Kinh nghiệm quốc tế về xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp

Việt Nam là một nước đang phát triển, do đó, việc nghiên cứu, học tập kinh nghiệm trong xây

dựng hệ sinh thái khởi nghiệp, khuyến khích sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp khởi

nghiệp nói chung, doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo nói riêng rất cần thiết; có tác

động quan trọng đến sự hình thành và phát triển của khu vực doanh nghiệp khởi nghiệp nói riêng

cũng như sự phát triển của nền kinh tế. Bài viết đề cập tới hệ sinh thái khởi nghiệp và kinh nghiệm

xây dựng, phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp ở một số quốc gia, từ đó rút ra một số bài học kinh

nghiệm xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp ở Việt Nam

pdf 4 trang phuongnguyen 240
Bạn đang xem tài liệu "Kinh nghiệm quốc tế về xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kinh nghiệm quốc tế về xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp

Kinh nghiệm quốc tế về xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp
TÀI CHÍNH - Tháng 4/2018
25
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) định 
nghĩa hệ sinh thái khởi nghiệp là “tổng hợp các mối 
liên kết chính thức và phi chính thức giữa các chủ 
thể khởi nghiệp (tiềm năng hoặc hiện tại), tổ chức 
khởi nghiệp (công ty, nhà đầu tư mạo hiểm, nhà đầu 
tư “thiên thần”, hệ thống ngân hàng) các cơ quan 
liên quan (trường đại học, các cơ quan nhà nước, 
các quỹ đầu tư công) và tiến trình khởi nghiệp (tỷ 
lệ thành lập doanh nghiệp (DN), số lượng DN có tỷ 
lệ tăng trưởng tốt, số lượng các nhà khởi nghiệp) 
tác động trực tiếp đến môi trường khởi nghiệp tại 
địa phương”. 
Tại Việt Nam, định nghĩa khởi nghiệp sáng tạo 
là có các ý tưởng trên cơ sở khai thác tài sản trí tuệ, 
công nghệ, mô hình kinh doanh mới và có khả năng 
tăng trưởng nhanh. Như vậy, có thể khái quát hệ 
sinh thái khởi nghiệp là cách thức một quốc gia hay 
một vùng lãnh thổ thiết lập các tác nhân kinh doanh 
(như các công ty, các nhà đầu tư mạo hiểm, các thiên 
thần đầu tư, các ngân hàng, trường đại học, các 
cơ quan thuộc khu vực nhà nước, các thực thể tài 
chính) kết nối với nhau để thúc đẩy hoạt động khởi 
nghiệp tại quốc gia hoặc địa phương đó. 
Theo các nhà nghiên cứu, sự phát triển của hệ 
sinh thái khởi nghiệp lần lượt thể hiện qua các cấp 
độ sau: (i) Hệ sinh thái sơ khai; (ii) Hệ sinh thái nền 
tảng; (iii) Hệ sinh thái đang phát triển; (iv) Hệ sinh 
thái cơ bản hoàn thiện; (v) Hệ sinh thái hiệu năng 
cao; (vi) Hệ sinh thái phát triển mạnh mẽ; (vii) Hệ 
sinh thái tiên phong. 
Theo Isenberg (2010) và Diễn đàn Kinh tế Thế 
giới (WEF), một hệ sinh thái khởi nghiệp bao gồm 
09 thành phần sau: (i) Chính sách của chính phủ; (ii) 
một số vấn đề về hệ sinh thái khởi nghiệp
Khái niệm hệ sinh thái khởi nghiệp được đề cập 
rộng rãi vào những năm đầu của thế kỷ XXI. Thực 
chất, khái niệm này đã xuất hiện từ những năm cuối 
của thập kỷ 1950 tại Mỹ, khi Thung lũng Santa Clara 
(tiền thân của Thung lũng Silicon) được hình thành 
và phát triển nhanh chóng. Trên cơ sở sự ra đời 
của mô hình tổ chức kinh doanh dựa trên sự phát 
triển gắn với vùng địa lý, khái niệm hệ sinh thái 
khởi nghiệp đã được đưa ra và trở thành một thuật 
ngữ được đề cập ngày càng rộng rãi trên thế giới. 
KINH NGHIệM QuốC TẾ 
VỀ XâY DựNG Hệ sINH THáI KHởI NGHIệP
TrịNH ĐứC CHIỀu - Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương *
Việt Nam là một nước đang phát triển, do đó, việc nghiên cứu, học tập kinh nghiệm trong xây 
dựng hệ sinh thái khởi nghiệp, khuyến khích sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp khởi 
nghiệp nói chung, doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo nói riêng rất cần thiết; có tác 
động quan trọng đến sự hình thành và phát triển của khu vực doanh nghiệp khởi nghiệp nói riêng 
cũng như sự phát triển của nền kinh tế. Bài viết đề cập tới hệ sinh thái khởi nghiệp và kinh nghiệm 
xây dựng, phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp ở một số quốc gia, từ đó rút ra một số bài học kinh 
nghiệm xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp ở Việt Nam.
Từ khóa: Doanh nghiệp nhỏ và vừa, khởi nghiệp, sáng tạo, sản xuất, kinh doanh, start-up
Vietnam is an emerging country, so doing 
research and learning experience in building 
startup ecosystem for businesses and SMEs 
innovative startups are essential which have 
significant impacts on the establishment and 
development of startups and of the economy 
in general. The paper mentions startup 
ecosystem and experience in building and 
developing startup ecosystem in some 
countries, and then recommends the lessons 
to Vietnam.
Keywords: SMEs, startup, innovation, production, business
Ngày nhận bài: 13/3/2018
Ngày hoàn thiện biên tập: 29/3/2018 
Ngày duyệt đăng: 5/4/2018
*Email: tdchieu76@gmail.com 
26
chính sách tài chính với doanh nghiệp khởi nghiệp ở việt nam
Israel). Vì vậy, khuyến khích khu vực tư 
nhân tham gia là một yếu tố quan trọng đảm 
bảo cho sự hình thành và phát triển thành 
công của một hệ sinh thái khởi nghiệp.
Thứ hai, đối với các nhà cung cấp nguồn 
lực khởi nghiệp: Các nhà tổ chức trong hệ sinh 
thái sẽ là những người cung cấp các nguồn lực 
cơ bản cho các DN khởi nghiệp. Các nhà tổ 
chức ở đây bao gồm các nhà cung cấp tài chính 
như ngân hàng, các nhóm đầu tư “thiên thần”, 
các công ty đầu tư mạo hiểm và cả các nhà 
cung cấp dịch vụ.
 Vai trò của khu vực công (nhà nước) là cần 
tích cực, trực tiếp và gián tiếp tham gia vào 
việc tạo ra các nguồn vốn mới, bao gồm việc thành 
lập các quỹ đầu tư mạo hiểm khu vực, có thể có sự 
góp vốn từ cả khu vực công lẫn khu vực tư nhân và 
dưới sự quản lý của khu vực tư nhân; khuyến khích 
hoạt động đầu tư “thiên thần”.
Mặc dù vốn đầu tư mạo hiểm, đầu tư “thiên 
thần” rất quan trọng đối với hệ sinh thái khởi 
nghiệp, song thực tế cho thấy, rất ít các DN khởi 
nghiệp sử dụng hình thức tài chính này. Do đó, 
cần có chính sách khuyến khích các hình thức cấp 
vốn, hợp tác khác như kết nối các DN khởi nghiệp 
định hướng tăng trưởng với các nguồn vốn thông 
thường như các khoản vay ngân hàng hoặc hình 
thức tài chính mới hơn như tài trợ đám đông, cho 
vay lẫn nhau và cung cấp tài chính dựa trên hóa 
đơn, hoặc tạo cơ hội tiếp cận các thị trường chứng 
khoán. Bên cạnh đó, sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa 
các nhà hoạch định chính sách và các công ty lớn 
cũng sẽ góp phần phát triển và thúc đẩy quá trình 
ươm tạo khởi nghiệp trong hệ sinh thái.
Thứ ba, đối với các nhà kết nối khởi nghiệp trong 
hệ sinh thái (hiệp hội chuyên nghiệp, câu lạc bộ khởi 
nghiệp và các cộng đồng DN khởi nghiệp, các trung 
tâm DN, dịch vụ cầu nối nhà đầu tư - người tiếp 
nhận đầu tư, môi giới kinh doanh): Các chính sách 
quan trọng nhất đối với nhóm tác nhân này là kết 
nối các chủ thể khởi nghiệp khác thông qua việc 
hình thành các cộng đồng thực hành hoặc các mạng 
lưới khởi nghiệp. Ở đây có thể là tổ chức mạng 
lưới chuyên nghiệp, các câu lạc bộ doanh nhân, các 
nhóm ủng hộ vốn đầu tư mạo hiểm, các hội nghề 
nghiệp, các cộng đồng hải ngoại. Họ có thể là các 
tổ chức chính thức vận hành các quy tắc, quy định 
và tiêu chí thành viên khác nhau. Ví dụ tiêu biểu 
về mạng lưới kết nối khởi nghiệp có thể kể đến là 
Connect (có trụ sở tại San Diego, Mỹ) một trong 
những tổ chức thành công nhất trên thế giới trong 
việc liên kết các nhà phát minh và nhà khởi nghiệp 
Khung luật pháp và cơ sở hạ tầng; (iii) Nguồn vốn, 
tài chính; (iv) Văn hóa; (v) Các nhà tư vấn, cố vấn, 
hệ thống hỗ trợ; (vi) Các trường đại học đóng vai trò 
xúc tác; (vii) Giáo dục và đào tạo; (viii) Nguồn nhân 
lực; (ix) Các thị trường trong nước và quốc tế. 
nghiên cứu quốc tế 
về xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp
Dựa trên đặc điểm của các thành phần của hệ 
sinh thái khởi nghiệp, chính sách phát triển hệ 
sinh thái khởi nghiệp thường chia theo 4 nhóm 
mục tiêu chính (Mason và Brown, 2014), gồm: (i) 
Chủ thể thực hiện khởi nghiệp trong hệ sinh thái; 
(ii) Các nhà cung cấp nguồn lực khởi nghiệp trong 
hệ sinh thái; (iii) Các nhà kết nối khởi nghiệp trong 
hệ sinh thái; (iv) Định hướng khởi nghiệp trong 
hệ sinh thái. Căn cứ trên 04 nhóm mục tiêu, chính 
sách hỗ trợ, phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp cụ 
thể được áp dụng như sau:
Thứ nhất, đối với các chủ thể tiến hành khởi 
nghiệp trong hệ sinh thái: Hầu như mọi quốc gia 
đều tiến hành một loạt chính sách DN để thúc đẩy 
sự hình thành và phát triển các dự án mạo hiểm kinh 
doanh mới. Các hình thức hỗ trợ chủ yếu thường là 
cung cấp thông tin và tư vấn cho các doanh nhân 
mới. Những chính sách này có đặc trưng là không 
phân biệt các loại khởi nghiệp mục tiêu. Các cách 
tiếp cận chính bao gồm: (i) Hỗ trợ cho các doanh 
nhân trong thời gian tiền khởi sự và các giai đoạn 
đầu khởi nghiệp thông qua sự hỗ trợ chuyên sâu và 
tư vấn; (ii) Hỗ trợ cho các DN khởi nghiệp thông 
qua ươm tạo DN, cung cấp mặt bằng kinh doanh, 
tư vấn, cơ hội kết nối mạng lưới và tài chính (Miller 
và Bound, 2011).
Các tổ chức thúc đẩy kinh doanh được dẫn dắt 
bởi khu vực tư nhân cũng được thành lập để giúp 
nuôi dưỡng các dự án mạo hiểm còn non nớt (ví 
dụ như: Blueseed, Y Combinator, 500 Start-Up ở 
Silicon; Techstars ở Boston, DreamIt Ventures ở 
Bảng 1: hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo việt nam 2016, 2017
Các tác nhân trong hệ sinh thái khởi nghiệp 2016 2017
Các tổ chức hỗ trợ kinh doanh 6 6
Các quỹ/nhà đầu tư giai đoạn sơ khởi 22 22
Các quỹ/nhà đầu tư giai đoạn series A, B 25 27
Các nhà đầu tư khác (công ty) 14 14
Các quỹ/vườn ươm của Chính phủ 4 4
Các khu làm việc chung 13 14
Các sự kiện start-up lớn 13 13
Các cộng đồng, đầu mối truyền thông start-up 9 9
Nguồn: “2017 Startup Deal Vietnam”, Topica Founder Institute, 2/2018
TÀI CHÍNH - Tháng 4/2018
27
với các nguồn lực cần thiết để thương mại hóa các 
sản phẩm đổi mới sáng tạo. Ở châu Á, có thể kể đến 
trung tâm D Camp do Banks Foundation for Young 
Entrepreneurs tại Seoul (Hàn Quốc). 
Thứ tư, đối với định hướng khởi nghiệp trong 
các hệ sinh thái: Thực tiễn từ nhiều quốc gia cho 
thấy, để thành công, yếu tố định hướng khởi 
nghiệp trong hệ sinh thái khởi nghiệp cần đảm 
bảo: (i) Phải có một “nền văn hóa” chấp nhận 
rủi ro và thất bại, sẵn sàng đấu tranh vì sự khởi 
nghiệp thành công của các cá nhân và DN như 
những hình mẫu tiêu biểu để khuyến khích và 
thúc đẩy những DN khác; (ii) Có các chương trình 
giáo dục không chỉ giúp thúc đẩy hành vi khởi 
nghiệp mà còn trang bị cho các chủ DN những 
kỹ năng cần thiết để vận hành các công ty phát 
triển bền vững và định hướng tăng trưởng; (iii) 
Chính sách thu hút cộng đồng kiều bào ở nước 
ngoài đầu tư về nước và di cư DN cũng đóng vai 
trò quan trọng; (iv) Tư duy sẵn sàng chấp nhận 
những ý tưởng mới, sáng tạo và nắm lấy thay đổi; 
(v) Chuẩn mực xã hội và cách nhìn nhận tích cực 
đối với tinh thần khởi nghiệp.
Theo Isenberg (2010), mặc dù chính phủ có 
quyền can thiệp trực tiếp đối với việc xây dựng 
và phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp, tuy nhiên 
nhiều ý kiến cho rằng, các chính phủ không nhất 
thiết phải tự thực hiện. Việc trực tiếp thực hiện các 
hoạt động nhằm hỗ trợ, thúc đẩy phát triển hệ sinh 
thái khởi nghiệp nên được giao cho một tổ chức 
mới - một nhà tạo khả năng khởi nghiệp - có năng 
lực và động cơ thúc đẩy để củng cố hệ sinh thái. 
Tổ chức này cần có những đặc điểm cơ bản sau: (i) 
Được ủy quyền thực hiện nhiệm vụ công; (ii) Có 
triển vọng; (iii) Có năng lực về đào tạo; (iv) Có các 
nguồn lực cơ bản theo yêu cầu. Tổ chức này phải 
độc lập, không thuộc sở hữu của bất kỳ một bộ 
phận nào trong cộng đồng; Có khả năng thực hiện 
các thử nghiệm, học hỏi, tái định hướng, mở rộng 
quy mô và hoạt động phái sinh. 
Cuối cùng, để xây dựng và phát triển được 
một hệ thống các hệ sinh thái khởi nghiệp hoạt 
động hiệu quả, cần phải có một hệ thống các tiêu 
chí đo lường làm cơ sở đánh giá mức độ hoạt 
động hiệu quả, từ đó có thể đưa ra những điều 
chỉnh chính sách phù hợp. 
Mặc dù việc xây dựng hệ thống các chỉ số là 
không đơn giản, tuy nhiên việc có được một hệ 
thống các chỉ số đo lường đối với hệ sinh thái 
khởi nghiệp là không thể thiếu. Theo Vogel 
(2013), hệ thống các chỉ số đo lường hệ sinh thái 
khởi nghiệp chia theo ba cấp độ: Cá nhân (gồm 
chỉ số văn hóa, chỉ số tài sản cá nhân và chỉ số hài 
lòng trong công việc và cuộc sống), tổ chức (kết 
quả hoạt động của tổ chức) và cộng đồng (gồm 
chỉ số chính sách, thị trường, địa bàn, chỉ số tạo 
việc làm, về cơ sở hạ tầng, chỉ số tính minh bạch, 
hỗ trợ, kết nối, nhân tài, tài trợ vốn, giáo dục, 
chỉ số đổi mới và chỉ số dự án mạo hiểm mới). 
Bên cạnh đó, một số tổ chức cũng đã đưa ra hệ 
thống các chỉ tiêu riêng để đo lường hệ sinh thái 
khởi nghiệp, tiêu biểu như Chương trình thúc 
đẩy khởi nghiệp theo vùng của Viện Công nghệ 
Massachusetts.
tổng quát về hệ sinh thái khởi nghiệp ở việt nam
Hệ sinh thái khởi nghiệp Việt Nam đang ở những 
giai đoạn đầu của cấp độ 3 (hệ sinh thái đang phát 
triển) về văn hóa khởi nghiệp, cũng như về mật độ 
khởi nghiệp và các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp; Cấp 
độ 2 (hệ sinh thái nền tảng) về chính sách nhà nước, 
môi trường pháp lý cũng như về nhân lực cho khởi 
nghiệp. Hiện tại, cơ chế chính sách khuyến khích 
đầu tư cho khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, cơ chế gọi 
vốn cộng đồng của Việt Nam đã và đang dần được 
hoàn thiện. Để hướng dẫn hoạt động đầu tư cho 
doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) khởi nghiệp 
sáng tạo theo quy định tại Luật Hỗ trợ DNNVV, 
ngày 11/3/2018 Chính phủ đã ban hành Nghị định 
số 38/2018/NĐ-CP quy định chi tiết về đầu tư cho 
DNNVV khởi nghiệp sáng tạo. Nghị định này quy 
định cụ thể cách thức hình thành và hoạt động của 
quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo, tạo cơ sở pháp lý 
quan trọng cho việc ra đời của các tổ chức cũng hỗ 
trợ trong hệ sinh thái khởi nghiệp Việt Nam. Ðây là 
tiền đề cơ bản để sự phát triển của thị trường vốn 
cho khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tại Việt Nam trong 
thời gian tới. Theo nghiên cứu của Phòng Thương 
mại và Công nghiệp Việt Nam, các DN khởi nghiệp 
sáng tạo tại Việt Nam thường gặp những vướng 
mắc, hạn chế cơ bản sau:
Thứ nhất, hạn chế về vốn: Các DN khởi nghiệp 
thường được bắt đầu bằng nguồn vốn tự có hạn hẹp 
của các thành viên sáng lập, khả năng vay vốn ngân 
hàng hoặc kêu gọi các quỹ đầu tư thấp.
Thứ hai, hạn chế về cơ sở vật chất, nghiên cứu 
phát triển: Các DN khởi nghiệp thường không có đủ 
điều kiện để trang trải các chi phí phòng thí nghiệm, 
chi phí cho máy móc thiết bị phục vụ nghiên cứu, 
dẫn tới hạn chế trong phát triển ý tưởng, sản phẩm
Thứ ba, hạn chế về kỹ năng quản trị, điều hành 
kinh doanh, xúc tiến, quảng bá phát triển: Các DN 
khởi nghiệp và đặc biệt là các sáng lập viên, nhân 
sự chủ chốt chủ yếu là chuyên ngành kỹ thuật, công 
28
chính sách tài chính với doanh nghiệp khởi nghiệp ở việt nam
địa bàn, không nên theo đuổi việc xây dựng hệ sinh 
thái khởi nghiệp dựa trên việc hình thành các ngành 
công nghiệp mới.
Bốn là, cần thu hút khu vực tư nhân ngay từ khi 
bắt đầu xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp. Các hệ 
sinh thái khởi nghiệp nên để khu vực tư nhân dẫn 
dắt, chính quyền chỉ nên đóng vai trò là người tạo 
điều kiện cho sự hình thành và phát triển, không 
lãnh đạo hoặc kiểm soát.
Năm là, cần ưu tiên cho những DN có tiềm năng 
cao. Các DN thành công cũng cần được quảng bá 
và làm trường hợp điển hình cho những DN khác.
Sáu là, giải quyết những thách thức từ thay đổi 
văn hóa. Thực tế cho thấy, hoạt động khởi nghiệp 
ở một số nơi có thể bị hạn chế bởi một nền văn hóa 
bảo thủ không chấp nhận rủi ro. Để giải quyết vấn 
đề này các giải pháp về truyền thông và giáo dục 
tích cực là rất cần thiết. 
Bảy là, các DN hoạt động trong hệ sinh thái khởi 
nghiệp cần chú ý đến năng lực của mình khi triển 
khai các dự án khởi nghiệp sáng tạo. 
Tám là, hệ sinh thái khởi nghiệp và các chính sách 
hỗ trợ DN trước đó (ví dụ hình thức cụm liên kết 
ngành, vườn ươm DN) có mối quan hệ tương hỗ 
với nhau. Vì vậy, cần có chính sách để khuyến khích 
sự tiếp tục phát triển trong không gian xây dựng 
của hệ sinh thái khởi nghiệp mới. 
Bên cạnh đó, trong quá trình triển khai thực hiện 
các chính sách phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp tại 
Việt Nam cũng cần phải tuân thủ một số điều kiện 
sau: Chính sách nên được phát triển theo hướng toàn 
diện và bao quát tất cả các thành phần của hệ sinh 
thái khởi nghiệp hơn là lựa chọn một cách thận trọng 
một số lĩnh vực đặc biệt quan tâm; Áp dụng cách tiếp 
cận “từ trên xuống” và “từ dưới lên”, phân cấp trách 
nhiệm cho chính quyền các địa phương và vùng trong 
hỗ trợ và phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp. 
Tài liệu tham khảo:
1. VCCI (2017), Báo cáo nghiên cứu cơ chế hỗ trợ DN khởi nghiệp sáng tạo. Kinh 
nghiệm quốc tế - Đề xuất giải pháp cho Việt Nam;
2. Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia (2015). “Xây dựng và phát 
triển hệ sinh thái khởi nghiệp: Vai trò của chính sách chính phủ”;
3. Cohen B. (2006), Sustainable Velley Entrepreneurial Ecosystems, Business 
Strategy and the Environment, vol 15, trang 1-14;
4. Goswami K, Mitchell J. R, và Bhagavatula S. (2018), Accelerator expertise: 
Understanding the intermediary role of accelerators in the development 
of the Bangalore entrepreneurial ecosystem, Strategic Entrepreneurship 
Journal, vol.12, trang 117- 150;
5. Isenberg, D. J. (2010). How to start an Entrepreneurial Revolution”, Harvard 
Business Review số 88(6);
6. Topica Founder Institute (2018), 2017 Startup Deal Vietnam.
nghệ, không có kiến thức đầy đủ về kinh doanh, 
kinh tế và các kỹ năng điều hành, quản lý DN, xúc 
tiến thương mại, quảng bá sản phẩm.
Thứ tư, hạn chế về khả năng đáp ứng các thủ 
tục hành chính cần thiết: Các DN khởi nghiệp 
thường có rất ít các kinh nghiệm trong thực hiện 
các thủ tục hành chính liên quan tới gia nhập thị 
trường (đăng ký kinh doanh, đất đai, giấy phép 
kinh doanh), bảo hộ sở hữu trí tuệ (đăng ký 
bảo hộ các sản phẩm sở hữu trí tuệ), thương mại 
hóa sản phẩm (đăng ký tiêu chuẩn, đáp ứng quy 
chuẩn kỹ thuật), tài chính (tiêu chuẩn kế toán, hóa 
đơn, kê khai thuế, ưu đãi thuế).
Bài học cho việt nam 
Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và 
những khuyến nghị của Isenberg (2010), khi xây 
dựng hệ sinh thái khởi nghiệp, Việt Nam cần tuân 
thủ và đáp những yêu cầu sau:
Một là, cần chú ý đến những đặc thù về thời 
gian cũng như trình độ phát triển của từng vùng, 
địa bàn khi xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp. Cần 
tránh việc mô phỏng hoàn toàn một hệ sinh thái 
khởi nghiệp cụ thể nào trên thế giới vào Việt Nam.
Hai là, tiếp tục cải cách khung pháp lý, cải cách 
hành chính. Chính phủ có vai trò quan trọng trong 
việc tháo gỡ các vướng mắc pháp lý, hạn chế tình 
trạng hành chính quan liêu và các quy định như 
thuế, cấp phép và sự tuân thủ để loại bỏ những 
trở ngại không cần thiết cho các DN khởi nghiệp 
và DNNVV. 
Ba là, xem xét, đánh giá kỹ các yếu tố như sự 
phát triển ngành nghề, năng lực, khả năng hiện tại, 
tiềm năng tăng trưởng của địa phương - nơi dự kiến 
xây dựng và phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp, 
để xác định các mục tiêu cụ thể và giải pháp phù 
hợp. Định hướng phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp 
nên dựa trên thực tiễn phát triển của các ngành tại 
hình 1: sỐ thương vụ đầU tư khởi nghiệp sáng tạo 
và giá tRị đầU tư giai đoạn 2011-2016
Nguồn: “2017 Startup Deal Vietnam”, Topica Founder Institute, 2/2018

File đính kèm:

  • pdfkinh_nghiem_quoc_te_ve_xay_dung_he_sinh_thai_khoi_nghiep.pdf