Kỹ thuật nội soi đánh giá nuốt trên bệnh nhân sau cắt thanh quản bảo tồn
Đặt vấn đề: Kỹ thuật nội soi đánh giá nuốt được đề nghị là phương pháp tiêu chuẩn trong đánh giá nuốt và
là thủ thuật thường qui cho các bệnh nhân sau cắt thanh quản bảo tồn (TQBT).
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá sự an toàn và lợi ít của nội soi đánh giá nuốt.
Đối tượng và phương pháp niên cứu: Nghiên cứu bao gồm 47 bệnh nhân sau cắt TQBT được nội soi
đánh giá nuốt tại khoa Ngoại 3, BV. Ung Bướu TP. Hồ Chí Minh từ 1/1/ 2011 đến 5/8/2014.
Thiết kế nghiên cứu là báo cáo loạt trường hợp (TH). Chúng tôi cũng hồi cứu 47 TH cắt TQBT từ 1/1/2009
đến 31/12/2010 làm nhóm chứng, nhóm này không áp dụng NSĐGN trong tập nuốt.
Kết quả: Không ghi nhận trường hợp nào biến chứng chảy máu mũi, co thắt thanh quản hay viêm phổi.
Khi NSĐGN các TH cắt thanh quản trên sụn nhẫn kết hợp sụn nhẫn, sụn nắp và xương móng (TQTSN KH
SNNM) trước khi xuất viện, chúng tôi phát hiện 3 TH hít sặc thầm lặng.
Tỉ lệ viêm phổi, thời gian đặt ống nuôi ăn và nằm viện trong nhóm bệnh và nhóm chứng lần lược là: 0%,
18 ± 11 ngày, 23 ±11 ngày và 7 %, 19 ± 7 ngày, 27 ±13 ngày.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kỹ thuật nội soi đánh giá nuốt trên bệnh nhân sau cắt thanh quản bảo tồn
ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 106 KỸ THUẬT NỘI SOI ĐÁNH GIÁ NUỐT TRÊN BỆNH NHÂN SAU CẮT THANH QUẢN BẢO TỒN LÊ VĔN CƯỜNG1, HOÀNG QUỐC VIỆT2 Đặt vấn đề: Kỹ thuật nội soi đánh giá nuốt được đề nghị là phương pháp tiêu chuẩn trong đánh giá nuốt và là thủ thuật thường qui cho các bệnh nhân sau cắt thanh quản bảo tồn (TQBT). Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá sự an toàn và lợi ít của nội soi đánh giá nuốt. Đối tượng và phương pháp niên cứu: Nghiên cứu bao gồm 47 bệnh nhân sau cắt TQBT được nội soi đánh giá nuốt tại khoa Ngoại 3, BV. Ung Bướu TP. Hồ Chí Minh từ 1/1/ 2011 đến 5/8/2014. Thiết kế nghiên cứu là báo cáo loạt trường hợp (TH). Chúng tôi cũng hồi cứu 47 TH cắt TQBT từ 1/1/2009 đến 31/12/2010 làm nhóm chứng, nhóm này không áp dụng NSĐGN trong tập nuốt. Kết quả: Không ghi nhận trường hợp nào biến chứng chảy máu mũi, co thắt thanh quản hay viêm phổi. Khi NSĐGN các TH cắt thanh quản trên sụn nhẫn kết hợp sụn nhẫn, sụn nắp và xương móng (TQTSN KH SNNM) trước khi xuất viện, chúng tôi phát hiện 3 TH hít sặc thầm lặng. Tỉ lệ viêm phổi, thời gian đặt ống nuôi ĕn và nằm viện trong nhóm bệnh và nhóm chứng lần lược là: 0%, 18 ± 11 ngày, 23 ±11 ngày và 7 %, 19 ± 7 ngày, 27 ±13 ngày. Kết luận: Nội soi đánh giá nuốt là kỹ thuật an toàn, biến chứng ít và làm giảm tỉ lệ viêm phổi khi áp dụng cho nhóm bệnh nhân sau cắt TQBT. Kỹ thuật này nên được áp dụng trước khi ra viện trên nhóm bệnh nhân cắt TQTSN KH SNNM để phát hiện các trường hợp hít sặc thầm lặng. ABTRACT Fiberoptic Endoscopic Evaluation of Swallowing in postoperation patients of conservative laryngectomy Introduction: The Fiberoptic Endoscopic Evaluation of Swallowing (FEES) is recommended as the standard technique for swallowing assessment and is a routine procedure for postoperation patients of conservative laryngectomy (CL). Objective: To evaluate the safety and assess the benefits of FEES. Patients: The study consisted of 47 postoperation patients of CL who had a FEES at the Department of Surgery 3, Oncology Ho Chi Minh City hospital from January 1, 2011, to August 5, 2014. We also retrospectively studied 47 conservative laryngectomy cases who did not undergo a FEES, from January 1, 2009, to December 31, 2010. They were the control group. Study Design: The study design was a case series. Results: There are no complication cases of nosebleeds, laryngeal spasm or pneumonia. When evaluating the swallowing of the supracricoid partial laryngectomy (SCPL) patients before discharging from hospital, we found 3 cases of silent aspiration. The incidence of pneumonia, nasogastric tube time and hospital stay in the study group and control group were: 0%, 18 ± 11 days, 23 ± 11 days and 7%, 19 ± 7 days, 27 ± 13 days. Conclusion: Fiberoptic Endoscopic Evaluation of swallowing is safe with few complications and has a low rate of pneumonia. This technique should be performed for the SCPL patients before discharging from hospital to find silent aspiration cases. Key words: Fiberoptic Endoscopic Evaluation of Swallowing. 1 TS.BS. Phó Trưởng Khoa Ngoại 3 - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 2 CNĐD. Điều dưỡng Trưởng Khoa Ngoại 3 - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 107 ĐẶT VẤN ĐỀ Rối loạn nuốt là biến chứng thường gặp trong bệnh nhân ung thư đầu cổ. Do đó cùng với điều trị bệnh ung thư, can thiệp phục hồi chức nĕng nuốt cũng là thử thách cho nhân viên y tế. Thông thường, các kỹ thuât viên âm ngữ trị liệu (ANTL) đánh giá và hướng dẫn luyện tập cho bệnh nhân. Có ba phương pháp thường dùng đánh giá và hỗ trợ phục hồi chức nĕng nuốt, bao gồm: Đánh giá nuốt lâm sàng hay cạnh giường, video x quang đánh giá nuốt và nội soi đánh giá nuốt (NSĐGN). Nội soi đánh giá nuốt lần đầu tiên được mô tả bởi Susan Langmore vào nĕm 1988. Sau đó được áp dụng cho nhiều nhóm bệnh nhân, trong đó có bệnh nhân ung thư đầu cổ. Nội soi đánh giá nuốt có ưu điểm hơn video x quang đánh giá nuốt là bệnh nhân không tiếp xúc tia xạ khi làm thủ thuật và thủ thuật có thể tiến hành tại giường bệnh[1]. Trên thế giới có nhiều nghiên cứu khẳng định sự an toàn và hiệu quả của NSĐGN trên nhiều nhóm bệnh nhân khác nhau, trong đó có ung thư đầu cổ[5,6,7,8,9,10]. Kỹ thuật này được đề nghị là phương pháp tiêu chuẩn trong đánh giá nuốt[4] và là thủ thuật thường qui cho các bệnh nhân sau cắt thanh quản bảo tồn (TQBT)[8]. Bệnh viện Ung Bướu TP. Hồ Chí Minh áp dụng NSĐGN từ nĕm 2011 trong tập nuốt cho các bệnh nhân sau cắt TQBT nhưng chưa có công trình nghiên cứu về kỹ thuật này. Chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm 2 mục tiêu: Đánh giá sự an toàn của kỹ thuật NSĐGN. Đánh giá lợi ít của nội soi đánh giá nuốt. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Nghiên cứu bao gồm 47 bệnh nhân sau cắt TQBT được nội soi đánh giá nuốt tại khoa Ngoại 3, BV. Ung Bướu TP. Hồ Chí Minh từ 1/1/ 2011 đến 5/8/2014. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu là báo cáo loạt trường hợp (TH), trong đó tiền cứu từ 1/1/2011 đến 31/7/2013 và hồi cứu từ 1/8/2013 đến 5/8/2014. Sau cắt TQBT, bệnh nhân được nội soi đánh giá nuốt ở thời điểm tập nuốt và chuẩn bị xuất viện. Quá trình nội soi được tiến hành như sau: Bệnh nhân ngồi tư thế thẳng trên ghế, gập đầu ở tư thế cằm ngực. Bác sỹ đặt một ống nội soi mềm, có nguồn sáng xuyên qua mũi vào hầu bệnh nhân, với đầu ống soi hơi thấp hơn bờ tự do của khẩu cái mềm. Tùy vào thời điểm của quá trình hậu phẫu mà bệnh nhân được yêu cầu nuốt các loại thức ĕn khác nhau. Bệnh nhân cũng được thực hiện các thủ thuật khác khi nuốt nhằm tìm nguyên nhân rối loạn nuốt và chiến lược can thiệp. KẾT QUẢ Mẫu nghiên cứu gồm 45 bệnh nhân nam và 2 bệnh nhân nữ, tuổi trung bình 54 ± 9 tuổi, 41 TH có giai đoạn T1 và 6 TH giai đoạn T2, với trung bình chỉ số FEV1/FVC là 78 ± 6. Trong mẫu có 3 kỹ thuật mổ gồm 4 TH cắt thanh quản một phần kiểu trán bên (TQMP KTB), 4 TH cắt thanh quản một phần kiểu trán trước (TQMP KTT) và 39 TH cắt thanh quản trên sụn nhẫn kết hợp sụn nhẫn, sụn nắp và xương móng (TQTSN KH SNNM). Tám trong 47 TH có cắt sụn phễu. Thời gian trung bình đặt ống KKĐ, ONA và nằm viện lần lược là 13 ± 7, 18 ± 11 và 23 ± 10 ngày. Bệnh nhân được soi lần đầu ở thời điểm tập nuốt trung bình là ngày thứ 12 ± 4 sau mổ và lần thứ 2 ở thời điểm xuất viện trung bình là ngày thứ 22 ± 9. Bảng 1 là tỉ lệ biến chứng, chúng tôi không ghi nhận bất cứ biến chứng nào. Bảng 1. Các loại biến chứng liên quan NSĐGN Loại biến chứng Số ca Chảy máu mũi 0 Co thắt thanh quản 0 Viêm phổi 0 Tổng số 0 Để có số liệu so sánh với nhóm nghiên cứu, chúng tôi hồi cứu 43 bệnh nhân mổ cắt TQBT và không áp dụng NSĐGN từ 1/1/2009 đến 31/12/2010 gọi là nhóm chứng. Bảng 2. Đặc điểm của nhóm bệnh và nhóm chứng Đặc điểm Nhóm bệnh Nhóm chứng Nữ/Nam 2/45 6/37 T1/T2 41/6 40/3 Tuổi 54 ± 9 60 ± 8 FEV1/FVC 78 ± 6 78 ± 6 TQMP KTB 4 4 TQMP KTT 4 4 TQTSN KH SNNM 39 35 Bảng 3. So sánh biến chứng viêm phổi trong 2 nhóm Viêm phổi (ca) Không viêm phổi (ca) Tổng Nhóm bệnh 47 0 47 ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 108 Nhóm chứng 40 3 43 Tổng 87 3 90 P = 0,1 (Fisher) Viêm phổi là biến chứng nặng trong thời gian hậu phẫu do liên quan hít sặc. Số TH viêm phổi trong nhóm có NSĐGN thấp hơn trong nhóm không NSĐGN. Bảng 4. So sánh số ngày đặt ống nuôi ĕn và ngày nằm viện Đặc điểm Nhóm bệnh Nhóm chứng Kiểm định Giá trị P Số ngày đặt ONA (ngày) 18 ± 11 19 ± 7 Mann whitney U 0,025 Số ngày nằm viện (ngày) 23 ±11 27 ±13 Mann whitney U 0,021 Bảng 2 là kết quả NSĐGN ở thời điểm ra viện của 47 TH cắt TQBT, các trường hợp này lâm sàng đánh giá chức nĕng nuốt hồi phục tốt, nhưng chúng tôi phát hiện 3 TH hít sặc thầm lặng. Bảng 5. Đặc điểm trên nội soi đánh giá nuốt tại thời điểm chuẩn bị ra viện Đặc điểm TQMP KTB 4 TH TQMP KTT 4 TH TQTSN KH SNNXM 39 TH Đổ thức ĕn sớm (số TH) 0 0 0 Xâm nhập có phản xạ ho (số TH) 1 2 13 Hít sặc có phản xạ ho (số TH) 0 0 4 Hít sặc không có phản xạ ho (số TH) 0 0 3 Ứ đọng (số TH) 0 0 24 BÀN LUẬN Theo nghiên cứu của Tobias Warnecke[11] biến chứng thường gặp của NSĐGN gồm chảy máu mũi, co thắc thanh quản và viêm phổi và tỉ lệ chảy máu mũi trong nghiên cứu của ông là 6%. Trong khi Michael W. Deutschmann[3] và Aviv JE[2] ghi nhận 10% bệnh nhân ung thư đầu cổ có viêm phổi sau khi áp dụng chế độ ĕn theo đề nghị của NSĐGN. Tỷ lệ biến chứng trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn các tác giả khác có thể do khác nhau về loại bệnh trong nghiên cứu. Chảy máu mũi thường gặp khi nội soi cho nhóm bệnh sau tai biến vì nhóm này có thể dùng kháng đông. Co thắc thanh quản là biến chứng hiếm trong nội soi thanh quản, theo Wellenstein[12] tỉ số biến chứng này khoảng 1/200 TH và tự giới hạn. Nội soi đánh giá nuốt vừa là phương tiện đánh giá mức độ phục hồi chức nĕng vừa là chuẩn đoán và can thiệp phục hồi. Ở trong nước chưa có cơ sở y tế nào áp dụng kỹ thuật này vào đánh giá nuốt. Phương tiện này bổ sung những hạn chế của khám lâm sàng, nâng cao độ chính xác của chẩn đoán rối loạn nuốt. Trong nhóm không có nội soi, chúng tôi đề nghị chế độ ĕn và các bài tập cho bệnh nhân dựa trên khám lâm sàng. Sự di chuyển lên của sụn giáp, ho, cảm giác đọng thức ĕn, cảm giác mệt sau nuốt, âm ướt sau nuốt vả độ bão hòa Oxy trong máu ngoại vi là những dấu hiệu giúp chuẩn đoán. Trong nhóm có NSĐGN, chúng tôi đề nghị chế độ ĕn và bài tập theo quan sát hình ảnh video. Trong nghiên cứu này chúng tôi phát hiện 7 TH sau cắt TQTSN KH SNNM hít sặc, trong đó có 3 TH hít sặc thầm lặng. Khám lâm sàng của 7 TH này đều bình thường. Hít sặc thầm lặng là dạng lâm sàng đặc biệt, bệnh nhân không có triệu chứng ho khi hít sặc, chỉ phát hiện dấu hiệu này trên nội soi đánh giá nuốt hoặc x quang đánh giá nuốt. Hít sặc thầm lặng có thể gây hậu quả viêm phổi hít nếu không phát hiện kịp thời. Viêm phổi sau cắt TQMP chia làm hai nhóm: Sớm và muộn. Nhóm viêm phổi muộn xuất hiện trong thời gian tập nuốt và liên quan đến một số yếu tố trong đó có hít sặc thầm lặng. Do đó NSĐGN giúp giảm tỉ lệ viêm phổi do phát hiện hít sặc thầm lặng. Nội soi đánh giá nuốt không can thiệp làm nhanh quá trình phục hồi chức nĕng, nhưng cung cấp cho thầy thuốc phương tiện quan sát quá trình nuốt một cách trực tiếp, cùng với thử nghiệm các thủ thuật, thầy thuốc sẽ có chẩn đoán chính xác và nhanh. Từ đó đưa ra các chiến lược thích hợp cho quá trình phục hồi và tránh biến chứng viêm phổi. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy NSĐGN giúp giảm tỉ lệ viêm phổi, thời gian đặt ONA và thời gian nằm viện. KẾT LUẬN Nội soi đánh giá nuốt là kỹ thuật an toàn, biến chứng ít và giảm tỉ lệ viêm phổi do hít sĕc khi áp dụng cho nhóm bệnh nhân sau cắt TQBT. Kỹ thuật này có thể phát hiện hít sặc thầm lặng mà khám lâm sàng không phát hiện, nên được áp dụng cho nhóm bệnh nhân cắt TQTSN KH SNNM trước khi ra viện để phát hiện các trường hợp hít sặc thầm lặng. ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 109 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Association American Speech-Language- Hearing. The role of the Speechlanguage pathologist in the performance and interpretation of endoscopic evaluation of swallowing: Technical report. (2005) [cited 2014, 1/1/2014]; Available from: 1. Aviv JE. (2000), “Prospective, randomized outcome study of endoscopy versus modified barium swallow in patients with dysphagia”, Laryngoscope, 110, pp.563 - 574. 2. Deutschmann MW, McDonough A, Dort JC, et al (2013), “Fiber-optic endoscopic evaluation of swallowing (FEES): Predictor of swallowing- related complications in the head and neck cancer population”, Head Neck, 35, pp. 974 - 979. 3. Gaziano Joy E. (2002), "Evaluation and management of oropharyngeal Dysphagia in head and neck cancer". Cancer control: Journal of the Moffitt Cancer Center, 9 (5), pp. 400 - 09. 4. Lazarus C.L. (2000), "Management of swallowing disorders in head and neck cancer patients: optimal patterns of care", Semin Speech Lang, 21 (4), pp. 293 - 309. 5. Lewin J.S., Hutcheson K.A., Barringer D.A., et al. (2008), "Functional analysis of swallowing outcomes after supracricoid partial laryngectomy", Head Neck, 30 (5), pp. 559 - 66. 6. Logemann, J. A., Gibbons, P., Rademaker, A. W. et al. (1994), “Mechanisms of recovery of swallow after upraglottic laryngectomy”, Journal of speech and hearing research, 37(5), pp. 965 - 74. 7. Presutti L. Bergamini G. (2010), "Deglutition and phonatory function recovery following partial laryngeal surgery: speech therapy methods and surgical techniques". ACTA otorhinolaryngologica ita lica, 30 (5), pp. 235 - 58. 8. Schindler A., Favero E., Nudo S., et al. (2006), "Long-term voice and swallowing modifications after supracricoid laryngectomy: objective, subjctive, and self-assessment data", Am J Otolaryngol, 27 (6), pp. 378 - 83. 9. Starmer H.M., Tippett D.C., Webster K.T. (2008), "Effects of laryngeal cancer on voice and swallowing", Otolaryngol Clin North Am, 41 (4), pp. 793 - 818, vii. 10. Warnecke T., Teismann I, Oelenberg S, (2009), “The Safety of Fiberoptic Endoscopic Evaluation of Swallowing in Acute Stroke Patients”, Stroke, 40, pp. 482 - 486. 11. Wellenstein DJ, Joey K. de W, Schutte HW. (2017), “Safety of flexible endoscopic biopsy of the harynx and larynx under topical anesthesia”, Eur Arch Otorhinolaryngol, 274, pp. 3471 - 3476.
File đính kèm:
ky_thuat_noi_soi_danh_gia_nuot_tren_benh_nhan_sau_cat_thanh.pdf

