Kỹ thuật nới rộng mô van bằng màng ngoài tim tự thân trong điều trị hở van hai lá hậu thấp
Mở đầu & Mục tiêu: Đánh giá kết quả dài hạn của kết quả dài hạn của thuật nới rộng mô van bằng màng ngoài tim tự thân trong điều trị hở van hai lá hậu thấp tại Viện Tim Thành phố Hồ Chí Minh
Phương pháp : Hồi cứu hàng loạt các trường hợp lâm sàng từ năm 1992 đến năm 2008 trên các số liệu thu thập được từ 221 bệnh nhân hở van hai lá hậu thấp được phẫu thuật sửa van hai lá áp dụng kỹ thuật nới rộng mô van bằng màng ngoài tim tự thân và khám lại tại Viện Tim thành phố Hồ Chí Minh.
Kết quả: Tỷ lệ bệnh nhân không cần mổ lại 10 năm sau phẫu thuật là 89,1 ± 0,8%. Tỷ lệ sống còn thực tế sau mổ 10 năm là 95,4 ± 0,8%. Tỷ lệ tử vong bệnh viện là 1,2% (2 trường hợp). Trong số 221 trường hợp, có 155 bệnh nhân (77%) không hở van hoặc hở nhẹ, 36 bệnh nhân ( 18%) hở van hai lá trung bình, 11 bệnh nhân (5%) hở van hai lá nặng. Thời gian theo dõi trung bình là 86 ± 2,61 (tháng).
Kết luận: Hở van hai lá hậu thấp được phẫu thuật nới rộng mô van bằng màng ngoài tim tự thân có kết quả tốt, phù hợp ở Việt Nam và các nước đang phát triển. Màng ngoài tim tự thân dùng cho bệnh nhân với độ an toàn cao, ít biến chứng, và bệnh suất cũng như tử suất thấp
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kỹ thuật nới rộng mô van bằng màng ngoài tim tự thân trong điều trị hở van hai lá hậu thấp
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 7 - THÁNG 4/2014 34 KỸ THUẬT NỚI RỘNG MÔ VAN BẰNG MÀNG NGOÀI TIM TỰ THÂN TRONG ĐIỀU TRỊ HỞ VAN HAI LÁ HẬU THẤP Nguyễn Văn Phan* Tóm tắt: Mở đầu & Mục tiêu: Đánh giá kết quả dài hạn của kết quả dài hạn của thuật nới rộng mô van bằng màng ngoài tim tự thân trong điều trị hở van hai lá hậu thấp tại Viện Tim Thành phố Hồ Chí Minh Phương pháp : Hồi cứu hàng loạt các trường hợp lâm sàng từ năm 1992 đến năm 2008 trên các số liệu thu thập được từ 221 bệnh nhân hở van hai lá hậu thấp được phẫu thuật sửa van hai lá áp dụng kỹ thuật nới rộng mô van bằng màng ngoài tim tự thân và khám lại tại Viện Tim thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả: Tỷ lệ bệnh nhân không cần mổ lại 10 năm sau phẫu thuật là 89,1 ± 0,8%. Tỷ lệ sống còn thực tế sau mổ 10 năm là 95,4 ± 0,8%. Tỷ lệ tử vong bệnh viện là 1,2% (2 trường hợp). Trong số 221 trường hợp, có 155 bệnh nhân (77%) không hở van hoặc hở nhẹ, 36 bệnh nhân ( 18%) hở van hai lá trung bình, 11 bệnh nhân (5%) hở van hai lá nặng. Thời gian theo dõi trung bình là 86 ± 2,61 (tháng). Kết luận: Hở van hai lá hậu thấp được phẫu thuật nới rộng mô van bằng màng ngoài tim tự thân có kết quả tốt, phù hợp ở Việt Nam và các nước đang phát triển. Màng ngoài tim tự thân dùng cho bệnh nhân với độ an toàn cao, ít biến chứng, và bệnh suất cũng như tử suất thấp. Từ khóa: Sửa van hai lá, Bệnh hở van hai lá hậu thấp, Màng ngoài tim tự thân. ABSTRACT Background and aim of the study: To present long-term follow-up results of Leaflet Augmentation with Autologus Pericardium for Mitral Valve Repair. Materials and Methods: From 1992 to 2008, 221 patients underwent mitral valve repair by the technique of Leaflet Augmentation with Autologus Pericardium in the Heart Institute of Ho Chi Minh, Vietnam. Valve disease was rheumatic in most cases. Age ranging of patients from 7months to 54 years. Mean follow-up was 86 ± 2,61 months. Results: Anterior leaflet extension (84%) is preferred to posterior leaflet extension (16%). Transverse patch (92%) compared with vertical patch (8%). Non-fatal complication: Bacterial endocarditis (4 cases); Reoperation including: Patch dehiscence (2 cases), Endocarditis (2 cases), Leaflet retraction by patch shrinkage (4 cases), and Calcified pericardial patch (18 cases). 14 young children underwent anterior leaflet extension for the size of ring up to 20 (4 cases), 22 (4 cases), 24 (6 cases). Operative mortality was 1,2% overall. Deaths, often related to cardiac insufficiency. Late survival rate at 10 years was 95,4 ± 0,8%. Freedom from re-operation at 10 years was 89,1 ± 0,8%. The grades of mitral regurgitation at 10 years were 77% absent or mild, 18% moderate, and 5% severe. Conclusions: This study showed excellent mortality and morbidity outcomes with Leaflet Augmentation with Autologus Pericardium for Mitral Valve Repair over a 10-year follow-up, confirming reliablility and durability of this technique for the patients. This showed a good solution for rheumatic MR and young children by safe technique, and increase feasibility of repair for rheumatic valve. Good pericardial preservation helps good longterm result and high surgical expertise as well. * ĐẶT VẤN ĐỀ VÀ MỤC TIÊU Phẫu thuật tim mạch vẫn còn là một thách thức ở các nước đang phát triển. Ứng dụng các phương pháp cải tiến trong chẩn đoán giúp gia tăng số bệnh nhân tim mạch cần được phẫu thuật. Trong số các trường hợp phẫu thuật tim mạch ở người lớn, bệnh mạch vành có tần suất cao, chủ yếu là do hút thuốc lá; mặc dù vậy, đứng hàng đầu vẫn là phẫu thuật bệnh lý van *Viện Tim TPHCM Người chịu trách nhiệm khoa học: TS Nguyễn Văn Phan Ngày nhận bài: 10/04/2014 - Ngày Cho Phép Đăng: 10/05/2014 Phản Biện Khoa học: GS.TS. Đặng Hanh Đệ PGS.TS. Lê Ngọc Thành KỸ THUẬT NỚI RỘNG MÔ VAN BẰNG MÀNG NGOÀI TIM TỰ THÂN TRONG ĐIỀU TRỊ HỞ VAN HAI LÁ 35 tim. Ở vùng thành thị, sự cải thiện kháng sinh điều trị có thể làm giảm tần suất bệnh van tim hậu thấp. Tuy nhiên, ở những vùng nông thôn, bệnh van động mạch chủ và bệnh van hai lá do sốt thấp khớp không điều trị vẫn còn là vấn đề khó khăn. Từ năm 1999 đến 2003, tử vong do bệnh tim mạch ở vùng nông thôn Việt Nam chiếm 32%. Theo một nghiên cứu năm 2003, tỷ lệ người trưởng thành ở thành thị Việt Nam mắc bệnh thấp tim là 14,5%, ở nông thôn bệnh này có tần suất cao hơn, và so với những năm trước đó, tỷ lệ bệnh này cũng cao hơn. Ở Việt Nam, phẫu thuật tim mạch điều trị các biến chứng do sốt thấp tim có một lịch sử kéo dài, khởi đầu từ năm 1958 do chiến tranh và quá trình tái thiết sau đó. Trong những năm gần đây, số trung tâm tim mạch ở Việt Nam gia tăng, giải quyết được nhiều hơn cho việc mổ tim ở một quốc gia với khoảng 83 triệu dân. Tuy nhiên, hầu hết các trung tâm này ở thành thị, và khoảng cách di chuyển còn xa, lên đến 250km. Trong bệnh lý hở van hai lá hậu thấp, 75% trường hợp có thể sửađchữa được. Co rút nặng mô van trong hở van hai lá hậu thấp chiếm 10-15%. Đối với trẻ nhỏ hở van hai lá cũng cần nới rộng mô van để đặt được vòng van lớn hơn. Vì vậy, giải pháp là nới rộng mô van bằng màng ngoài tim tự thân, giúp bảo tồn chức năng của tim, nâng cao chất lượng cuộc sống bệnh nhân, và không lệ thuộc thuốc kháng đông sau mổ, dễ thiết lập việc theo dõi điều trị tại địa phương. Giải phẫu bệnh van hai lá: Bình thường: T1T2 > AP Bệnh lý: T1P = T2P ( dãn vòng van đồng tâm) T1P > hoặc < T2P (biến dạng vòng van) (Van hai lá: T1T2: đường kính trước sau, AP: đường kính ngang). AP1: đường kính trước sau lá trước AP2: đường kính trước sau vòng van Van hai lá co rút nặng khi lá trước : AP1< 26 mm ( ở người lớn ), và lá sau P1P2 < 10 mm. Tuổi bệnh nhân mổ thực tế trẻ hơn tuổi mổ ở các nước công nghiệp và phương tây. Trong nghiên cứu này, tuổi thấp nhất là 7 tháng tuổi, lớn nhất là 54 tuổi. Ở thành phố Hồ Chí Minh, chương trình mổ tim đầu tiên được thiết lập năm 1992 với sự giúp đỡ của Giáo sư Alain Carpentier, tạo điều kiện cho việc phẫu thuật nhiều bệnh lý tim mạch bẩm sinh và mắc phải, nổi bật là phương pháp nới rộng mô van hai lá bằng màng ngoài tim tự thân. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu: Hồi cứu hàng loạt các trường hợp lâm sàng. Đối tượng nghiên cứu Dân số nghiên cứu: Các bệnh nhân được phẫu thuaät nới rộng mô van bằng màng ngoài tim tự thân trong điều trị hở van hai lá hậu thấp và khám lại từ năm 1992 đến năm 2008. Dân số chọn mẫu: Những bệnh nhân được áp dụng kỹ thuật nới rộng mô van bằng màng ngoài tim tự thân trong điều trị hở van hai lá hậu thấp. Tiêu chuẩn loại trừ: • Các trường hợp được sửa van tim không phải kỹ thuật nới rộng mô van bằng màng ngoài tim tự thân. • Thay van hai lá hoặc kết hợp với phẫu thuật các bệnh lý tim mạch khác. PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 7 - THÁNG 4/2014 36 Phương pháp thu thập và xử lý số liệu Thời gian Bắt đầu nghiên cứu từ 1992 đã kết thúc vào 2008 Cỡ mẫu thu thập được 221 bệnh nhân. Địa điểm: Tại Viện Tim thành phố Hồ Chí Minh. Phương pháp tiến hành Cách lấy mảnh vá màng ngoài tim: Bóc tách mô xơ, làm sạch mảnh vá. Ngâm mảnh vá 8 phút trong dung dịch đệm Glutaraldehyt 0,62%. Rửa sạch mảnh vá 3 lần bằng dung dịch NaCl 0,9%. Phương pháp mổ: mở ngực theo đường giữa, mở màng ngoài tim, mở Nhĩ trái tiếp cận thương tổn. Sử dụng hệ thống tuần hoàn ngoài cơ thể kèm hạ thân nhiệt. Tim ngưng đập dưới tác dụng của dung dịch liệt tim dạng tinh thể. Phân tích thương tổn hở van hai lá. Nới rộng mô van bằng màng ngoài tim tự thân đã được xử lý. Tùy trường hợp, chọn mảnh vá dọc hay ngang cho lá trước hoặc lá sau. Hình: Kỹ thuật nới rộng mô van hai lá (mảnh vá dọc, vá ngang ở lá trước hoặc lá sau) Chọn kích thước vòng van dựa vào lá trước sau khi sửa chữa trên mô van. Hình: Vòng van nhân tạo Kiểm tra không còn dòng hở bằng cách bơm dung dịch Nacl 0,9% vào thất trái. Đuổi khí trong các buồng tim, tim đập lại, điều chỉnh huyết động về bình thường. Ngưng máy tuần hoàn ngoài cơ thể. Sau phẫu thuật, bệnh nhân được chăm sóc tiếp tục ở khoa hồi sức. Theo dõi sau mổ: Bệnh nhân được theo dõi định kỳ mỗi năm, có thể khám bệnh ngoại trú hoặc tái khám tại địa phương. Một số trường hợp cần thiết, ngoài khám lâm sàng, nên thực hiện các xét nghiệm như X-quang tim phổi, siêu âm tim theo dõi. Ngay thời điểm tái khám, cần thực hiện việc phân loại các biến cố và tử vong sau phẫu thuật dựa vào các tài liệu chuẩn ( guidelines ). Phân tích thống kê: Phần mềm thống kê SAS 9.1 của Mỹ. Các dữ liệu được tính trung bình ± độ lệch chuẩn. Không phân tích so sánh, vì không thuộc phạm vi của nghiên cứu này. KẾT QUẢ Đặc điểm đối tượng nghiên cứu Tuổi mổ lớn nhất là 54 tuổi, thấp nhất là 7 tháng tuổi. Nhóm trẻ nhỏ dưới 4 tuổi có 14 trường hợp cần nới rộng mô van. Nguyên nhân của bệnh van tim là thấp tim. Nới rộng lá van trước chiếm 84%, lá van sau chiếm 16%. Tỷ lệ mảnh vá ngang là 92%, mảnh vá dọc là 8%. Tỷ lệ tử vong bệnh viện là 1,2% (có 2 trường hợp). KỸ THUẬT NỚI RỘNG MÔ VAN BẰNG MÀNG NGOÀI TIM TỰ THÂN TRONG ĐIỀU TRỊ HỞ VAN HAI LÁ 37 Tuổi Kích thước vòng van nhân tạo 20 22 24 26 28 30 32 34 7 Tháng 1 10 Tháng 1 1 Tuổi 1 15 Tháng 1 1 2 Tuổi 1 3 Tuổi 2 2 4 Tuổi 4 6 - 10 3 8 2 2 11 - 15 1 16 21 24 1 > 15 4 31 68 26 Kết quả dài hạn: Số trường hợp thực tế được theo dõi dài hạn là 202 bệnh nhân. Thời gian theo dõi trung bình là 86 ± 2,61 tháng. Tỷ lệ bệnh nhân không cần mổ lại sau mổ 10 năm là 89,1 ± 0,8%. Tyû leä soáng coøn thöïc teá sau moå 10 naêm laø 95,4±0,8%. Đánh giá mức độ hở van hai lá sau mổ: 77% bệnh nhân không hở van hoặc hở van nhẹ, hở van hai lá trung bình chiếm 18% ( 36 bệnh nhân), 5% hở van hai lá nặng ( 11 bệnh nhân). BÀN LUẬN Ở các nước phương tây, nguyên nhân của bệnh van tim ở những quốc qia này đa phần là do thoái hóa hoặc viêm nội tâm mạc nhiễm trùng. Ngược lại, hiếm gặp bệnh van tim hậu thấp nhờ được sử dụng kháng sinh đầy đủ trong các bệnh nhiễm trùng. Ở Việt Nam, bệnh van tim hậu thấp vẫn là bệnh lý thường gặp. Lá van dầy và co rút là thương tổn thường gặp, cần phải nới rộng mô van. Hơn nữa, ở trẻ em khi sửa van hai lá cần phải dùng mảnh vá màng ngoài tim để đặt được vòng van lớn hơn. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tuổi mổ thấp nhất là 7 tháng tuổi, lớn nhất 54 tuổi. Nhóm trẻ nhỏ hơn 4 tuổi có 14 trường hợp. Sửa van hai lá nới rộng mô van là hợp lý đối với hở van hai lá hậu thấp, đặc biệt không cần duy trì thuốc kháng đông sau mổ. Tuy nhiên, sau 10 năm theo dõi, 89,1±0,8% bệnh nhân không cần mổ lại. Tỷ lệ sống còn thực tế sau 10 năm là 95,4±0,8%. Mảnh vá dọc được sử dụng khi chiều cao lá van không đủ. Ngược lại, đặt mảnh vá ngang khi mô lá van bị thiếu theo chiều ngang. Có thể nới rộng lá trước hay lá sau tùy vào tổn thương. Tuy nhiên, chuyển động lá van chủ yếu do lá trước, nên việc nới rộng lá trước thực sự hợp lý hơn. Ở trẻ nhỏ bị hở van hai lá, việc sửa chữa lá van cần đặt vòng van lớn hơn, vì vậy, nới rộng mô van trong trường hợp này giúp gia tăng kích thước vòng van cho bệnh nhân. Các biến chứng của mảnh vá màng ngoài tim tự thân: co rút, vôi hóa, nhiễm trùng, hoặc bị căng. Để tránh các biến chứng này, phải lấy mảnh vá tự thân theo các tiêu chuẩn sau: - Ở đâu? Vị trí lấy mảnh vá tốt nhất là ở giữa xương ức. - Khi nào? Khi vừa mở ngực - Xử lý mảnh vá như thế nào? Bóc tách mô xơ, làm sạch mảnh vá. Ngâm mảnh vá 8 phút trong dung dịch đệm Glutaraldehyt 0,62%. Rửa sạch mảnh vá 3 lần bằng dung dịch Nacl 0,9%. PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 7 - THÁNG 4/2014 38 Biến chứng không gây tử vong bao gồm: viêm nội tâm mạc nhiễm trùng (4 trường hợp); các trường hợp phải mổ lại do sút mảnh vá (2 trường hợp), do viêm nội tâm mạc nhiễm trùng (2 trường hợp), co rút lá van do mảnh vá co lại (4 trường hợp); mảnh vá màng ngoài tim bị vôi hóa (18 trường hợp). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy việc nới rộng mô van hai lá bằng màng ngoài tim tự thân hiện tại thật sự an toàn và hiệu quả trong điều kiện của Việt Nam. KẾT LUẬN Kỹ thuật nới rộng mô van bằng màng ngoài tim tự thân thực sự là giải pháp tốt đối với phẫu thuật sửa chữa hở van hai lá hậu thấp và bệnh van ở trẻ em. Mảnh vá an toàn cho bệnh nhân, giúp gia tăng tỷ lệ sửa chữa van hai lá hậu thấp. Tuân thủ tốt cách lấy và bảo quản mảnh vá sẽ giúp kết quả lâu dài tốt hơn. Quan trọng là sự thành thạo phẫu thuật đối với từng loại tổn thương van tim để phân tích, quyết định phương pháp mổ cho bệnh nhân. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Spencer FC, Colvin SB, Culliford AT, et al : Experiences with the Carpentier techniques of mitral valve reconstruction in 103 patients (1980 – 1985 ) J Thorac Cardiovasc Surg 90 (3) 341 – 350, 1985. 2. Minh HV. Dịch tễ học bệnh tim mạch ở miền quê của Việt Nam. Luận văn y khoa, Đại học Umea, Thụy Điển, 2006. 3. Minh Hoa TT, Darmawan J, Chen SL, Van Hung N, Thi Nhi C, Ngoc An T. Tần suất bệnh thấp ở miền quê của Việt Nam: Một nghiên cứu WHO- ILAR-COPCORD. J Reumatol 2003; 30: 2252- 2256. 4. Lee R, Li S, Rankin JS, O’Brien SM, Gammie JS, Peterson ED, McCarthy PM, Edwards FH; Society of Thoracic Surgeons Adult Cardiac Surgical Database. Ann Thorac Surg 2011; 91: 677 – 684. 5. Edmunds LH, Clark RE, Cohn LH, Grunkemeier GL, Miller DC, Weisel RD. Guidelines for reporting morbidity and mortality after cardiac valvular operations. Ann Thorac Surg 1996; 62: 932 – 935. 6. Nguyen SH, Engberding R, Kneissl GD, Urban R. Gesundheitswesen in Vietnam: Fortschritt durch Austausch. Dtsch Artztebl 2011; 108: A- 2764. 7. Alain Carpentier: La valvuloplastie reconstructive – une nouvelle technique du valvuloplastie mitrale, Press Med 77(7): 251- 253, Feb 1969. 8. Carpentier A: Cardiac valve surgery – The “ French correction “ J Thorac Cardiovasc Surg 86 (3): 323 – 337, 1983. 9. Carpentier A, Lessana A, Relland JY, et al. : the “ physio ring “ : an advanced concept in mitral valve annuloplastie. Ann Thorac Surg 60 (5): 1177 – 1186, 1995. 10. Carpentier A, Deloche A, Dauptain J, et al : A new reconstructive operation for correction of mitral insufficiency. J Thorac Cardiovasc Surg 61 (1) : 1-13, 1971.
File đính kèm:
ky_thuat_noi_rong_mo_van_bang_mang_ngoai_tim_tu_than_trong_d.pdf

