Liên quan giữa tỉ số sFLT-1/PlGF và khả năng kéo dài thai kỳ trong bệnh lý Tiền sản giật
Đặt vấn đề: Tiền sản giật (TSG) là một trong những nguyên nhân dẫn đến chấm dứt thai kỳ
non tháng, làm tăng bệnh suất và tử suất chu sinh. Không dấu hiệu, không triệu chứng,
cũng như không xét nghiệm nào trước đây giúp tiên lượng được kết cục của tiền sản giật.
Gần đây, nhiều nhà nghiên cứu nhận thấy có sự sụt giảm của PlGF (yếu tố tăng trưởng
bánh nhau – yếu tố tạo mạch) và sự gia tăng của sFlt1 (yếu tố kháng tạo mạch) trong bệnh
lý TSG, làm gia tăng đáng kể tỉ số sFlt1/PlGF trước khi có chuyển biến nặng trên lâm sàng
như sản giật, hội chứng HELLP. Việc sử dụng tỉ số sFlt-1/PlGF để dự đoán khả năng kết
cục xấu thai kỳ sắp xảy ra và lựa chọn thời điểm chấm dứt thai kỳ thích hợp nhất cho tình
trạng mẹ và con hứa hẹn mang lại nhiều kỳ vọng cho thực hành lâm sàng hiện nay.
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định trị số trung bình của tỉ số sFlt-1/PlGF ở nhóm thai kỳ bị
TSG có kết cục xấu và TSG không có kết cục xấu trong thai kỳ - Xác định mối liên quan
giữa tỉ số sFlt-1/PlGF với khả năng kéo dài thai kỳ trong bệnh lý tiền sản giật.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Liên quan giữa tỉ số sFLT-1/PlGF và khả năng kéo dài thai kỳ trong bệnh lý Tiền sản giật
15 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Liên quan giữa tỉ số sFLT-1/PlGF và khả năng kéo dài thai kỳ trong bệnh lý Tiền sản giật Lê Quang Thanh*; Hoàng Thị Diễm Tuyết; Bùi Thị Hồng Nhu; Phạm Thanh Hải; Nguyễn Long; Lê Phương Dung Tóm tắt Đặt vấn đề: Tiền sản giật (TSG) là một trong những nguyên nhân dẫn đến chấm dứt thai kỳ non tháng, làm tăng bệnh suất và tử suất chu sinh. Không dấu hiệu, không triệu chứng, cũng như không xét nghiệm nào trước đây giúp tiên lượng được kết cục của tiền sản giật. Gần đây, nhiều nhà nghiên cứu nhận thấy có sự sụt giảm của PlGF (yếu tố tăng trưởng bánh nhau – yếu tố tạo mạch) và sự gia tăng của sFlt1 (yếu tố kháng tạo mạch) trong bệnh lý TSG, làm gia tăng đáng kể tỉ số sFlt1/PlGF trước khi có chuyển biến nặng trên lâm sàng như sản giật, hội chứng HELLP. Việc sử dụng tỉ số sFlt-1/PlGF để dự đoán khả năng kết cục xấu thai kỳ sắp xảy ra và lựa chọn thời điểm chấm dứt thai kỳ thích hợp nhất cho tình trạng mẹ và con hứa hẹn mang lại nhiều kỳ vọng cho thực hành lâm sàng hiện nay. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định trị số trung bình của tỉ số sFlt-1/PlGF ở nhóm thai kỳ bị TSG có kết cục xấu và TSG không có kết cục xấu trong thai kỳ - Xác định mối liên quan giữa tỉ số sFlt-1/PlGF với khả năng kéo dài thai kỳ trong bệnh lý tiền sản giật. Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu tiền cứu 342 thai phụ được chẩn đoán tiền sản giật (TSG) tại bệnh viện Từ Dũ từ tháng 1/2015 đến tháng 9/2016. Đo nồng độ sFlt-1 và PlGF của thai phụ ngay khi nhập viện và đánh giá mối liên quan giữa tỉ số sFlt-1/PlGF với kết cục xấu của mẹ và con. Kết quả: Có sự khác biệt rất lớn tỉ số nồng độ sFlt-1 /PlGF của thai phụ ở hai nhóm TSG có kết cục xấu của mẹ và con với nhóm TSG chưa có kết cục xấu này, Trung vị của tỉ số sFlt- 1/PlGF lúc nhập viện của hai nhóm thai phụ lần lượt là 228,33 và 30,3. Nghiên cứu cũng nhận thấy có mối liên quan mạnh giữa tỉ số sFlt-1/PlGF với thời gian kéo dài thai kỳ (p=0,001). Nhóm thai phụ có tỉ số sFlt-1/PlGF ≥ 85 thì thai kỳ được chấm dứt sớm trong vòng 1,2 tuần. Trong khi đó nhóm thai phụ có tỉ số này < 85 thì thai kỳ được kéo dài đến 7,48 tuần. Kết luận: Ở thai phụ bị tiền sản giật từ 28-32 tuần, tỉ số sFlt-1/PlGF có thể tiên lượng được kết cục xấu cho thai kỳ trước 1-7 tuần.Test lượng giá này có vẻ tốt hơn những phương tiện hiện hành và hữu ích trong sự phân tầng thai kỳ nguy cơ. Từ đó giúp chúng ta quản lý và can thiệp tốt hơn các trường hợp thai kỳ tiền sản giật. Từ khóa: : tỉ số sFlt-1/PlGF, tiền sản giật, kết cục xấu mẹ và con, trung vị, thời gian kéo dài thai kỳ. RELATION BETWEEN THE SFLT-1/PLGF RATIO AND PROSPECTS OF PROLONGING PREGNANCY IN PRE-ECLAMPSIA PATIENTS Thanh Le Quang*; Tuyet Hoang Thi Diem; Nhu Bùi Thị Hồng; Hai Pham Thanh; Long Nguyen; Dung Le Phuong. Background: Pre-eclampsia is one of the leading indications for premature delivery of a fetus, increasing the rates of neonatal morbidity and mortality. No signs, symptoms, or laboratory tests have been found to predict adverse outcomes with a high degree of accuracy. Recently, some researchers have found that there is a reduction of placental growth factor (PlGF) and a rise of placentally released proteins soluble fms-like tyrosine kinase-1 (sFlt1) _____________________________________________________ * Bệnh viện Từ Dũ, Email: [email protected], DĐ: 0913726745 16 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 1, Tháng 1 – 2017 in the circulation of pregnant women with preeclampsia, and this change makes the ratio of sFlt- 1/PLGF go up before such severe signs as eclampsia and HELLP syndrome are detected. Using this ratio to predict adverse outcomes for these patients and to choose the most appropriate time to induce delivery brings many prospects for current clinical practice. Objectives:To identify the mean value of sFlt-1/PlGF ratio in women with adverse outcomes To determine the relation between sFlt-1/PlGF ratio and prospects of prolonging pregnancy Methods: We prospectively studied 342 women who were diagnosed with pre-eclampsia at Tu Du Hospital from Jan 2015 to Sep 2016. Plasma levels of sFlt1 and PlGFwere measured at admissionand evaluated the relation between the sFlt1/PlGF ratio and subsequent adverse maternal and perinatal outcomes. Results: : There is a significant difference in sFlt-1/PlGF ratio between two groups of pre- eclampsia patients who are with or without adverse outcomes. The median of this ratio at admission of two groups is 228.33 and 30.3, respectively. In addition, it is found that sFlt- 1/PlGF ratio is strongly related to the prospects of prolonging pregnancy (p=0,001). If sFlt- 1/PlGF ratio is ≥ 85, the termination of pregnancy takes place during 1,2 weeks, while there are prospects of prolonging pregnancy up to 7,48 weeks if the ratio is <85. Conclusions: In women with pre-eclampsia at ≤ 32 weeks’ gestation, the sFlt1/PlGF ratio can help to predict adverse outcomes within 1-7 weeks. This test seems to be better than the current methods and more useful in the stratification and management of pre-eclampsia. Key words: sFlt-1/PLGF ratio, pre-eclampsia, adverse outcomes, median, prolonging pregnancy. Giới thiệu Tiền sản giật (TSG) – Sản giật (SG) là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây nên bệnh suất và tử suất cho thai phụ tại Việt Nam và trên toàn thế giới.1,5,7,8,10,12 Điều trị triệt để cho tình trạng này là chấm dứt thai kỳ (CDTK). Chấm dứt thai kỳ trên thai non tháng lại làm tăng tỉ lệ tử vong chu sinh cho con. Trì hoãn, kéo dài thai kỳ (TK) để tăng tỉ lệ sống cho con thì mẹ sẽ có những biến chứng thai kỳ nặng nề không lường trước được. Vấn đề được đặt ra là làm sao chọn lựa được thời điểm thích hợp nhất để chấm dứt thai kỳ mà cân bằng được cả lợi ích của mẹ và con. Việc tìm kiếm và ứng dụng những phương tiện giúp tiên lượng chính xác diễn tiến của tình trạng bệnh lý tiền sản giật là một trong những nhu cầu cấp thiết hiện nay. Một nghiên cứu của tác giả Henning Hagmann và cộng sự năm 2012 đã tìm thấy mối tương quan giữa tỉ số sFlt-1/PLGF (solube Fms-like tyrosin 1/placental growth factor) trong máu thai phụ trước 37 tuần với sự xuất hiện các triệu chứng nặng của tiền sản giật về sau. PLGF được biết như một yếu tố tăng trưởng bánh nhau được tổng hợp trong các nhung mao của tế bào nuôi, là một protein tiền sinh mạch máu, còn sFLT-1 là một receptor-1 của VEGF (vascular endothelial growth factor), và là một yếu tố kháng sự tân tạo mạch máu. Ở thai phụ bình thường, PLGF tăng dần và đạt đỉnh vào khoảng 3 tháng giữa thai kỳ rồi giảm dần cho đến lúc sinh, sFlt-1 khá ổn định cho đến 3 tháng giữa rồi tăng dần đến lúc sinh. Tuy nhiên, cùng thời điểm, ở thai phụ bị tiền sản giật có hiện tượng ngược lại, nồng độ PlGF giảm và sFlt-1 lại tăng cao trong máu 5-8 tuần trước khi có biểu hiện lâm sàng.7 Tương tự, một nghiên cứu đoàn hệ của tác giả Leandro de Oliveria6 ở những sản phụ đơn thai bị TSG ở tuổi thai ≤ 35 tuần cho thấy rằng, tỉ số sFlt-1/PlGF ở nhóm bệnh TSG có biến chứng là 227,6 so với nhóm TSG không biến chứng là 14,4 (P<0,0001). Tỉ số sFlt-1/PlGF ở nhóm TSG sanh < 7 ngày là 260 so với nhóm TSG sanh ≥ 2 tuần là 14,4 (P<0,0001). Tuy nhiên, tại Việt Nam, hiện tại chưa có nghiên cứu nào về giá trị của tỉ số 17 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC sFlt1/PlGF trong tiên lượng bệnh lý TSG mà đặc biệt là TSG trước tuần lễ 32 của thai kỳ. Vì thế, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài xác định giá trị của tỉ số sFlt1/PlGF trong tiên lượng kết cục thai kỳ ở bệnh lý TSG với tuổi thai từ 28 – 32 tuần, tại BV Từ Dũ nhằm đánh giá tiên lượng và can thiệp hiệu quả, cải thiện kết cục thai kỳ cho mẹ và bé với mục tiêu nghiên cứu: 1 Xác định trị số trung vị của tỉ số sFlt- 1/PlGF ở nhóm thai kỳ bị TSG có kết cục xấu mẹ và con và ở nhóm TSG không có kết cục xấu 2 Xác định mối liên quan giữa tỉ số sFlt- 1/PlGF với khả năng kéo dài thai kỳ. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu: đoàn hệ tiến cứu n s nghiên cứu: các sản phụ bị TSG có tuổi thai 28 – 32 tuần, được điều trị tại bệnh viện Từ Dũ trong thời gian nghiên cứu từ tháng 1 năm 2015 đến tháng 9 năm 2016. Tiêu chu n nh n v o Đơn thai với tuổi thai từ 28 - 32 tuần được chẩn đoán TSG tại khoa sản A với tiêu chuẩn: HA tâm thu ≥ 160 mmHg và/hoặc HA tâm trương ≥ 110 mmHg. Hoặc 140mmHg ≤ HA tâm thu < 160 mmHg và/hoặc 90mmHg ≤ HA tâm trương < 110 mmHg ở 2 lần đo cách nhau 4 giờ. Và Protein niệu ≥ 300mg/24 giờ, hoặc Dipstick 1+ (que nhúng). Và không có kèm các biến chứng của TSG như: Tiểu cầu giảm ≤ 100.000/mm3; Creatinin tăng ≥ 1,1 mg/dl; Men gan tăng gấp đôi so với trị số bình thường (≥80U/L); Phù phổi; Triệu chứng thị giác: Nhìn mờ, nhìn đôi; Rối loạn đông máu; Nhau bong non; Sản giật. Không có dấu chuyển dạ sanh non hay dọa sanh non. Đồng thuận tham gia nghiên cứu. Tiêu chu n lo i tr : có bệnh lý nội khoa kèm theo như: lupus, bệnh lý thận, đái tháo đường, tim mạch, bệnh lý mạch máu; thai kèm dị tật bẩm sinh; sản phụ có bệnh lý về tâm thần, vận động; sản phụ phải chấm dứt thai kỳ vì các lý do khác không phải TSG. Cỡ mẫu: 342 thai phụ Phương pháp chọn mẫu Lấy mẫu toàn bộ các trường hợp TSG thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu, tiêu chuẩn loại trừ, được điều trị tại bệnh viện Từ Dũ trong thời gian nghiên cứu từ tháng 1 năm 2015 đến tháng 9 năm 2016. Phương pháp ph n tích: Nhập số liệu và xử lýbằng phần mềm SPSS 16.0 Kết quả nghiên cứu Nghiên cứu chỉ thu nhận đầy đủ thông tin của 342 trường hợp và tiến hành phân tích trên 342 trường hợp này. Đặc điểm của dân số nghiên cứu Đặc điểm dịch tễ học Tuổi trung bình của đối tượng tham gia nghiên cứu là 31,69 ± 5,67 tuổi (17 tuổi - Bảng 1. Đặc điểm lâm sàng Đặc điểm N = 342 % Tuổi thai lúc làm XN 28-<30 tuần 99 28,9 30- ≤32 tuần 243 71,1 Tuổi thai lúc CDTK 28-34 tuần 261 76,3 ≥34 tuần 81 23,7 Thời gian kéo dài TK < 2 tuần 217 63,5 ≥ 2 tuần 125 36,5 HA tâm thu < 140 mmHg 6 1,8 Từ 140-<160mmHg 137 40,1 ≥ 160 mmHg 199 58,2 HA tâm trương < 90 mmHg 19 5,6 90 đến <110mmHg 236 69 ≥ 110 mmHg 87 45,4 18 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 1, Tháng 1 – 2017 46 tuổi) với 61,1% chưa có con, 30,4% đã từng mang thai đủ tháng 1 lần, 8,5% đã từng mang thai đủ tháng ≥ 2 lần và 70% đối tượng sinh sống ở tỉnh xa. Về tiền căn: 11,1% đối tượng đã từng bị TSG, 4,4% mẹ ruột từng bị TSG, 4,1% chị Bảng 2. Đặc điểm cận lâm sàng Đặc điểm N = 342 % Đạm 24 giờ <1 gam 98 28,7 Từ 1-3 gam 141 41,2 > 3 -<5 gam 24 7,0 ≥ 5 gam 79 23,1 Nồng độ sFlt1 <707 pg/mL 36 10,5 Từ 707 đến 6688pg/mL 144 42,1 > 6688pg/mL 162 47,4 Nồng độ PlGF <73,3 pg/mL 194 56,7 Từ 73,3 đến 1108pg/mL 134 39,2 > 1108pg/mL 14 4,1 Tỉ số sFlt-1/PlGF <0,945 pg/mL 33 9,6 Từ 0,945 đến 85pg/mL 165 48,2 ≥ 85pg/mL 144 42,1 Nồng độ AST Bình thường 289 84,5 Tăng < 2 lần 37 10,8 Tăng ≥ 2 lần 16 4,7 Nồng độ ALT Bình thường 300 87,7 Tăng < 2 lần 30 8,8 Tăng ≥ 2 lần 12 3,5 Số lượng tiểu cầu ≥ 150 ngàn 292 85,4 > 100-<150 ngàn 43 12,6 ≤ 100 ngàn 7 2,0 Nồng độ Creatinin Bình thường 341 99,7 Tăng ≥ 2 lần 1 0,3 Nồng độ Acid Uric Bình thường 118 34,5 Tăng < 2 lần 219 64,0 Tăng ≥ 2 lần 5 1,5 Siêu âm Thai chậm tăng trưởng trong TC 100 29,2 Tăng trở kháng ĐM rốn 24 7,0 Mất sóng tâm trương 12 3,5 Giảm trở kháng ĐM não giữa 10 2,9 Thiểu ối 5 1,5 Vô ối 1 0,3 ruột từng bị TSG. Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng theo các bảng 1 và 2. Kết cục thai kỳ Kết cục trên mẹ và con tóm tắt trong các bảng 3 và 4. Bảng 3. Kết cục trên mẹ Đặc điểm N = 342 % Biến chứng lên mẹ Hội chứng HELLP 7 2,0 Phù phổi cấp 2 0,6 Sản giật 1 0,3 Nhau bong non 1 0,3 Xuất huyết não 1 0,3 Suy thận cấp 1 0,3 Tử vong mẹ 0 0 Phương pháp sanh Sanh thường 74 21,6 Mổ lấy thai 268 78,4 Kết cục thai kỳ xấu ở mẹ Có 38 11,1 Không 304 88,9 Kết quả mẹ Bệnh ổn xuất viện 341 99,7 Bệnh nặng chuyển viện 1 0,3 Bảng 4. Kết cục trên con Đặc điểm N = 342 % Tình trạng con trước CDTK Sống 335 98 Lưu 7 2,0 Tuổi thai lúc chấm dứt thai kỳ 28-34 tuần 261 76,3 ≥34 tuần 81 23,7 Chỉ số Apgar 1 phút ≤ 3 điểm 29 8,5 Từ 4-6 điểm 198 57,9 ≥ 7 điểm 115 33,6 Chỉ số Apgar 5 phút ≤ 3 điểm 9 2,6 Từ 4-6 điểm 81 23,7 ≥ 7 điểm 252 73,7 Cân nặng con < 1000 gam 22 6,4 Từ 1000-≤1500 gam 148 43,3 >1500 – ≤2500gam 124 36,3 >2500gam 48 14,0 Các bệnh lý đi kèm Suy hô hấp 90 26,3 19 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Bệnh màng trong 62 18,1 Xuất huyết phổi 3 0,9 Xuất huyết não 2 0,6 Cao áp phổi 1 0,3 Còn ống động mạch 1 0,3 Thời gian nằm hồi sức (n=335) < 3 ngày 38 11,3 3 đến 7 ngày 86 25,7 >7 ngày 211 63,0 Kết cục thai kỳ xấu ở con Có biến chứng 168 49,1 Không biến chứng 174 50,9 Kết quả con Bệnh ổn xuất viện 306 89,5 Bệnh nặng chuyển viện 12 3,5 Bệnh nặng xuất viện 16 4,7 Tử vong tại viện 1 0,3 Thai lưu 7 2,0 Tử vong sơ sinh 21 6,1 Tương quan giữa sFlt-1/PLGF và kết cục xấu của thai kỳ Trung vị của tỉ s sFlt-1/PLGF trên kết cục xấu của thai kỳ (biểu đồ 1) Biểu đồ 1. Trung vị của tỉ số sFlt-1/PLGF trên kết cục xấu của thai kỳ Nhóm có kết cục thai kỳ xấu có trung vị tỉ số sFlt-1/PlGF là 228,33, trong khi nhóm đối tượng không kết cục thai kỳ xấu có trung vị tỉ số sFlt-1/PlGF là 30,3 và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,00 (kiểm định Mann Whitney U test) M i liên quan giữa tỉ s sFLt-1/PLGF với thời gian kéo dài thai kỳ Sau khi phân tích hồi quy Cox mối liên quan giữa các biến số (đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng) với thời gian kéo dài thai kỳ chỉ còn lại 1 yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê: tỉ số sFlt-1/PlGF (biểu đồ 2). Bảng 5. Các yếu tố liên quan đến thời gian kéo dài thai kỳ tiền sản giật sFlt-1/PlGF TG(tuần) Sai số chuẩn 95% KTC P* ≥ 85 1,20 0,17 0,85-1,54 0,00 < 85 7,48 0,34 6,81-8,16 TG: thời gian, KTC: khoảng tin c y Thời gian kéo dài thai kỳ ở nhóm có tỉ số sFltl/PlGF <85 dài hơn nhóm tỉ số sFltl/PlGF ≥ 85 là 6,28 tuần và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Sự khác biệt này được minh họa rõ qua biểu đồ 2 sau: Biểu đồ 2. Thời gian kéo dài thai kỳ Bảng 6. Xác suất còn kéo dài thai kỳ theo thời gian Thời gian Tỉ số sFltl/PlGF<85 Tỉ số sFltl/PlGF ≥ 85 Số trường hợp kết cục xấu CDTK* (n=40) Xác suất còn kéo dài TK* Số trường hợp kết cục xấu CDTK* (n=142) Xác suất còn kéo dài TK* <1 tuần 16 0,91 94 0,39 1 tuần 20 0,88 121 0,20 2 tuần 22 0,87 125 0,17 3 tuần 127 0,15 4 tuần 23 0,86 129 0,14 5 tuần 25 0,83 131 0,12 6 tuần 31 0,77 140 0,04 7 tuần 38 0,63 142 0,00 8 tuần 39 0,55 9 tuần 40 0,28 * Cộng dồn theo thời gian 20 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 1, Tháng 1 – 2017 Tiền sản giật chưa có dấu hiệu nặng hoặc chưa có bất kỳ một kết cục xấu nào trên mẹ và con thì gần 90% các trường hợp có khả năng kéo dài thai kỳ trên 1 tuần, nhưng một khi đã xuất hiện một dấu hiệu nặng ở mẹ hoặc con thì khả năng kèo dài thai kỳ chỉ còn 20%. Bàn luận Bàn lu n về trị s trung bình của tỉ s sFlt-1/PLGF ở thai phụ bị TSG có kết cục thai kỳ xấu và nhóm có kết cục bình thường Nhóm có kết cục thai kỳ xấu có trung vị tỉ số sFlt-1/PlGF là 228,33 trong khi nhóm đối tượng không kết cục thai kỳ xấu có trung vị tỉ số sFlt-1/PlGF là 30,3 và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,00 (kiểm định Mann Whitney U test). Kết quả này tương tự với tác giả Oliveira6, Rana8 và tác giả Nguyễn Chính Nghĩa,2 tuy kết quả của tác giả Nghĩa có tỉ số thấp hơn do tác giả chọn những đối tượng bình thường và nguy cơ cao trong khi đối tượng nghiên cứu của các nghiên cứu còn lại là những sản phụ được chẩn đoán là TSG. Bàn lu n về m i liên quan của tỉ s này với thời gian kéo dài thai kỳ Trong nghiên cứu của chúng tôi: thời gian kéo dài thai kỳ ở nhóm có tỉ số sFltl/PlGF < 85 dài hơn nhóm tỉ số sFltl/PlGF ≥ 85 là 6,28 tuần và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Sau khi phân tích hồi quy Cox mối liên quan giữa các biến số lâm sàng và cận lâm sàng khác với thời gian kéo dài thai kỳ chỉ còn lại 1 yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê là tỉ số sFltl/PlGF. So với nhóm đối tượng có tỉ số sFlt1/PlGF < 85, nhóm đối tượng tham gia nghiên cứu có tỉ số sFlt1/PlGF ≥ 85 có khả năng chấm dứt thai kỳ sớm gấp 8,07 lần, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Hai tuần sau khi nhập viện với chẩn đoán tiền sản giật, 87% sản phụ ở nhóm tỉ số sFltl/PlGF < 85 tiếp tục được điều trị mong đợi trong khi chỉ 17% sản phụ ở nhóm tỉ số sFltl/PlGF ≥ 85 được tiếp tục kéo dài thai kỳ. Tương tự với tác giả Rana8, thời điểm 2 tuần sau khi được chẩn đoán xác định tiền sản giật, 86% sản phụ còn được kéo dài thai kỳ ở nhóm tỉ số sFltl/PlGF ≤ 85 và 15,8% sản phụ còn được kéo dài thai kỳ ở nhóm tỉ số sFltl/PlGF > 85. Cũng tương tự với tỉ số nguy cơ (HR*) là 8,07 (1,27-2,60) so với 9,4 (4,7-18,7). Với nhóm thai phụ TSG chưa có dấu hiệu nặng hoặc chưa có bất kỳ kết cục xấu mẹ hoặc con thì gần 90% các trường hợp có thể kéo dài thai kỳ trên 1 tuần. Đây là khoảng thời gian rất quan trọng cho việc chuẩn bị cho sự ra đời của một trẻ non tháng. Và việc can thiệp thích hợp ở giai đoạn này có thể làm giảm nguy cơ xuất hiện các kết cục xấu thai kỳ về sau, giảm nguy cơ phải chấm dứt thai kỳ sớm và cải thiện chất lượng sống chu sinh cho mẹ và con, bởi vì khi có bất kỳ một dấu hiệu xấu nào của mẹ hoặc con xuất hiện thì thời gian kéo dài thai kỳ chỉ trong vòng 1,2 tuần và xác xuất kéo dài thai kỳ an toàn chỉ còn 20%. Thực vậy tỉ số này có thể được xem là công cụ tin cậy để xác định nhóm thai phụ bị TSG có nguy cơ cao chuyển nặng. Từ đó, giúp chúng ta phân tuyến chăm sóc và điều trị thích hợp cho thai phụ, nhằm đảm bảo cơ hội sống còn tốt nhất cho mẹ và con. Việc quản lý thai kỳ TSG dựa vào giá trị của tỉ số sFLt- 1/PlGF đã giúp giảm tỉ lệ bệnh suất và tử suất chu sinh đến 20%.11 Kết luận Tỉ số sFlt-1/PlGF có thể tiên lượng được kết cục xấu cho thai kỳ bị TSG trước 1-7 tuần, phát hiện nhóm thai phụ sẽ có nguy cơ chuyển biến nặng về sau. Từ đó có sự chuẩn bị cũng như can thiệp thích hợp nhằm đảm bảo an toàn cho mẹ và con. Tài liệu tham khảo 1. Bệnh viện Từ Dũ (2012). Phác đồ điều trị sản phụ khoa (Vol. 2), Tp Hồ Chí Minh, 44-51. 2. Nguyễn Chính Nghĩa (2013), “Nghiên cứu yếu 21 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 3. tố phát triển rau thai (PlGF) và thụ thể yếu tố phát triển tế bào nội mạc hòa tan (sFlt-1) trong huyết thanh ở thai phụ bình thường và thai phụ có nguy cơ tiền sản giật”. Luận án Tiến sĩ, đại học Y Hà Nội, tr 9-17. 4. American College of Obstetricians and Gynecologists (2013), Hypertention in Pregnancy, Washington, 1-98 5. Chaiworapongsa T, Romero R, Hassan SS (2011), "Maternal plasma concentrations of angiogenic/anti-angiogenic factors are of prognostic value in patients presenting to the obstetrical triage area with the suspicion of preeclampsia". Journal Matern Fetal Neonatal Medicine, 24(10), 1187-1207 6. De Oliveria L, C. Peracoli J, T. Peracoli.M, et al (2013), "sFlt1/PlGf ratio as a prognostic marker of adverse outcomes in women with early- onset preeclampsia". An International Journal of Women's Cardiovascular Health. 7. Hagmann.H, Thadhani.R, Benzing.T, Karumanchi S.A, Stepan.H (2012), "The promise of Angiogenic markers for the early diagnosis and prediction of preeclampsia." Clinical Chemistry, 58(5), 837-845. 8. Maynard SE, Karumanchi SA (2011), "Angiogenic Factors and Preeclampsia". Semin Nephrol, 31(1), 33-46. 9. Rana S, Powe CE, et al (2012), "Angiogenic Factor and the risk of adverse outcomes in women with suspected preeclampsia." Circulation, 125(7), 911-919. 10. Sibai B, Dekker G, M, K. (2005), "Preecplamsia". The Lancet, 365(9461), 785 - 799. 11. Verlohren S, Herraiz I, Lapaire O , Schlembach D, Moertl M, (2011), “The sFlt-1/PlGF ratio in different types of hypertensive pregnancy disorders and its prognostic potential in preeclamptic patients”, American Journal of Obstetrics & Gynecology; 205: e1-e8. 12. Verlohren S, Galindo A (2010), "An automated method for the determination of the sFlt-1/PlGF ratio in the assessment of preeclampsia." American Journal of Obstetrics and Gynecology;202(2), 161. __________________________________ Người phản hồi: BS Lê Quang Thanh Email: [email protected] Ngày nhận bài: 08/12/2016 Ngày phản biện: 12/12/2016 Ngày đăng báo : 28/12/2016
File đính kèm:
lien_quan_giua_ti_so_sflt_1plgf_va_kha_nang_keo_dai_thai_ky.pdf

