Liên quan giữa sâu răng và chất lượng cuộc sống của trẻ 5 tuổi tại Thái Nguyên

Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 491 trẻ với mục tiêu xác định mối liên quan giữa sâu răng

và chất lượng cuộc sống của trẻ 5 tuổi tại Thái Nguyên. Toàn bộ trẻ được khám và đánh giá sâu răng theo

tiêu chuẩn của WHO. Phỏng vấn trực tiếp trẻ và phụ huynh về sức khỏe răng miệng liên quan tới chất lượng

cuộc sống được thực hiện dựa trên bộ câu hỏi thiết kế sẵn theo thang đo MOHRQoL (Michigan Oral HealthRelated Quality of Life). Kết quả cho thấy chất lượng cuộc sống của trẻ có sâu răng bị ảnh hưởng tiêu cực gấp

hơn 15 lần trẻ không sâu răng, đặc biệt với những trẻ có tổn thương đã tạo xoang trên men, tổn thương tới

ngà răng và tổn thương liên quan tới tủy răng (p < 0,001,="" or="" lần="" lượt:="" 2,761;="" 4,681;="" 2,854).="" sâu="" răng="" gây="">

hưởng tiêu cực tới chất lượng cuộc sống trẻ 5 tuổi tại Thái Nguyên. Phát hiện và điều trị những tổn thương sâu

răng sớm giúp hạn chế tiến triển của sâu răng và những tác động tiêu cực tới chất lượng cuộc sống của trẻ.

pdf 7 trang phuongnguyen 180
Bạn đang xem tài liệu "Liên quan giữa sâu răng và chất lượng cuộc sống của trẻ 5 tuổi tại Thái Nguyên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Liên quan giữa sâu răng và chất lượng cuộc sống của trẻ 5 tuổi tại Thái Nguyên

Liên quan giữa sâu răng và chất lượng cuộc sống của trẻ 5 tuổi tại Thái Nguyên
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
144 TCNCYH 122 (6) - 2019
Tác giả liên hệ: Vũ Thị Hà, 
Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên
Email: [email protected]
Ngày nhận: 20/08/2019
Ngày được chấp nhận: 03/09/2019
LIÊN QUAN GIỮA SÂU RĂNG VÀ CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG
CỦA TRẺ 5 TUỔI TẠI THÁI NGUYÊN
Vũ Thị Hà1, Lê Thị Thu Hằng1, Võ Trương Như Ngọc2
1Trường Đại học Y – Dược Thái Nguyên, 2Trường Đại học Y Hà Nội
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 491 trẻ với mục tiêu xác định mối liên quan giữa sâu răng 
và chất lượng cuộc sống của trẻ 5 tuổi tại Thái Nguyên. Toàn bộ trẻ được khám và đánh giá sâu răng theo 
tiêu chuẩn của WHO. Phỏng vấn trực tiếp trẻ và phụ huynh về sức khỏe răng miệng liên quan tới chất lượng 
cuộc sống được thực hiện dựa trên bộ câu hỏi thiết kế sẵn theo thang đo MOHRQoL (Michigan Oral Health-
Related Quality of Life). Kết quả cho thấy chất lượng cuộc sống của trẻ có sâu răng bị ảnh hưởng tiêu cực gấp 
hơn 15 lần trẻ không sâu răng, đặc biệt với những trẻ có tổn thương đã tạo xoang trên men, tổn thương tới 
ngà răng và tổn thương liên quan tới tủy răng (p < 0,001, OR lần lượt: 2,761; 4,681; 2,854). Sâu răng gây ảnh 
hưởng tiêu cực tới chất lượng cuộc sống trẻ 5 tuổi tại Thái Nguyên. Phát hiện và điều trị những tổn thương sâu 
răng sớm giúp hạn chế tiến triển của sâu răng và những tác động tiêu cực tới chất lượng cuộc sống của trẻ.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Năm 1948, Tổ chức y tế thế giới (WHO) đã 
đưa ra định nghĩa về sức khỏe “Sức khỏe là 
trạng thái thoải mái toàn diện về thể chất, tinh 
thần và xã hội và không chỉ bao gồm tình trạng 
không có bệnh hay thương tật” để khẳng định 
mối liên quan mật thiết giữa sức khỏe với chất 
lượng cuộc sống [1]. Ngày nay, cùng với sự 
tăng trưởng của nền kinh tế, chất lượng cuộc 
sống ngày càng được quan tâm hơn. Nghiên 
cứu của Dimperg L. (2015) đã chỉ ra những khó 
khăn trong việc ăn, nhai, nói, cười và một số rối 
loạn về thể chất, tinh thần chính là hậu quả của 
tình trạng răng miệng kém, điều đó cho thấy 
sức khỏe răng miệng không chỉ liên quan đến 
sức khỏe toàn thân mà hơn thế còn là yếu tố 
quan trọng tác động tới chất lượng cuộc sống 
của con người [2; 3]. 
Trẻ em, đặc biệt lứa tuổi mầm non là đối 
tượng dễ chịu sự tác động. Mặc dù việc chăm 
sóc răng miệng nói chung và cho trẻ em nói 
riêng ngày càng được quan tâm nhưng tỷ lệ 
sâu răng ở trẻ dưới 6 tuổi vẫn còn ở mức báo 
động. Tỷ lệ sâu răng ở 5 tỉnh thành Việt Nam 
theo nghiên cứu của Trương Mạnh Dũng và Vũ 
Mạnh Tuấn là 81,6% [4]. Sâu răng tác động tiêu 
cực tới cuộc sống của trẻ nghiêm trọng hơn các 
nhóm tuổi khác trong xã hội, gây đau đớn, khó 
chịu, ảnh hưởng tới việc ăn nhai, học tập, giao 
tiếp, sinh hoạt, sự phát triển thể chất và tinh 
thần của trẻ [2]. Việc đánh giá ảnh hưởng của 
sức khỏe răng miệng, đặc biệt là sâu răng lên 
chất lượng cuộc sống của trẻ trở thành một vấn 
đề rất cấp thiết. 
Junior và cộng sự nghiên cứu 638 trẻ từ 2 
đến 5 tuổi khẳng định sâu răng có ảnh hưởng 
nghiêm trọng tới chất lượng cuộc sống của trẻ 
[5]. Kết quả tương tự cũng được đưa ra trong 
nhiều nghiên cứu khác [6].
Từ khóa: MOHRQoL, sâu răng, 5 tuổi,
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
145TCNCYH 122 (6) - 2019
Trên thế giới, nhiều bộ câu hỏi được thiết 
kế để đánh giá ảnh hưởng của sức khỏe răng 
miệng lên chất lượng cuộc sống của trẻ em. Một 
trong số đó là Michigan Oral Health – Related 
Quaity of Life (MOHRQoL), đã được đánh giá 
là có độ tin cậy và phù hợp với trẻ em ở nhóm 
tuổi mầm non [7; 8].
Tại Việt Nam, mối liên quan giữa sức khỏe 
răng miệng tới chất lượng cuộc sống (SKRM-
CLCS) đã bước đầu được quan tâm và đánh 
giá ở người trưởng thành và người cao tuổi tuy 
nhiên vẫn chưa có nhiều nghiên cứu về vấn đề 
này trên nhóm tuổi mầm non. Thái Nguyên là 
vùng có hàm lượng fluor trong nước thấp, chưa 
được fluor hóa nước máy, tỷ lệ sâu răng trẻ em 
ở mức cao [9]. Do đó, nghiên cứu này được 
thực hiện với mục tiêu xác định mối liên quan 
giữa sâu răng và chất lượng cuộc sống của trẻ 
5 tuổi tại Thái Nguyên.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu là trẻ 5 tuổi tại các 
trường mầm non ở Thái Nguyên và phụ huynh. 
Tiêu chuẩn lựa chọn là trẻ hợp tác, có khả năng 
trả lời câu hỏi và phụ huynh đồng ý, hợp tác 
tham gia nghiên cứu. Những trẻ đang có chấn 
thương vùng hàm mặt, phát triển bất thường về 
tâm thần kinh hoặc không có khả năng trả lời 
câu hỏi, có dị tật khe hở môi – vòm miệng, vắng 
mặt trong ngày khám bị loại khỏi nghiên cứu. 
2. Phương pháp 
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 10 năm 
2018 đến tháng 10 năm 2019 tại các trường 
mầm non ở Thái Nguyên với thiết kế mô tả cắt 
ngang.
Theo công thức xác định cỡ mẫu cho nghiên 
cứu ước lượng một tỷ lệ trong quần thể, với tỷ 
lệ sâu răng tham khảo từ nghiên cứu của Đỗ 
Minh Hương và Lê Thị Thu Hằng là 91,4%, cỡ 
mẫu tính được là 145 [9]. Tuy nhiên, để đảm 
bảo cỡ mẫu cần thiết cho phân tích số liệu về 
chất lượng cuộc sống, số trẻ cần được lựa 
chọn vào nghiên cứu là 145 x 3 = 435 trẻ.
Cách chọn mẫu: Lập danh sách toàn bộ 15 
trường mầm non ở trung tâm thành phố và 22 
trường mầm non ở vùng nông thôn của Thái 
Nguyên. Chọn ngẫu nhiên 2 trường ở trung tâm 
và 2 trường ở nông thôn. Trong toàn bộ 611 trẻ 
của 4 trường mầm non, 491 trẻ đã thỏa mãn 
các tiêu chuẩn và được lựa chọn vào nghiên 
cứu. 
Chỉ tiêu nghiên cứu
Tỉ lệ và mức độ sâu răng được xác định theo 
tiêu chuẩn của WHO
Bảng 1. Tiêu chuẩn phân loại sâu răng WHO [10]
Mã số Mô tả
D1 Tổn thương men răng với bề mặt còn nguyên vẹn, có thể phát hiện trên lâm sàng. 
D2 Tổn thương men răng có tạo xoang, có thể phát hiện trên lâm sàng
D3 Tổn thương ở ngà răng, có thể phát hiện trên lâm sàng. 
D4 Tổn thương vào tủy răng.
Cách xác định chỉ số sâu mất trám mặt răng (dmfs):
dmfs = 
Σds + Σms + Σfs 
Số người được khám 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
146 TCNCYH 122 (6) - 2019
ds: số mặt răng sâu, ms: số mặt răng mất, 
fs: số mặt răng được trám.
Sức khỏe răng miệng liên quan đến chất 
lượng cuộc sống của trẻ 5 tuổi được đánh giá 
theo thang đo MOHRQoL đã được dịch sang 
tiếng Việt. Bản tiếng Việt của bộ công cụ đã 
được kiểm định và được đánh giá là đảm bảo độ 
tin cậy, giá trị hội tụ, giá trị phân biệt để đánh giá 
sức khỏe răng miệng liên quan tới chất lượng 
cuộc sống cho trẻ 4 – 5 tuổi [8]. Trong bộ câu 
hỏi dành cho trẻ, thang đo có 2 câu hỏi phụ mở 
đầu “cháu năm nay bao nhiêu tuổi?” và “cháu 
có biết nha sĩ làm gì không?” để khẳng định khả 
năng trả lời câu hỏi của trẻ. 18 câu hỏi chính 
thuộc 4 khía cạnh: cảm giác đau – khó chịu (4 
câu), vấn đề khớp thái dương hàm (3 câu), ảnh 
hưởng sinh hoạt (6 câu), ảnh hưởng thẩm mỹ 
và tinh thần (5 câu). Câu trả lời dạng có/không. 
Mỗi câu trả lời “có” được tính 1 điểm, biểu hiện 
chất lượng cuộc sống bị ảnh hưởng tiêu cực. 
Ba câu “cháu có thích răng của mình không?”, 
“nụ cười của cháu có đẹp không?”, “cháu có 
thấy vui với hàm răng của của mình không?” 
ngược lại, khi trả lời “không” đồng nghĩa với 
ảnh hưởng tiêu cực tới chất lượng cuộc sống. 
Tổng điểm càng cao thì chất lượng cuộc sống 
càng bị ảnh hưởng nhiều. Đồng thời, bộ công 
cụ cũng gồm 11 câu hỏi dành cho phụ huynh 
tương ứng với câu hỏi của trẻ để đối chiếu sự 
đồng nhất trong phần trả lời của trẻ [7; 8].
Kỹ thuật thu thập số liệu
Bệnh sâu răng được đánh giá qua khám 
lần lượt tất cả các răng của toàn bộ trẻ bởi 
hai bác sĩ Răng Hàm Mặt đã được tập huấn 
bằng gương nha khoa và cây thăm dò nha chu 
(KAPPA = 0,86). Thông tin về sức khỏe răng 
miệng liên quan đến chất lượng cuộc sống của 
trẻ được thu thập bằng phỏng vấn trực tiếp trẻ 
và phụ huynh theo bộ câu hỏi thiết kế sẵn.
3. Xử lý số liệu
Số liệu được xử lý bằng phần mềm thống 
kê y học. Fisher’s Exact test được dùng để xác 
định mối liên quan giữa bệnh sâu răng và chất 
lượng cuộc sống của trẻ.
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu đã được Hội đồng Đạo đức 
trong nghiên cứu y sinh học Trường Đại học Y 
Hà Nội phê duyệt theo quyết định số 165/QĐ-
ĐHYHN ngày 25 tháng 1 năm 2019.
III. KẾT QUẢ
Tổng số 491 trẻ 5 tuổi của 4 trường mầm non tại Thái Nguyên được lựa chọn vào nghiên cứu có 
251 nam (51,1%) và 240 nữ (48,9%).
1. Tình trạng sâu răng của trẻ 
Bảng 2. Sâu răng qua chỉ số sâu mất trám mặt răng (dmfs)
Chỉ số Med (Min, Max) ± SD
ds 17 (0, 88) 20,93 ± 16,37
ms 0 (0, 13) 0,74 ± 2,50
fs 0 (0, 25) 0,52 ± 1,46
dmfs 19 (0, 88) 22,19 ± 16,82
Kết quả bảng 2 cho thấy sâu răng sữa ở trẻ 5 tuổi ở mức rất cao, trung bình mỗi trẻ 5 tuổi có 22 
mặt răng đã bị sâu, đã được hàn hoặc mất do sâu răng. Trong đó, chủ yếu là các tổn thương sâu 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
147TCNCYH 122 (6) - 2019
răng chưa được điều trị.
2. Sức khỏe răng miệng liên quan đến chất lượng cuộc sống của trẻ 
Bảng 3. Điểm trung bình chất lượng cuộc sống của trẻ ở các khía cạnh
Chất lượng cuộc sống Med (Min, Max) ± SD
Cảm giác đau, khó chịu 1 (0, 4) 1,32 ± 1,51
Vấn đề khớp thái dương hàm 0 (0, 3) 0,39 ± 0,62
Ảnh hưởng tới sinh hoạt 0 (0, 6) 0,69 ± 1,39
Ảnh hưởng tới tinh thần, thẩm mỹ 1 (0, 5) 1,13 ± 1,05
Chất lượng cuộc sống chung 3 (0, 15) 3,53 ± 3,27
Điểm trung bình sức khỏe răng miệng- chất lượng cuộc sống của trẻ là 3,53 ± 3,27. Trong đó, 
cảm giác đau và khó chịu bị ảnh hưởng nhiều nhất. Tiếp đến lần lượt là ảnh hưởng ở khía cạnh thẩm 
mỹ- tinh thần, sinh hoạt và ảnh hưởng liên quan tới khớp thái dương hàm.
Bảng 4. Liên quan giữa sâu răng với chất lượng cuộc sống
Sâu răng
Chất lượng cuộc sống p
OR
(95%CI)
Có 
n(%)
Không
n(%)
 < 0,001
15,097
(4,512 - 50,507)Có 416 (87) 62 (13)
Không 4 (30,8) 9 (69,2)
Kết quả bảng 4 cho thấy trẻ bị sâu răng chất lượng cuộc sống bị ảnh hưởng tiêu cực cao gấp 
15,097 lần so với trẻ không bị sâu răng.
Bảng 5. Liên quan giữa mức độ sâu răng với chất lượng cuộc sống
Mức độ sâu răng
Chất lượng cuộc sống
p
OR
(95% CI)Có
n(%)
Không
n(%)
 D1
 Có 229 (84,8) 41 (15,2)
0,699
0,877
(0,528 - 1,459) Không 191 (86,4) 30 (13,6)
 D2
 Có 332 (89,0) 41 (11)
< 0,001
2,761
(1,631 - 4,673) Không 88 (74,6) 30 (25,4)
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
148 TCNCYH 122 (6) - 2019
Mức độ sâu răng
Chất lượng cuộc sống
p
OR
(95% CI)Có
n(%)
Không
n(%)
 D3
 Có 381(88,8) 48(11,2)
< 0,001
4,681
(2,578 - 8,498) Không 39(62,9) 23(37,1)
 D4
 Có 284(90,4) 30(9,6)
< 0,001
2,854
(1,708 - 4,768) Không 136(76,8) 41(23,2)
Trong 4 mức độ sâu răng theo phân loại của WHO, tổn thương men răng với bề mặt còn nguyên 
vẹn, có thể phát hiện trên lâm sàng không có mối liên quan với chất lượng cuộc sống của trẻ (p = 
0,699). Các tổn thương sâu răng với mức độ đã tạo xoang trở lên (D2, D3, D4) đều có liên quan tới 
chất lượng cuộc sống của trẻ (p < 0,001).
IV. BÀN LUẬN
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện 
trên 491 trẻ (51,1% nam, 48,9% nữ) 5 tuổi tại 
4 trường mầm non tại thành phố Thái Nguyên, 
đây là một trong những nghiên cứu đầu tiên sử 
dụng bộ công cụ MOHRQoL bản tiếng Việt để 
xác định mối liên quan giữa sâu răng với chất 
lượng cuộc sống ở nhóm tuổi này. 
Chỉ số sâu mất trám mặt răng ở mức rất 
cao, trung bình mỗi trẻ có 21 mặt răng sữa bị 
sâu, trong đó chỉ có 0,52 mặt răng được hàn, 
cao hơn nghiên cứu của Đỗ Minh Hương và Lê 
Thị Thu Hằng tại trường mầm non 19 – 5 thành 
phố Thái Nguyên năm 2016 với dmfs nhóm trẻ 
5 tuổi là 15,0 ± 14,2 [9]. Điều này có thể được 
giải thích do nghiên cứu được thực hiện cả ở 
vùng nông thôn, nơi điều kiện kinh tế, chăm sóc 
răng miệng còn nhiều hạn chế so với khu vực 
trung tâm. Tuy nhiên kết quả này vẫn thấp hơn 
nghiên cứu ghi nhận tỷ lệ sâu răng của Rodrigo 
G (95,6% trẻ 6 – 7 tuổi tại một vùng nông thôn 
Brazil có sâu răng sữa với dmfs = 71,9 ± 11,2) 
[11].
Bộ công cụ MOHRQoL đánh giá chất lượng 
cuộc sống của trẻ ở nhiều khía cạnh. Trong đó 
trẻ bị ảnh hưởng ở khía cạnh đau, khó chịu 
và tinh thần, thẩm mỹ nhiều hơn những ảnh 
hưởng lên khớp thái dương hàm và sinh hoạt. 
. Kết quả này cũng tương đồng với nghiên cứu 
của Gomes và cộng sự khi sử dụng bộ công 
cụ ECOHIS (The Early Childhood Oral Health 
Impact Scale) đánh giá tác động của sức khỏe 
răng miệng lên chất lượng cuộc sống 843 trẻ 
mầm non tại Brazil thì vấn đề bị ảnh hưởng 
nhiều nhất là cảm giác đau, khó ăn uống đồ 
nóng/ lạnh. Có thể giải thích đau là vấn đề đầu 
tiên và trực tiếp nhất ảnh hưởng tới cảm nhận 
của trẻ và giúp phụ huynh nhận ra rằng con 
mình bị sâu răng [12].
Kết quả bảng 4 đã cho một cái nhìn rõ ràng 
về ảnh hưởng tiêu cực của sâu răng tới chất 
lượng cuộc sống trẻ. Cảm giác đau, khó ăn 
nhai và tâm lý không thoải mái khi có hàm răng 
sâu là những khó khăn có ảnh hưởng nhiều 
nhất. Kết quả tương tự cũng xuất hiện ở nhiều 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
149TCNCYH 122 (6) - 2019
nghiên cứu nghiên cứu của nhiều tác giả khác 
[6; 12]. Bộ công cụ MOHRQoL là bộ công cụ 
đa chiều, đánh giá chất lượng cuộc sống trên 
nhiều khía cạnh nên giá trị OR cao đã phản ánh 
đúng một thực tế rằng khi sâu răng thì cuộc 
sống của trẻ thật sự gặp phải nhiều vấn đề 
khó khăn, ở nhiều lĩnh vực chứ không chỉ là ở 
khuôn miệng. 
Nghiên cứu sử dụng tiêu chí chẩn đoán sâu 
răng của WHO, trong đó sâu răng mức độ 1 
là những tổn thương men răng với bề mặt còn 
nguyên vẹn. Tổn thương dạng này thường ít 
khi được phát hiện bởi bố mẹ/ người chăm sóc 
và không gây đau cho trẻ. Kết quả này cũng 
tương đồng với một số nghiên cứu khác [5]. 
Những tổn thương mức độ nặng hơn đều có 
tác động tiêu cực tới chất lượng cuộc sống vì 
trẻ và ngay cả phụ huynh chỉ nhận ra có vấn đề 
về sức khỏe răng miệng khi họ có thể quan sát 
tổn thương một cách rõ ràng và răng trẻ có biểu 
hiện bị đau.
Nghiên cứu này cũng gặp phải một hạn chế 
cố hữu của nghiên cứu cắt ngang là đối tượng 
phỏng vấn thường chỉ nhớ chính xác những 
sự việc vừa mới xảy ra, do đó vấn đề sai lệch 
có thể gặp phải. Đối tượng phỏng vấn chính 
trong nghiên cứu là trẻ mầm non 5 tuổi nên có 
thể gặp tình huống trẻ không hiểu câu hỏi hoặc 
tâm lý không tập trung khi trả lời. Nghiên cứu 
này đã cố gắng hạn chế những sai số bằng 
cách sử dụng hai câu mở đầu để đánh giá khả 
năng nhận thức và trả lời câu hỏi. Cùng với đó, 
thực hiện phỏng vấn trực tiếp để hạn chế tối đa 
những sai lệch. 
V. KẾT LUẬN
Sâu răng có ảnh hưởng tiêu cực tới chất 
lượng cuộc sống ở trẻ 5 tuổi tại Thái Nguyên, 
trẻ bị sâu răng có chất lượng cuộc sống bị 
ảnh hưởng gấp hơn 15 lần so với trẻ không 
bị sâu răng. Không tìm thấy sự liên quan giữa 
tổn thương sâu men bề mặt còn nguyên vẹn 
với chất lượng cuộc sống trong khi đó những 
tổn thương đã tạo xoang trên men, tạo xoang 
trên ngà răng và tổn thương liên quan tới tủy 
răng đều gây ra tác động bất lợi tới chất lượng 
cuộc sống trẻ 5 tuổi tại Thái Nguyên. Do đó, 
việc phát hiện và điều trị những tổn thương sâu 
răng giai đoạn sớm có ý nghĩa quan trọng giúp 
giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực tới chất 
lượng cuộc sống của trẻ.
Cần thực hiện những nghiên cứu rộng hơn, 
trên nhiều địa phương khác cũng như các 
nghiên cứu dọc để làm rõ mối quan hệ nhân 
quả và cho phép thiết lập những chính sách 
công hiệu quả nhằm hạn chế những tác động 
tới chất lượng cuộc sống của trẻ mầm non.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. World Health Organization (2006). 
Constitution of The World Health Organization. 
Basic Doc Forthy - fifth Ed.January 1984, 1 – 
18.
2. Dimberg L., Lennartsson B., 
Bondemark L., et al (2016). Oral health - related 
quality - of - life among children in Swedish 
dental care: The impact from malocclusions 
or orthodontic treatment need. Acta Odontol 
Scand. 74(2),127 – 133.
3. Montero J., Albaladejo A., Zalba J. 
(2014). Influence of the usual motivation for 
dental attendance on dental status and oral 
health - related quality of life. Med Oral Patol 
Oral Cir Bucal, 19(3), 225 - 31.
4. Trương Mạnh Dũng, Vũ Mạnh Tuấn 
(2011). Thực trạng bệnh răng miệng và một số 
yếu tố liên quan ở trẻ 4 - 8 tuổi tại 5 tỉnh thành 
của Việt Nam năm 2010. Tạp chí Y học thực 
hành, 799(12), 56 – 59.
5. Martins - Júnior P.A., Vieira Andrate. 
R, Correa - Faria P., et al (2013). Impact 
of early childhood caries on the oral health - 
related quality of life of preschool children and 
their parents. Caries Res, 47(3), 211 – 218.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
150 TCNCYH 122 (6) - 2019
6. Gomes M.C., Pinto - Samero T.C, 
Brito Costa E. (2014). Impact of oral health 
conditions on the quality of life of preschool 
children and their families: A cross - sectional 
study. Health Qual Life Outcomes, doi: 
10.1186/1477 - 7525 - 12 - 55.
7. Filstrup S.L., Briskie D. , Foncesca 
M., et al (2003). Early childhood caries and 
quality of life: child and parent perspectives. 
Pediatr Dent, 25(5), 431 – 40.
8. Lê Thị Thu Hằng (2019). Kiểm định 
thang đo sức khỏe răng miệng với chất lượng 
cuộc sống của trẻ mầm non tại tỉnh Thái 
Nguyên. Tạp chí nghiên cứu y học, 121(5), 134 
– 140.
9. Đỗ Minh Hương, Lê Thị Thu Hằng, 
Phạm Thị Thu Hiền (2016). Tình trạng sâu 
răng sớm tại trường mầm non 19.5 thành phố 
Thái Nguyên theo ICDAS II. Tạp chí Y học Việt 
Nam, 444, 125 – 130.
10. Fejerskop O., Edwina K. (2007). 
Dental caries. The Disease and its clinical 
management (Blackwell Munksgaard), 127 – 
128. 2ed Ed.
11. Amorim R.G., Figueiredo M.J., Leal 
S.C., et al (2012). Caries experience in a child 
population in a deprived area of Brazil, using 
ICDAS II. Clin Oral Investig, 16 (2), 513 - 520.
12. Gomes M.C., Clementino M., Pinto - 
Sarmento T., et al (2015). Parental Perceptions 
of Oral Health Status in Preschool Children and 
Associated Factors. Braz Dent J, 26(4), 428 – 
434.
Summary
THE RELEVANCE BETWEEN DENTAL CARIES AND QUALITY OF 
LIFE OF 5 YEAR – OLD CHILDREN IN THAI NGUYEN
A cross-sectional study was conducted in 491 children in order to identify the relationship 
between dental caries and quality of life of 5 years – old children in Thai Nguyen. All children 
received dental examination using WHO classification. Face to face interview was conducted 
with children and parents about the oral health – related quality of life based on MOHRQoL 
(Michigan Oral Health – Related Quality of Life) scale. Results indicated that the quality of life of 
children with dental caries had been negatively affected approximately 15 times higher than who 
have not suffered from dental caries; especially when the detectable cavites affect the enamel, 
the dentin and with lesions extending into the pulp (p < 0.001 and OR are 2.761; 4.681; 2.854, 
respectively). We conclude that dental caries has a negative impact on the quality of life in 5 
years – old children in Thai Nguyen. Identification and treatment dental caries at early stage 
can limit the process of dental caries as well as reduce the adverse effect on the quality of life. 
Keywords: MOHRQoL, dental caries, 5 year – old.

File đính kèm:

  • pdflien_quan_giua_sau_rang_va_chat_luong_cuoc_song_cua_tre_5_tu.pdf