữa tỉ số sFLT-1/PlGF và khả năng 
kéo dài thai kỳ trong bệnh lý Tiền sản giật 
Lê Quang Thanh*; Hoàng Thị Diễm Tuyết; Bùi Thị Hồng Nhu; Phạm Thanh Hải; 
Nguyễn Long; Lê Phương Dung 
Tóm tắt 
Đặt vấn đề: Tiền sản giật (TSG) là một trong những nguyên nhân dẫn đến chấm dứt thai kỳ 
non tháng, làm tăng bệnh suất và tử suất chu sinh. Không dấu hiệu, không triệu chứng, 
cũng như không xét nghiệm nào trước đây giúp tiên lượng được kết cục của tiền sản giật. 
Gần đây, nhiều nhà nghiên cứu nhận thấy có sự sụt giảm của PlGF (yếu tố tăng trưởng 
bánh nhau – yếu tố tạo mạch) và sự gia tăng của sFlt1 (yếu tố kháng tạo mạch) trong bệnh 
lý TSG, làm gia tăng đáng kể tỉ số sFlt1/PlGF trước khi có chuyển biến nặng trên lâm sàng 
như sản giật, hội chứng HELLP. Việc sử dụng tỉ số sFlt-1/PlGF để dự đoán khả năng kết 
cục xấu thai kỳ sắp xảy ra và lựa chọn thời điểm chấm dứt thai kỳ thích hợp nhất cho tình 
trạng mẹ và con hứa hẹn mang lại nhiều kỳ vọng cho thực hành lâm sàng hiện nay. 
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định trị số trung bình của tỉ số sFlt-1/PlGF ở nhóm thai kỳ bị 
TSG có kết cục xấu và TSG không có kết cục xấu trong thai kỳ - Xác định mối liên quan 
giữa tỉ số sFlt-1/PlGF với khả năng kéo dài thai kỳ trong bệnh lý tiền sản giật. 
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu tiền cứu 342 thai phụ được chẩn đoán tiền sản giật 
(TSG) tại bệnh viện Từ Dũ từ tháng 1/2015 đến tháng 9/2016. Đo nồng độ sFlt-1 và PlGF 
của thai phụ ngay khi nhập viện và đánh giá mối liên quan giữa tỉ số sFlt-1/PlGF với kết cục 
xấu của mẹ và con. 
Kết quả: Có sự khác biệt rất lớn tỉ số nồng độ sFlt-1 /PlGF của thai phụ ở hai nhóm TSG có 
kết cục xấu của mẹ và con với nhóm TSG chưa có kết cục xấu này, Trung vị của tỉ số sFlt-
1/PlGF lúc nhập viện của hai nhóm thai phụ lần lượt là 228,33 và 30,3. Nghiên cứu cũng 
nhận thấy có mối liên quan mạnh giữa tỉ số sFlt-1/PlGF với thời gian kéo dài thai kỳ 
(p=0,001). Nhóm thai phụ có tỉ số sFlt-1/PlGF ≥ 85 thì thai kỳ được chấm dứt sớm trong 
vòng 1,2 tuần. Trong khi đó nhóm thai phụ có tỉ số này < 85 thì thai kỳ được kéo dài đến 
7,48 tuần. 
Kết luận: Ở thai phụ bị tiền sản giật từ 28-32 tuần, tỉ số sFlt-1/PlGF có thể tiên lượng được 
kết cục xấu cho thai kỳ trước 1-7 tuần.Test lượng giá này có vẻ tốt hơn những phương tiện 
hiện hành và hữu ích trong sự phân tầng thai kỳ nguy cơ. Từ đó giúp chúng ta quản lý và 
can thiệp tốt hơn các trường hợp thai kỳ tiền sản giật. 
Từ khóa: : tỉ số sFlt-1/PlGF, tiền sản giật, kết cục xấu mẹ và con, trung vị, thời gian kéo dài 
thai kỳ. 
RELATION BETWEEN THE SFLT-1/PLGF RATIO AND PROSPECTS OF 
PROLONGING PREGNANCY IN PRE-ECLAMPSIA PATIENTS 
Thanh Le Quang*; Tuyet Hoang Thi Diem; Nhu Bùi Thị Hồng; Hai Pham Thanh; Long 
Nguyen; Dung Le Phuong. 
Background: Pre-eclampsia is one of the leading indications for premature delivery of a 
fetus, increasing the rates of neonatal morbidity and mortality. No signs, symptoms, or 
laboratory tests have been found to predict adverse outcomes with a high degree of accuracy. 
Recently, some researchers have found that there is a reduction of placental growth factor 
(PlGF) and a rise of placentally released proteins soluble fms-like tyrosine kinase-1 (sFlt1) 
_____________________________________________________ 
* Bệnh viện Từ Dũ, Email: [email protected], DĐ: 0913726745 
16
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 1, Tháng 1 – 2017
in the circulation of pregnant women with preeclampsia, and this change makes the ratio of sFlt-
1/PLGF go up before such severe signs as eclampsia and HELLP syndrome are detected. 
Using this ratio to predict adverse outcomes for these patients and to choose the most 
appropriate time to induce delivery brings many prospects for current clinical practice. 
Objectives:To identify the mean value of sFlt-1/PlGF ratio in women with adverse outcomes 
To determine the relation between sFlt-1/PlGF ratio and prospects of prolonging pregnancy 
Methods: We prospectively studied 342 women who were diagnosed with pre-eclampsia at 
Tu Du Hospital from Jan 2015 to Sep 2016. Plasma levels of sFlt1 and PlGFwere measured at 
admissionand evaluated the relation between the sFlt1/PlGF ratio and subsequent adverse maternal 
and perinatal outcomes. 
Results: : There is a significant difference in sFlt-1/PlGF ratio between two groups of pre-
eclampsia patients who are with or without adverse outcomes. The median of this ratio at 
admission of two groups is 228.33 and 30.3, respectively. In addition, it is found that sFlt-
1/PlGF ratio is strongly related to the prospects of prolonging pregnancy (p=0,001). If sFlt-
1/PlGF ratio is ≥ 85, the termination of pregnancy takes place during 1,2 weeks, while there 
are prospects of prolonging pregnancy up to 7,48 weeks if the ratio is <85. 
Conclusions: In women with pre-eclampsia at ≤ 32 weeks’ gestation, the sFlt1/PlGF ratio 
can help to predict adverse outcomes within 1-7 weeks. This test seems to be better than the 
current methods and more useful in the stratification and management of pre-eclampsia. 
Key words: sFlt-1/PLGF ratio, pre-eclampsia, adverse outcomes, median, prolonging 
pregnancy. 
Giới thiệu 
Tiền sản giật (TSG) – Sản giật (SG) là một 
trong những nguyên nhân hàng đầu gây 
nên bệnh suất và tử suất cho thai phụ tại 
Việt Nam và trên toàn thế giới.1,5,7,8,10,12 
Điều trị triệt để cho tình trạng này là chấm 
dứt thai kỳ (CDTK). Chấm dứt thai kỳ trên 
thai non tháng lại làm tăng tỉ lệ tử vong 
chu sinh cho con. Trì hoãn, kéo dài thai kỳ 
(TK) để tăng tỉ lệ sống cho con thì mẹ sẽ 
có những biến chứng thai kỳ nặng nề 
không lường trước được. Vấn đề được đặt 
ra là làm sao chọn lựa được thời điểm 
thích hợp nhất để chấm dứt thai kỳ mà cân 
bằng được cả lợi ích của mẹ và con. Việc 
tìm kiếm và ứng dụng những phương tiện 
giúp tiên lượng chính xác diễn tiến của 
tình trạng bệnh lý tiền sản giật là một trong 
những nhu cầu cấp thiết hiện nay. Một 
nghiên cứu của tác giả Henning Hagmann 
và cộng sự năm 2012 đã tìm thấy mối 
tương quan giữa tỉ số sFlt-1/PLGF (solube 
Fms-like tyrosin 1/placental growth factor) 
trong máu thai phụ trước 37 tuần với sự 
xuất hiện các triệu chứng nặng của tiền sản 
giật về sau. PLGF được biết như một yếu 
tố tăng trưởng bánh nhau được tổng hợp 
trong các nhung mao của tế bào nuôi, là 
một protein tiền sinh mạch máu, còn 
sFLT-1 là một receptor-1 của VEGF 
(vascular endothelial growth factor), và là 
một yếu tố kháng sự tân tạo mạch máu. Ở 
thai phụ bình thường, PLGF tăng dần và 
đạt đỉnh vào khoảng 3 tháng giữa thai kỳ 
rồi giảm dần cho đến lúc sinh, sFlt-1 khá 
ổn định cho đến 3 tháng giữa rồi tăng dần 
đến lúc sinh. 
 Tuy nhiên, cùng thời điểm, ở thai phụ bị 
tiền sản giật có hiện tượng ngược lại, nồng 
độ PlGF giảm và sFlt-1 lại tăng cao trong 
máu 5-8 tuần trước khi có biểu hiện lâm 
sàng.7 Tương tự, một nghiên cứu đoàn hệ 
của tác giả Leandro de Oliveria6 ở những 
sản phụ đơn thai bị TSG ở tuổi thai ≤ 35 
tuần cho thấy rằng, tỉ số sFlt-1/PlGF ở 
nhóm bệnh TSG có biến chứng là 227,6 so 
với nhóm TSG không biến chứng là 14,4 
(P<0,0001). Tỉ số sFlt-1/PlGF ở nhóm 
TSG sanh < 7 ngày là 260 so với nhóm 
TSG sanh ≥ 2 tuần là 14,4 (P<0,0001). 
 Tuy nhiên, tại Việt Nam, hiện tại chưa 
có nghiên cứu nào về giá trị của tỉ số 
17
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
sFlt1/PlGF trong tiên lượng bệnh lý TSG 
mà đặc biệt là TSG trước tuần lễ 32 của 
thai kỳ. Vì thế, chúng tôi tiến hành thực 
hiện đề tài xác định giá trị của tỉ số 
sFlt1/PlGF trong tiên lượng kết cục thai kỳ 
ở bệnh lý TSG với tuổi thai từ 28 – 32 
tuần, tại BV Từ Dũ nhằm đánh giá tiên 
lượng và can thiệp hiệu quả, cải thiện kết 
cục thai kỳ cho mẹ và bé với mục tiêu 
nghiên cứu: 
1 Xác định trị số trung vị của tỉ số sFlt-
1/PlGF ở nhóm thai kỳ bị TSG có kết 
cục xấu mẹ và con và ở nhóm TSG 
không có kết cục xấu 
2 Xác định mối liên quan giữa tỉ số sFlt-
1/PlGF với khả năng kéo dài thai kỳ. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu: đoàn hệ tiến cứu 
 n s nghiên cứu: các sản phụ bị TSG 
có tuổi thai 28 – 32 tuần, được điều trị tại 
bệnh viện Từ Dũ trong thời gian nghiên 
cứu từ tháng 1 năm 2015 đến tháng 9 năm 
2016. 
Tiêu chu n nh n v o 
Đơn thai với tuổi thai từ 28 - 32 tuần được 
chẩn đoán TSG tại khoa sản A với tiêu 
chuẩn: 
 HA tâm thu ≥ 160 mmHg và/hoặc HA 
tâm trương ≥ 110 mmHg. 
 Hoặc 140mmHg ≤ HA tâm thu < 160 
mmHg và/hoặc 90mmHg ≤ HA tâm 
trương < 110 mmHg ở 2 lần đo cách 
nhau 4 giờ. 
 Và Protein niệu ≥ 300mg/24 giờ, hoặc 
Dipstick 1+ (que nhúng). 
 Và không có kèm các biến chứng của 
TSG như: Tiểu cầu giảm ≤ 
100.000/mm3; Creatinin tăng ≥ 1,1 
mg/dl; Men gan tăng gấp đôi so với trị 
số bình thường (≥80U/L); Phù phổi; 
Triệu chứng thị giác: Nhìn mờ, nhìn 
đôi; Rối loạn đông máu; Nhau bong 
non; Sản giật. 
 Không có dấu chuyển dạ sanh non hay 
dọa sanh non. 
 Đồng thuận tham gia nghiên cứu. 
Tiêu chu n lo i tr : có bệnh lý nội khoa 
kèm theo như: lupus, bệnh lý thận, đái 
tháo đường, tim mạch, bệnh lý mạch máu; 
thai kèm dị tật bẩm sinh; sản phụ có bệnh 
lý về tâm thần, vận động; sản phụ phải 
chấm dứt thai kỳ vì các lý do khác không 
phải TSG. 
Cỡ mẫu: 342 thai phụ 
Phương pháp chọn mẫu 
Lấy mẫu toàn bộ các trường hợp TSG thỏa 
tiêu chuẩn chọn mẫu, tiêu chuẩn loại trừ, 
được điều trị tại bệnh viện Từ Dũ trong 
thời gian nghiên cứu từ tháng 1 năm 2015 
đến tháng 9 năm 2016. 
Phương pháp ph n tích: Nhập số liệu và 
xử lýbằng phần mềm SPSS 16.0 
Kết quả nghiên cứu 
Nghiên cứu chỉ thu nhận đầy đủ thông tin 
của 342 trường hợp và tiến hành phân tích 
trên 342 trường hợp này. 
Đặc điểm của dân số nghiên cứu 
Đặc điểm dịch tễ học 
Tuổi trung bình của đối tượng tham gia 
nghiên cứu là 31,69 ± 5,67 tuổi (17 tuổi - 
Bảng 1. Đặc điểm lâm sàng 
Đặc điểm N = 342 % 
Tuổi thai lúc làm XN 
28-<30 tuần 99 28,9 
30- ≤32 tuần 243 71,1 
Tuổi thai lúc CDTK 
28-34 tuần 261 76,3 
≥34 tuần 81 23,7 
Thời gian kéo dài TK 
< 2 tuần 217 63,5 
≥ 2 tuần 125 36,5 
HA tâm thu 
< 140 mmHg 6 1,8 
Từ 140-<160mmHg 137 40,1 
≥ 160 mmHg 199 58,2 
HA tâm trương 
< 90 mmHg 19 5,6 
90 đến <110mmHg 236 69 
≥ 110 mmHg 87 45,4 
18
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 1, Tháng 1 – 2017
46 tuổi) với 61,1% chưa có con, 30,4% đã 
từng mang thai đủ tháng 1 lần, 8,5% đã 
từng mang thai đủ tháng ≥ 2 lần và 70% 
đối tượng sinh sống ở tỉnh xa. 
 Về tiền căn: 11,1% đối tượng đã từng bị 
TSG, 4,4% mẹ ruột từng bị TSG, 4,1% chị 
Bảng 2. Đặc điểm cận lâm sàng 
Đặc điểm N = 342 % 
Đạm 24 giờ 
<1 gam 98 28,7 
Từ 1-3 gam 141 41,2 
> 3 -<5 gam 24 7,0 
≥ 5 gam 79 23,1 
Nồng độ sFlt1 
<707 pg/mL 36 10,5 
Từ 707 đến 6688pg/mL 144 42,1 
> 6688pg/mL 162 47,4 
Nồng độ PlGF 
<73,3 pg/mL 194 56,7 
Từ 73,3 đến 1108pg/mL 134 39,2 
> 1108pg/mL 14 4,1 
Tỉ số sFlt-1/PlGF 
<0,945 pg/mL 33 9,6 
Từ 0,945 đến 85pg/mL 165 48,2 
≥ 85pg/mL 144 42,1 
Nồng độ AST 
Bình thường 289 84,5 
Tăng < 2 lần 37 10,8 
Tăng ≥ 2 lần 16 4,7 
Nồng độ ALT 
Bình thường 300 87,7 
Tăng < 2 lần 30 8,8 
Tăng ≥ 2 lần 12 3,5 
Số lượng tiểu cầu 
≥ 150 ngàn 292 85,4 
> 100-<150 ngàn 43 12,6 
≤ 100 ngàn 7 2,0 
Nồng độ Creatinin 
Bình thường 341 99,7 
Tăng ≥ 2 lần 1 0,3 
Nồng độ Acid Uric 
Bình thường 118 34,5 
Tăng < 2 lần 219 64,0 
Tăng ≥ 2 lần 5 1,5 
Siêu âm 
Thai chậm tăng trưởng trong TC 100 29,2 
Tăng trở kháng ĐM rốn 24 7,0 
Mất sóng tâm trương 12 3,5 
Giảm trở kháng ĐM não giữa 10 2,9 
Thiểu ối 5 1,5 
Vô ối 1 0,3 
ruột từng bị TSG. 
 Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng theo 
các bảng 1 và 2. 
Kết cục thai kỳ 
Kết cục trên mẹ và con tóm tắt trong các 
bảng 3 và 4. 
Bảng 3. Kết cục trên mẹ 
Đặc điểm N = 342 % 
Biến chứng lên mẹ 
Hội chứng HELLP 7 2,0 
Phù phổi cấp 2 0,6 
Sản giật 1 0,3 
Nhau bong non 1 0,3 
Xuất huyết não 1 0,3 
Suy thận cấp 1 0,3 
Tử vong mẹ 0 0 
Phương pháp sanh 
Sanh thường 74 21,6 
Mổ lấy thai 268 78,4 
Kết cục thai kỳ xấu ở mẹ 
Có 38 11,1 
Không 304 88,9 
Kết quả mẹ 
Bệnh ổn xuất viện 341 99,7 
Bệnh nặng chuyển viện 1 0,3 
Bảng 4. Kết cục trên con 
Đặc điểm N = 342 % 
Tình trạng con trước CDTK 
Sống 335 98 
Lưu 7 2,0 
Tuổi thai lúc chấm dứt thai kỳ 
28-34 tuần 261 76,3 
≥34 tuần 81 23,7 
Chỉ số Apgar 1 phút 
≤ 3 điểm 29 8,5 
Từ 4-6 điểm 198 57,9 
≥ 7 điểm 115 33,6 
Chỉ số Apgar 5 phút 
≤ 3 điểm 9 2,6 
Từ 4-6 điểm 81 23,7 
≥ 7 điểm 252 73,7 
Cân nặng con 
< 1000 gam 22 6,4 
Từ 1000-≤1500 gam 148 43,3 
>1500 – ≤2500gam 124 36,3 
>2500gam 48 14,0 
Các bệnh lý đi kèm 
Suy hô hấp 90 26,3 
19
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
Bệnh màng trong 62 18,1 
Xuất huyết phổi 3 0,9 
Xuất huyết não 2 0,6 
Cao áp phổi 1 0,3 
Còn ống động mạch 1 0,3 
Thời gian nằm hồi sức (n=335) 
< 3 ngày 38 11,3 
3 đến 7 ngày 86 25,7 
>7 ngày 211 63,0 
Kết cục thai kỳ xấu ở con 
Có biến chứng 168 49,1 
Không biến chứng 174 50,9 
Kết quả con 
Bệnh ổn xuất viện 306 89,5 
Bệnh nặng chuyển viện 12 3,5 
Bệnh nặng xuất viện 16 4,7 
Tử vong tại viện 1 0,3 
Thai lưu 7 2,0 
Tử vong sơ sinh 21 6,1 
Tương quan giữa sFlt-1/PLGF và kết 
cục xấu của thai kỳ 
Trung vị của tỉ s sFlt-1/PLGF trên kết 
cục xấu của thai kỳ (biểu đồ 1) 
Biểu đồ 1. Trung vị của tỉ số sFlt-1/PLGF trên kết 
cục xấu của thai kỳ 
Nhóm có kết cục thai kỳ xấu có trung vị tỉ 
số sFlt-1/PlGF là 228,33, trong khi nhóm 
đối tượng không kết cục thai kỳ xấu có 
trung vị tỉ số sFlt-1/PlGF là 30,3 và sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,00 
(kiểm định Mann Whitney U test) 
M i liên quan giữa tỉ s sFLt-1/PLGF với 
thời gian kéo dài thai kỳ 
Sau khi phân tích hồi quy Cox mối liên 
quan giữa các biến số (đặc điểm lâm sàng 
và cận lâm sàng) với thời gian kéo dài thai 
kỳ chỉ còn lại 1 yếu tố liên quan có ý nghĩa 
thống kê: tỉ số sFlt-1/PlGF (biểu đồ 2). 
Bảng 5. Các yếu tố liên quan đến thời gian kéo dài 
thai kỳ tiền sản giật 
sFlt-1/PlGF TG(tuần) Sai số chuẩn 95% KTC P* 
≥ 85 1,20 0,17 0,85-1,54 
0,00 < 85 7,48 0,34 6,81-8,16 
TG: thời gian, KTC: khoảng tin c y 
Thời gian kéo dài thai kỳ ở nhóm có tỉ số 
sFltl/PlGF <85 dài hơn nhóm tỉ số 
sFltl/PlGF ≥ 85 là 6,28 tuần và sự khác 
biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. 
Sự khác biệt này được minh họa rõ qua 
biểu đồ 2 sau: 
Biểu đồ 2. Thời gian kéo dài thai kỳ 
Bảng 6. Xác suất còn kéo dài thai kỳ theo thời gian 
Thời 
gian 
Tỉ số 
sFltl/PlGF<85 Tỉ số sFltl/PlGF ≥ 85 
Số 
trường 
hợp kết 
cục xấu 
CDTK* 
(n=40) 
Xác 
suất 
còn 
kéo 
dài 
TK* 
Số 
trường 
hợp kết 
cục xấu 
CDTK* 
(n=142) 
Xác suất 
còn kéo 
dài TK* 
<1 
tuần 16 0,91 94 0,39 
1 tuần 20 0,88 121 0,20 
2 tuần 22 0,87 125 0,17 
3 tuần 127 0,15 
4 tuần 23 0,86 129 0,14 
5 tuần 25 0,83 131 0,12 
6 tuần 31 0,77 140 0,04 
7 tuần 38 0,63 142 0,00 
8 tuần 39 0,55 
9 tuần 40 0,28 
* Cộng dồn theo thời gian 
20
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 1, Tháng 1 – 2017
Tiền sản giật chưa có dấu hiệu nặng hoặc 
chưa có bất kỳ một kết cục xấu nào trên 
mẹ và con thì gần 90% các trường hợp có 
khả năng kéo dài thai kỳ trên 1 tuần, 
nhưng một khi đã xuất hiện một dấu hiệu 
nặng ở mẹ hoặc con thì khả năng kèo dài 
thai kỳ chỉ còn 20%. 
Bàn luận 
Bàn lu n về trị s trung bình của tỉ s 
sFlt-1/PLGF ở thai phụ bị TSG có kết cục 
thai kỳ xấu và nhóm có kết cục bình 
thường 
Nhóm có kết cục thai kỳ xấu có trung vị tỉ 
số sFlt-1/PlGF là 228,33 trong khi nhóm 
đối tượng không kết cục thai kỳ xấu có 
trung vị tỉ số sFlt-1/PlGF là 30,3 và sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,00 
(kiểm định Mann Whitney U test). 
 Kết quả này tương tự với tác giả 
Oliveira6, Rana8 và tác giả Nguyễn Chính 
Nghĩa,2 tuy kết quả của tác giả Nghĩa có tỉ 
số thấp hơn do tác giả chọn những đối 
tượng bình thường và nguy cơ cao trong 
khi đối tượng nghiên cứu của các nghiên 
cứu còn lại là những sản phụ được chẩn 
đoán là TSG. 
Bàn lu n về m i liên quan của tỉ s này 
với thời gian kéo dài thai kỳ 
Trong nghiên cứu của chúng tôi: thời gian 
kéo dài thai kỳ ở nhóm có tỉ số sFltl/PlGF 
< 85 dài hơn nhóm tỉ số sFltl/PlGF ≥ 85 là 
6,28 tuần và sự khác biệt này có ý nghĩa 
thống kê với p<0,05. 
 Sau khi phân tích hồi quy Cox mối liên 
quan giữa các biến số lâm sàng và cận lâm 
sàng khác với thời gian kéo dài thai kỳ chỉ 
còn lại 1 yếu tố liên quan có ý nghĩa thống 
kê là tỉ số sFltl/PlGF. So với nhóm đối 
tượng có tỉ số sFlt1/PlGF < 85, nhóm đối 
tượng tham gia nghiên cứu có tỉ số 
sFlt1/PlGF ≥ 85 có khả năng chấm dứt thai 
kỳ sớm gấp 8,07 lần, sự khác biệt này có ý 
nghĩa thống kê với p<0,05. 
 Hai tuần sau khi nhập viện với chẩn 
đoán tiền sản giật, 87% sản phụ ở nhóm tỉ 
số sFltl/PlGF < 85 tiếp tục được điều trị 
mong đợi trong khi chỉ 17% sản phụ ở 
nhóm tỉ số sFltl/PlGF ≥ 85 được tiếp tục 
kéo dài thai kỳ. 
 Tương tự với tác giả Rana8, thời điểm 2 
tuần sau khi được chẩn đoán xác định tiền 
sản giật, 86% sản phụ còn được kéo dài 
thai kỳ ở nhóm tỉ số sFltl/PlGF ≤ 85 và 
15,8% sản phụ còn được kéo dài thai kỳ ở 
nhóm tỉ số sFltl/PlGF > 85. Cũng tương tự 
với tỉ số nguy cơ (HR*) là 8,07 (1,27-2,60) 
so với 9,4 (4,7-18,7). 
 Với nhóm thai phụ TSG chưa có dấu 
hiệu nặng hoặc chưa có bất kỳ kết cục xấu 
mẹ hoặc con thì gần 90% các trường hợp 
có thể kéo dài thai kỳ trên 1 tuần. Đây là 
khoảng thời gian rất quan trọng cho việc 
chuẩn bị cho sự ra đời của một trẻ non 
tháng. Và việc can thiệp thích hợp ở giai 
đoạn này có thể làm giảm nguy cơ xuất 
hiện các kết cục xấu thai kỳ về sau, giảm 
nguy cơ phải chấm dứt thai kỳ sớm và cải 
thiện chất lượng sống chu sinh cho mẹ và 
con, bởi vì khi có bất kỳ một dấu hiệu xấu 
nào của mẹ hoặc con xuất hiện thì thời 
gian kéo dài thai kỳ chỉ trong vòng 1,2 
tuần và xác xuất kéo dài thai kỳ an toàn 
chỉ còn 20%. Thực vậy tỉ số này có thể 
được xem là công cụ tin cậy để xác định 
nhóm thai phụ bị TSG có nguy cơ cao 
chuyển nặng. Từ đó, giúp chúng ta phân 
tuyến chăm sóc và điều trị thích hợp cho 
thai phụ, nhằm đảm bảo cơ hội sống còn 
tốt nhất cho mẹ và con. Việc quản lý thai 
kỳ TSG dựa vào giá trị của tỉ số sFLt-
1/PlGF đã giúp giảm tỉ lệ bệnh suất và tử 
suất chu sinh đến 20%.11 
Kết luận 
Tỉ số sFlt-1/PlGF có thể tiên lượng được 
kết cục xấu cho thai kỳ bị TSG trước 1-7 
tuần, phát hiện nhóm thai phụ sẽ có nguy 
cơ chuyển biến nặng về sau. Từ đó có sự 
chuẩn bị cũng như can thiệp thích hợp 
nhằm đảm bảo an toàn cho mẹ và con. 
Tài liệu tham khảo 
1. Bệnh viện Từ Dũ (2012). Phác đồ điều trị sản 
phụ khoa (Vol. 2), Tp Hồ Chí Minh, 44-51. 
2. Nguyễn Chính Nghĩa (2013), “Nghiên cứu yếu 
21
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
3. tố phát triển rau thai (PlGF) và thụ thể yếu tố 
phát triển tế bào nội mạc hòa tan (sFlt-1) trong 
huyết thanh ở thai phụ bình thường và thai 
phụ có nguy cơ tiền sản giật”. Luận án Tiến sĩ, 
đại học Y Hà Nội, tr 9-17. 
4. American College of Obstetricians and 
Gynecologists (2013), Hypertention in 
Pregnancy, Washington, 1-98 
5. Chaiworapongsa T, Romero R, Hassan SS 
(2011), "Maternal plasma concentrations of 
angiogenic/anti-angiogenic factors are of 
prognostic value in patients presenting to the 
obstetrical triage area with the suspicion of 
preeclampsia". Journal Matern Fetal Neonatal 
Medicine, 24(10), 1187-1207 
6. De Oliveria L, C. Peracoli J, T. Peracoli.M, et al 
(2013), "sFlt1/PlGf ratio as a prognostic marker 
of adverse outcomes in women with early-
onset preeclampsia". An International Journal 
of Women's Cardiovascular Health. 
7. Hagmann.H, Thadhani.R, Benzing.T, 
Karumanchi S.A, Stepan.H (2012), "The 
promise of Angiogenic markers for the early 
diagnosis and prediction of preeclampsia." 
Clinical Chemistry, 58(5), 837-845. 
8. Maynard SE, Karumanchi SA (2011), 
"Angiogenic Factors and Preeclampsia". Semin 
Nephrol, 31(1), 33-46. 
9. Rana S, Powe CE, et al (2012), "Angiogenic 
Factor and the risk of adverse outcomes in 
women with suspected preeclampsia." 
Circulation, 125(7), 911-919. 
10. Sibai B, Dekker G, M, K. (2005), 
"Preecplamsia". The Lancet, 365(9461), 785 - 
799. 
11. Verlohren S, Herraiz I, Lapaire O , Schlembach 
D, Moertl M, (2011), “The sFlt-1/PlGF ratio in 
different types of hypertensive pregnancy 
disorders and its prognostic potential in 
preeclamptic patients”, American Journal of 
Obstetrics & Gynecology; 205: e1-e8. 
12. Verlohren S, Galindo A (2010), "An automated 
method for the determination of the sFlt-1/PlGF 
ratio in the assessment of preeclampsia." 
American Journal of Obstetrics and 
Gynecology;202(2), 161. 
__________________________________ 
Người phản hồi: BS Lê Quang Thanh 
Email: [email protected] 
Ngày nhận bài: 08/12/2016 
Ngày phản biện: 12/12/2016 
Ngày đăng báo : 28/12/2016 

File đính kèm:

  • pdflien_quan_giua_ti_so_sflt_1plgf_va_kha_nang_keo_dai_thai_ky.pdf