Kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện dạy kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh dân tộc thiểu số trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng

2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài

Mục tiêu:

Đọc thành tiếng là một kỹ năng cần thiết, kỹ năng công cụ để các em học môn Tiếng Việt. Các biện pháp, giải pháp sau đây nhằm giúp người dạy giải quyết được những khó khăn trong hoạt động dạy đọc cho các em nhất là hoạt động đọc thành tiếng. Đó là giải quyết khó khăn trong việc dành thời gian cho hoạt động đọc trong quỹ thời gian hạn hẹp của 40 phút/ 1 tiết với quá nhiều yêu cầu cần phải đạt được đối với học sinh dân tộc.

 

doc 27 trang phuongnguyen 7940
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện dạy kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh dân tộc thiểu số trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện dạy kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh dân tộc thiểu số trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng

Kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện dạy kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh dân tộc thiểu số trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO KRÔNG ANA
TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐINH TIÊN HOÀNG
 KINH NGHIỆM CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN 
DẠY KỸ NĂNG ĐỌC THÀNH TIẾNG CHO HỌC SINH 
TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐINH TIÊN HOÀNG
Thuộc bộ môn hoặc lĩnh vực: Quản lý
	Họ và tên tác giả: Hồ Thị Mỹ Hạnh
	Chức danh: Hiệu trưởng
	Trình độ chuyên môn cao nhất: Đại học
	Chuyên ngành đào tạo: Giáo dục Tiểu học
Krông Ana, tháng 3 năm 2017
Krông Ana, tháng 1 năm 2013
	I. Phần mở đầu
	1. Lý do chọn đề tài
	Đọc thành tiếng là một kỹ năng thiết yếu trong phân môn tập đọc. Đối với các trường chỉ dạy hoàn toàn học sinh người Kinh thì kỹ năng này hầu như không cần phải chú ý nhiều bởi đây là một kỹ năng hoàn toàn tự nhiên. Học sinh học phân môn Tập đọc ở trường tiểu học khi bắt đầu bước vào lớp Một trong khi các em đã có một số vốn từ ngữ tiếng Việt rất phong phú và khả năng đọc thành tiếng tương đối tốt. Vì thế việc dạy cho các em đọc thành tiếng vô cùng đơn giản.
	Nhưng đối với các em học sinh người dân tộc Êđê thì kỹ năng đọc thành tiếng là một kỹ năng quan trọng mà các cô phải là người vất vả rèn giũa từ lớp Một đến hết bậc Tiểu học.
	Trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng hiện tại có 59,6% học sinh dân tộc thiểu số. Hầu hết học sinh dân tộc thiểu số ở đây là người dân tộc Êđê. Người Êđê ở buôn ÊCăm là dân gốc sống ở cao Nguyên từ lâu đời. Thế hệ ông bà các em nhiều người không biết tiếng Kinh, thế hệ bố mẹ các em biết nói tiếng Kinh nhưng một số không biết đọc, không biết viết. Vì thế, vốn tiếng Việt của các em khi vào lớp Một rất hạn chế.
	Tiếng Việt vừa là môn học cơ bản, vừa là môn học công cụ để học sinh chiếm lĩnh tri thức và kỹ năng của các bộ môn khác trong chương trình giáo dục. Tuy nhiên, do sự chi phối của nhiều yếu tố khác nhau trong quá trình dạy học, chất lượng học tiếng Việt của học sinh dân tộc chưa cao, kéo theo sự hạn chế về phát triển năng lực tư duy, ít nhiều tạo ra bất lợi cho việc đạt đến những chuẩn mực trong mục tiêu giáo dục của bậc học Tiểu học.
	Thực tế nhiều năm làm công tác quản lý ở trường tôi đã rất trăn trở về kỹ năng đọc của học sinh mình. Tất cả các em học sinh người Êđê từ khối lớp Một đến khối lớp Năm đều có kỹ năng đọc hạn chế. Bên cạnh đó, do đòi hỏi của xu hướng, của yêu cầu đa dạng về môn học và các hoạt động trong nhà trường, nên môn Tiếng Việt mặc dù đã được ưu tiên nhưng vẫn không đáp ứng được yêu cầu thích đáng về thời gian để giáo viên dạy và để các em được học.
	Môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học được xác định là môn công cụ. Các em phải học được môn Tiếng Việt thì mới học được các môn học khác. Trong môn Tiếng Việt thì có rất nhiều phân môn các em cần học, cần được trang bị nhưng trong đó, tôi quan tâm trước hết là phân môn Tập đọc. Môn Tập đọc Nhằm trang bị và phát triển cho các em các kỹ năng nghe, nói, sử dụng tiếng Việt. Trên cơ sở những kiến thức cơ bản về đọc, nhằm từng bước giúp học sinh làm chủ được ngôn ngữ tiếng Việt để học tập trong nhà trường và giao tiếp một cách đúng đắn, mạch lạc, tự nhiên, tự tin trong môi trường xã hội thuộc phạm vi hoạt động của lứa tuổi các em. Tập đọc góp phần cùng các môn học khác rèn luyện các thao tác tư duy cơ bản cho học sinh tiểu học, cung cấp những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên, con người... Từ đó bồi dưỡng cho học sinh tình yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp, yêu cái thiện, yêu lẽ phải và sự công bằng. Có ý thức nói đúng, đọc đúng, nghe đúng tiếng Việt. “Đọc” trở thành đòi hỏi đầu tiên của học sinh khi đi học. Đọc là kĩ năng sẽ giúp học sinh phát triển khả năng cảm thụ ngôn ngữ. Chúng giúp học sinh phát hiện và ghi nhớ rất nhiều câu nói, nhiều từ vựng. 
	Trong kỹ năng đọc thì có đọc thành tiếng, đọc thầm, đọc diễn cảm,.. nhưng với học sinh trường mình, điều tôi cần nhất đó là kỹ năng đọc thành tiếng. Bởi lẽ, trong các kỹ năng trên thì kỹ năng đọc thành tiếng là kỹ năng cơ bản nhất đối với các em.
	Rèn kỹ năng đọc thành tiếng đối với một số trường tất nhiên sẽ là không quan trọng bỡi lẽ đa số học sinh đã đọc tốt, có cần chăng thì chỉ quan tâm cho việc rèn học sinh cách cảm thụ văn bản, cách đọc sao cho hay, diễn cảm các văn bản đó nhưng đối với thực tế học sinh trường mình công tác, đây là một vấn đề to lớn mà bản thân tôi thấy cần phải giải quyết, cần có kế hoạch và phương pháp đồng bộ để giúp giáo viên giải quyết bài toán khó, giải quyết một thực tế là học sinh đứng lên đọc bài mà cô và bạn không nghe, không hiểu được văn bản.
	Với học sinh mình, môn Tiếng Việt là môn phải ưu tiên, phân môn tập đọc là phân môn phải ưu tiên, kỹ năng đọc là kỹ năng phải ưu tiên nhưng bản thân tôi chọn một kỹ năng mà tôi thấy quan trọng nhất, cần thiết nhất cho các em đó là kỹ năng Đọc thành tiếng.
	Quan nhiều năm chỉ đạo triển khai đồng bộ các giải pháp, tôi đã rút ra nhiều kinh nghiệm để bổ sung, hoàn thiện dần trong công tác quản lý hoạt động dạy học của mình đặc biệt là hoạt động dạy các kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh. Vì thế, lần này tôi chọn nội dung đọc thành tiếng cho học sinh để làm bài viết trao đổi kinh nghiệm của bản thân với đồng nghiệp với đề tài Kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện dạy kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh dân tộc thiểu số trường TH Đinh Tiên Hoàng.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu: 
Đọc thành tiếng là một kỹ năng cần thiết, kỹ năng công cụ để các em học môn Tiếng Việt. Các biện pháp, giải pháp sau đây nhằm giúp người dạy giải quyết được những khó khăn trong hoạt động dạy đọc cho các em nhất là hoạt động đọc thành tiếng. Đó là giải quyết khó khăn trong việc dành thời gian cho hoạt động đọc trong quỹ thời gian hạn hẹp của 40 phút/ 1 tiết với quá nhiều yêu cầu cần phải đạt được đối với học sinh dân tộc. 
Nhiệm vụ: Nêu được cách thức để người dạy thực hiện nhằm tháo gỡ được những khó khăn vướng mắc cho giáo viên trong hoạt động dạy học, cho việc tăng thời lượng dạy học và các biện pháp đồng bộ khác khuyến khích học sinh thực hiện tốt kỹ năng đọc của mình.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Phương pháp dạy Tiếng Việt, kỹ năng dạy đọc và kỹ năng dạy đọc thành tiếng cho học sinh dân tộc thiểu số.
4. Giới hạn của đề tài
Học sinh trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng các năm học 2014-2015, 2015-2016 và 2016-2017
5. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp tài liệu;
- Phương pháp khái quát hóa các nhận định độc lập;
- Phương pháp điều tra, khảo sát;
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục; 
- Phương pháp nghiên cứu các sản phẩm hoạt động;
- Phương pháp khảo nghiệm, thử nghiệm.
II. Phần nội dung
	1. Cơ sở lý luận 
	“Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của loài người” (Lênin). Luận điểm này không chỉ đơn thuần khẳng định ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp mà là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất và là phương tiện giao tiếp đặc trưng của loài người. Không có ngôn ngữ, xã hội không thể tồn tại. 
	Mục đích dạy tập đọc cho học sinh nói chung và dạy kỹ năng đọc thành tiếng nói riêng trong nhà trường là để cho HS có thể sử dụng ngôn ngữ làm phương tiện sắc bén để giao tiếp, vì vậy phát triển lời nói là nhiệm vụ quan trọng nhất của việc dạy học tiếng trong nhà trường. Tất cả các giờ dạy tiếng Việt, cả dạy đọc, viết, cả nghiên cứu ngữ pháp, từ ngữ... phải đi theo khuynh hướng này. HS phải ý thức được chức năng của ngôn ngữ, nắm vững các phương tiện, kết cấu và quy luật cũng như hoạt động hành chức của nó. HS cần hiểu rõ người ta nói và viết không phải chỉ để cho mình mà cho người khác cho nên ngôn ngữ cần chính xác, rõ ràng, đúng đắn, dễ hiểu. Đồng thời, vì ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp nên phải lấy hoạt động giao tiếp làm phương tiện để dạy và học Tiếng Việt.
Như chúng ta đã biết, ngôn ngữ luôn luôn gắn bó chặt chẽ với tư duy, “Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng” (C. Mác). Ngôn ngữ là phương tiện của nhận thức lôgíc, lí tính. Chính trong các đơn vị và dạng thức ngôn ngữ có sự khái quát hóa, trừu tượng hóa. Tư duy của con người không thể phát triển nếu thiếu ngôn ngữ. Việc chiếm lĩnh ngôn ngữ nhằm tạo ra những tiền đề để phát triển tư duy. Từ đây người ta rút ra những kết luận có tính chất phương pháp: kiến thức, kĩ xảo ngôn ngữ phải được xem xét như là những yếu tố của phát triển tư duy, các hệ thống dạy học tiếng Việt cần bảo đảm mối liên hệ giữa lời nói và tư duy. Phải thường xuyên luyện tập cho HS khả năng diễn đạt tư tưởng của mình bằng những hình thức ngôn ngữ khác nhau. Lời nói cần có nội dung, đó chính là tư duy.
	Dạy tiếng phải dựa trên kinh nghiệm sống và kinh nghiệm lời nói của HS. Những quan sát và ấn tượng sống của trẻ em phải là cơ sở cho bài học tiếng Việt. HS sẽ đi từ việc quan sát tiếng nói trong đời sống của nó, thông qua việc phân tích tổng hợp đến những khái quát hóa, những định nghĩa lí thuyết, những quy tắc và từ đó lại quay về thực tiễn giao tiếp lời nói sống động trong dạng nói và dạng viết. Kết quả là các em tiếp nhận được những mẫu lời nói và quy tắc ngôn ngữ một cách có ý thức. 
Trong Phương pháp dạy học Tiếng Việt có thể tìm thấy các nguyên tắc cơ bản của Lí luận dạy học: nguyên tắc giáo dục và phát triển của dạy học, nguyên tắc vừa sức, nguyên tắc khoa học, nguyên tắc hệ thống, nguyên tắc gắn liền lí thuyết với thực hành, nguyên tắc trực quan, nguyên tắc tiếp cận cá thể và phân hóa trong dạy học... Phương pháp dạy học Tiếng Việt vận dụng những nguyên tắc này theo đặc trưng riêng của mình. Ví dụ nguyên tắc gắn liền lí thuyết và thực hành trong phương pháp dạy học Tiếng Việt đòi hỏi một hoạt động lời nói thường xuyên, biểu hiện ý nghĩ bằng lời nói, viết, cùng với việc thường xuyên vận dụng những hiểu biết lí thuyết trong bài tập. Nhiệm vụ phát triển lời nói đã quy định việc xây dựng chương trình Tiếng Việt mà tất cả các phân môn đều có mục đích phát triển bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. 
	Tiếng Việt là ngôn ngữ quốc gia và là ngôn ngữ chính thức dùng trong nhà trường nên phải xác lập việc dạy tiếng Việt có "quán triệt đặc điểm dân tộc" Việc tính đến đặc điểm dân tộc đòi hỏi coi trọng biện pháp quy nạp, biện pháp trực quan, biện pháp giao tiếp, đặc biệt là biện pháp được nâng lên như một phương pháp "biện pháp đối chiếu” (PGS.Trương Dĩnh). Có thể đối chiếu trên tất cả cấp độ ngôn ngữ: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, phong cách,... theo hướng đối chiếu tương đồng để việc dạy học có hiệu quả.
	Các căn cứ để thực hiện là Công văn 896/BGDĐT-GDTH ngày 13-2-2006 về Hướng dẫn điều chỉnh việc dạy và học cho học sinh tiểu học; Công văn số 9832/ BGDĐT-GDTH ngày 1-9-2006 về Hướng dẫn thực hiện chương trình các môn học lớp 1, 2, 3, 4, 5; Công văn số 1015/SGDĐT-GDTH “Hướng dẫn điều chỉnh nội dung dạy học giáo dục phổ thông cấp tiểu học” 
Kế hoạch triển khai thực hiện Quyết định số 1008/QĐ-TTg củaThủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non và học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số”. ngày 17/8/2016. 
Công văn số 8114/BGDĐT-GDTH về việc nâng cao chất lượng dạy học tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số.
	2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu 
	Dạy học tiếng Việt, trong đó có hoạt động rèn cho học sinh kỹ năng đọc là hoạt động thường xuyên, liên tục trong từng tiết học và được dạy từ lớp Một đến lớp Năm của bậc học tiểu học. Cùng với việc đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới các kỹ năng dạy học đã được tập huấn và triển khai trong nhiều năm nay thì chất lượng học môn Tiếng Việt nói chung và chất lượng đọc thành tiếng của học sinh nói riêng cũng đã có nhiều chuyển biến đáng kể. 
	Nhiều năm nay, học sinh dân tộc thiểu số trong trường không còn hiện tượng lên lớp năm rồi mà còn đánh vần, đọc không ra văn bản nhưng thực tế thì chất lượng đọc ở nhiều em chưa đáp ứng được Chuẩn kiến thức kỹ năng cần đạt.
	Đa số các em đọc còn sai dấu câu( Đây là lỗi phổ biến nhất). Phát âm sai phần vần, đọc sai chữ, ngắt nghỉ không đúng chỗ, đúng nhịp. Các em còn đọc rất chậm và rất nhỏ, đọc không đúng tốc độ, ngắt ngứ dẫn đến việc không diễn đạt được trọn vẹn câu, người nghe khó hiểu. Đọc quá nhỏ cả lớp và cô không nghe được.
	Việc học trong đó đa phần là sinh dân tộc thiêu số đọc thành tiếng chưa đảm bảo yêu cầu là do nhiều nguyên nhân:
	- Tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai của các em. Học tiếng Việt đối với các em sẽ gặp khó khăn gấp đôi so với học sinh người Kinh. Các em lớp Một đến trường với vốn từ vựng tiếng Việt vô cùng hạn hẹp, kiến thức ngữ pháp và kỹ năng giao tiếp tiếng Việt ít ỏi. 
	- Mặc dù cả trường đã tổ chức dạy học 9 buổi/ tuần, mỗi tuần các em có 32 tiết thực học ở lớp nhưng vì đòi hỏi của môi trường, đòi hỏi của xã hội phát triển nên số lượng các môn học cũng nhiều hơn trước đây. Vì thế thời lượng dành cho môn Tiếng Việt không nhiều.
	- Vì không đánh giá đúng yêu cầu và tầm quan trọng của việc đọc thành tiếng trong môn Tiếng Việt nên giáo viên chưa ưu tiên dành nhiều thời gian để tổ chức cho hoạt động này vì thế hiệu quả không cao.
	- Phương pháp và hình thức tổ chức đọc không đa dạng vì thế các em dễ nhàm chán, không tập trung và không chú ý đọc.
- Chưa làm tốt công tác phối hợp với gia đình nên không tận dụng được thời gian ở nhà để các em luyện đọc. Cùng với thực tế thời gian đọc ở lớp là quá ít nên các em không được rèn đọc nhiều vì thế ảnh hưởng đến chất lượng đọc.
Cuối năm học 2014-2015: Chất lượng đọc của học sinh như sau:
Khối lớp
Tổng số học sinh
HS đọc diễn cảm tốt
HS đọc to, rõ, trôi chảy
HS đọc đạt yêu cầu( Đạt Chuẩn KT-KN)
HS đọc còn chậm, nhỏ, sai nhiều
HS chưa đọc được
Khối 1
66
3
4,5%
26
39,4%
26
39,4%
8
12,1%
3
4,5%
Khối 2
78
4
5,1%
28
35,9%
39
50%
5
6,4%
2
2,5%
Khối 3
63
5
7,9%
14
22,2%
37
58,7%
6
9,5%
1
1,6%
Khối 4
66
7
10,6%
25
37,9%
30
45,5%
4
6,0%
Khối 5
66
9
13,6%
20
30,3%
34
51,5%
3
4,5%
Cuối năm học 2015-2016: Chất lượng đọc của học sinh như sau:
Khối lớp
Tổng số học sinh
HS đọc diễn cảm tốt
HS đọc to, rõ, trôi chảy
HS đọc đạt yêu cầu( Đạt Chuẩn KT-KN)
HS đọc còn chậm, nhỏ, sai nhiều
HS chưa đọc được
Khối 1 
50
1
2,0%
22
44,0%
19
38,0%
6
12,0%
2
4,0%
Khối 2
67
6
8,9%
15
22,4%
41
61,2%
4
5,9%
1
1,5%
Khối 3
78
7
8,9%
27
34,6%
40
51,3%
4
5,1%
Khối 4
59
8
13,5%
27
45,8%
21
35,6%
3
5,1%
Khối 5
65
11
16,9%
29
44,6%
23
35,4%
2
3,1%
3. Nội dung và hình thức của giải pháp
	a. Mục tiêu của giải pháp
Các giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn vướng mắc, đưa ra các biện pháp ưu tiên trong việc dạy hoạt động đọc thành tiếng cho học sinh. Các giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao chất lượng đọc.
	b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp.
	1. Tăng thời lượng cho môn Tiếng Việt
	Xác định môn Tiếng Việt là môn học công cụ, tôi đã giao quyền chủ động cho giáo viên và các tổ khối trưởng tự lên thời khóa biểu, lựa chọn môn học và nội dung giáo dục ưu tiên trong các tiết tăng thêm. Trong đó lưu ý ưu tiên thời lượng cho môn Tiếng Việt.
	Trong 3 năm học này, ở học kỳ I khối Một và Hai luôn dành thời lượng tăng thêm cho môn Tiếng Việt 6-8 tiết/tuần. Sang học kỳ II, tùy lớp, tùy thực tế học sinh có thể giảm bớt 2-3 tiết Tiếng Việt để tăng cho môn Toán.
	Ở khối lớp Một và Hai, vì môn học theo quy định ít hơn các lớp trên nên thời lượng để tăng cường cho môn Tiếng Việt nhiều, thuận lợi cho giáo viên và học sinh. 
Việc tăng thời lượng cho môn Tiếng Việt trong năm học 2016-2017 này không áp dụng được cho khối lớp 4 và 5 vì tổng tiết học  ... nhịp, sai dấu câu,...Đọc chưa đạt yêu cầu của Chuẩn kiến thức- kỹ năng về tộc độ và các yêu cầu khác. 
	Như vậy, trước những yêu cầu thiết thực trên, khối lớp Bốn và Năm sẽ tổ chức chuyên đề thiên về lý thuyết, tất nhiên cũng phải có thực hành minh họa. Giáo viên sẽ đưa ra các cách thức giải quyết các vấn đề trên, sau đó thảo luận để thống nhất và thực hiện. Trong quá trình áp dụng thực hiện còn phải điều chỉnh bổ sung để tìm ra cách thức hay nhất.
Ví dụ, ở khối lớp Năm hiện nay còn có nhiều em đọc chưa đạt chuẩn, giáo viên chủ nhiệm không thể chỉ dành thời gian cho em luyện mỗi việc đọc thành tiếng bởi còn có rất nhiều nội dung cần giải quyết trong tiết học, còn rất nhiều học sinh khác cần được giúp đỡ. Vì vậy, chuyên đề đưa ra các giải pháp yêu cầu sự vào cuộc của mọi giáo viên. Bất cứ giáo viên nào dạy vào lớp đó cũng phải chú ý các em, cũng phải ưu tiên dành cho các em thời gian được đọc. Phải chú ý rèn cho các em kỹ năng phát âm đúng, đọc to, đọc rõ, đọc đúng tộc độ,... Các giải pháp trên được thảo luận, thống nhất trong chuyên đề và đã thực hiện hiệu quả.
	3. Đổi mới phương pháp và các hình thức dạy học
	Phương pháp dạy học là yếu tố quan trọng quyết định chất lượng dạy học. Giáo viên không có phương pháp dạy học phù hợp thì sẽ không đạt yêu cầu như mong muốn. Vì thế, giáo viên luôn phải đổi mới và lựa chọn phương pháp dạy học pù hợp.
	Đối với từng khối lớp thì hoạt động đọc thành tiếng có đặt trưng riêng. Với học sinh lớp Một, hoạt động đọc là hoạt động chủ đạo, đa số thời gian trên lớp được dành cho các em học để nhận dạng chữ, tiếng, từ, để các em tập đọc. Đến lớp Hai, Ba, các em phải tự đọc nhiều hơn vì thời gian còn cần nhiều cho các hoạt động khác. Lên đến lớp Bốn, Năm, hoạt động rèn kỹ năng đọc chỉ còn gói gọn trong thời gian ngắn ở phân môn Tập đọc, ngoài hoạt động đọc, các em còn phải tìm hiểu văn bản và các nội dung khác cần giải quyết. Vì thế, người giáo viên cần phải linh động, phải tùy thực tế và tùy vào học sinh để dành thời gian tổ chức hoạt động này phù hợp. Không nhất thiết vì một em đọc chưa đạt yêu cầu mà bắt cả lớp phải rèn đọc đi đọc lại một văn bản mà phải dạy theo đối tượng học sinh để đạt kết quả cao nhất.
Việc dạy phân hóa đối tượng học sinh là rất quan trọng. Đối với các em học sinh có khả năng tiếp thu chậm hơn bạn, giáo viên cần quan tâm đúng khả năng để các em được học vừa sức và hiệu quả.
Ví dụ, thay vì bắt một em học sinh lớp Hai ( em này có khả năng tiếp thu chậm, đọc chưa tốt) phải làm hết một bài toán giải, có trình bày lời giải, phép tính, đáp số hoàn chỉnh như các bạn thì cô có thể thay yêu cầu khác. Vì ai đã trải qua giảng dạy cũng biết điều này, với một học sinh lớp Hai mà tiếp thu chậm, đọc chưa tốt thì yêu cầu này là không khả thi. Vì vậy, giáo viên có thể thay yêu cầu cho em đó là phải tập đọc và cố hiểu đề. Giáo viên dành cho em thời gian tự đọc đề bài toán, sau đó giáo viên đến bên nghe em đọc, phải kiên nhẫn nghe em đọc xong đề. Giáo viên chỉ cần hỏi một vài câu theo yêu cầu ví dụ như: Bài toán yêu cầu tìm gì em? Thế em đã đọc đề rồi, đã biết Tổng số cây ăn trái là bao nhiêu không?,...Có thể yêu cầu với em chỉ dừng lại ở đó. Trong tiết học này, dù mục tiêu chính là học Toán nhưng giáo viên cũng đã quan tâm dành cho học sinh thời gian đọc, đã cho học sinh cơ hội được rèn cái mình cần. Và các yêu cầu sẽ dần dần được bổ sung để học sinh thấy việc học không nặng nề, không áp lực. Từ đó các em đến trường thường xuyên hơn. Chất lượng học tập ngày càng cải thiện hơn.
Giáo viên cần linh hoạt trong việc lựa chọn và phối hợp các phương pháp dạy học. Linh hoạt trong việc tổ chức các hình thức cho từng hoạt động cụ thể. Quan trọng là giáo viên phải phân hóa được đối tượng học sinh để có phương pháp dạy phù hợp và hiệu quả.
Ở đây đang nói đến việc đổi mới phù hợp hướng giải quyết cho học sinh được tiếp cận nhiều với văn bản, cho học sinh được rèn đọc thành tiếng nhiều và là tiết dạy chú ý phân loại đối tượng học sinh theo trình độ đọc. 
Và việc đổi mới đó đòi hỏi với tất cả giáo viên dạy ở tất cả các môn chứ không riêng môn Tiếng Việt.	
4. Lồng ghép dạy kỹ năng đọc trong tất cả các môn học và hoạt động giáo dục
	Đây là giải pháp đồng bộ trong trường. Đứng trước thực tế khả năng đọc thành tiếng của học sinh dân tộc và một số ít học sinh người Kinh trong trường, tôi mạnh dạn chỉ đạo tất cả giáo viên tiểu học và các giáo viên bộ môn thực hiện tăng cường dạy đọc cho học sinh.
	Trong tất cả các môn học, hoạt động đọc thành tiếng cho học sinh phải là hoạt động ưu tiên. Giáo viên cần coi trọng việc cho học sinh đọc tốt nội dung trước khi khai thác tìm hiểu bài. Các em sẽ được đọc cá nhân, đọc nhóm, đọc đồng thanh,... các kênh chữ, các đoạn văn bản chứa nội dung cần khai thác trước.
	Ví dụ: Với giáo viên dạy Âm nhạc, khi dạy bài hát Bàn tay mẹ (lớp Hai), giáo viên sẽ ưu tiên hoạt động đọc lời bài hát nhiều hơn bình thường. Thay vì chỉ đọc 2 lần lời bài hát , cô sẽ cho học sinh dân tộc đọc 4-5 lần. Thay vì mỗi lượt là một em đọc bài hát, giáo viên cho học sinh dân tộc thiểu số đọc 1 hoặc 2 câu nối tiếp. Như vậy, sẽ nhiều em được đọc. Các em được đọc thành tiếng nhiều lần, cô phải chú ý theo dõi sửa sai cụ thể nhờ thế kỹ năng đọc được nâng cao hơn, các hoạt động khác có thể ít thời gian hơn.
	Với giáo viên dạy các môn Tin học, Thể dục hay Mỹ thuật, Thủ công cũng tương tự. Tùy vào thực tế bài dạy mà sử dụng thời gian để ưu tiên cho học sinh được đọc cá nhân nhiều hơn. Ví dụ đọc kênh chữ trong phần hướng dẫn thực hành trước khi thực hành trên máy ở môn Tin học, đọc phần giới thiệu, nhận xét ở môn Mỹ thuật hay thậm chí có thể đưa một văn bản ngắn như một hiệu lệnh, một trò chơi để học sinh đọc trước khi thực hiện trong môn Thể dục.
Trong các hoạt động giáo dục khác, giáo viên cũng càn chú ý kỹ năng đọcthành tiếng cho học sinh. Phần thiết kế chương trình bao giờ cũng lưu ý có nội dung cho học sinh đọc. Tạo điều kiện cho các em được giao lưu để phát triển các kỹ năng giao tiếp thông qua hoạt động đọc.
Năm học 2016-2017, trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng là một trong bảy trường tiểu học của huyện Krông Ana được tổ chức Room to Read chọn tổ chức thư viện thân thiện. Thư viện thân thiện được thiết lập và đưa vào hoạt động. Rất nhiều điều thú vị và bổ ích cho học sinh khi tổ chức hoạt động này. Học sinh được đọc nhiều sách, truyện hay, nội dung phong phú trong không gian đẹp. Việc này góp phần kích thích các em muốn đến thư viện. Ngoài ra, mỗi tuần các em sẽ có 01 tiết đọc thư viện. Tiết đọc thư viện có nhiều hình thức đọc đa dạng, từ đó các em cũng được rèn nhiều kỹ năng đọc.
Ngoài các tiết đọc thư viện trong chương trình, nhà trường luôn có nhiều hình thức khuyến khích các em đọc. Học sinh còn được mượn truyện về lớp đọc, về nhà đọc.
	5. Tổ chức thi đọc thành tiếng	
	Đây là hoạt động xuyên suốt trong nhiều năm. Hoạt động này nhằm khuyến khích các em đọc. Vào các tiết sinh hoạt tập thể, tôi chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm lồng ghép vào nội dung thi đọc. Vào tiết Chào cờ đầu tháng, chương trình dành khoảng 15 phút để thi đọc cho từng khối. Từ tháng 10, sẽ tổ chức cho các em học sinh khối Năm. Các em được lựa chọn là học sinh đã được lựa chọn ở các lớp trong các lần sinh hoạt tuần. Rồi lần lượt đến các khối lớp khác. 
Yêu cầu đòi hỏi ở đây không cao. Nội dung đọc diễn cảm không đòi hỏi nhiều. Mà yêu cầu chính là đọc to, rõ cho cả trường cùng nghe. Yêu cầu này giúp các em mạnh dạn, tự tin hơn trước tập thể. Sau mỗi buổi, các em sẽ có những phần quà nhỏ để khuyến khích. Như vậy không chỉ những em đọc hay, đọc diễn cảm tốt mới đọc mà rất nhiều em được đọc trước tập thể.
Đây là kinh nghiệm tôi học hỏi được khi là giáo viên dạy ở trường Tiểu học Trần Phú. Ở đây, hoạt động thi đua đọc được diễn ra hàng tuần trong tiết chào cớ đầu tuần. Hoạt động này rất hay và đã phát hiện, bồi dưỡng được rất nhiều học sinh đọc diễn cảm. 
Đối với trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng, nội dung và thang điểm chấm khác, không đòi hỏi nhiều ở yêu cầu đọc diễn cảm. Bởi mục đích ở đây không chỉ để phát hiện học sinh đọc tốt mà còn là một phong trào thi đua nhẹ nhàng thiết thực để nhiều em được đọc, nhiều em được thể hiện trước đám đông nhằm rèn kỹ năng đọc cho các em và quàn trọng là để các em thấy hoạt động đọc thành tiếng là một việc quan trọng. Từ đó, các em có ý thức tự đọc, tự rèn kỹ năng đọc và bồi dưỡng cho các em tự tin hơn, mạnh dạn hơn trong mọi hoạt động.
	6. Phối hợp với gia đình và khuyến khích học sinh đọc mọi lúc, mọi nơi.
	Một yếu tố không thể tách rời trong việc giáo dục và rèn luyện học sinh đó là gia đình. Thời gian các em ở nhà không ít. Việc đọc thành tiếng ở nhà phải là một hoạt động thường xuyên. Các em ngân nga câu, chữ ở nhà khi nấu cơm, quét nhà giúp mẹ, khi trông em,...cũng là niềm vui cho gia đình và góp một phần to lớn trong việc hình thành và phát triển kỹ năng đọc.
	Vì thế, trong những lần họp cha mẹ học sinh, nhất là lần họp đầu năm, tôi yêu cầu giáo viên chủ nhiệm phải đưa vào nội dung nhắc nhở cha mẹ các em. Giáo viên chủ nhiệm trao đổi riêng với cha mẹ các em có kỹ năng đọc còn hạn chế để hướng dẫn cách giúp đỡ, chỉ bảo các em đọc.
	Với một số cha mẹ không biết tiếng Việt, việc nhắc nhở con em đọc cũng dễ dàng, cha mẹ chỉ cần nhắc thường xuyên và lắng nghe các em đọc, cho các em biết rõ rằng, việc không biết đọc tiếng Việt như mẹ( cha) là vô cùng bất tiện. Và với các con, các con cần luyện đọc nhiều, chăm chỉ đọc để ngày càng đọc đúng, đọc hay.
	Việc phối hợp với gia đình trên thực tế đã có những kết quả nhất định. Cha mẹ quan tâm hơn đến việc học của con. Học sinh lấy việc đọc bài văn, bài thơ cho cha mẹ nghe làm niềm vui nên các em có nhiều hứng thú hơn trong việc luyện đọc.
Ở nhà, các em có thói quen đọc nên cũng quan tâm đến việc người khác đọc. Anh chị lớp trên cũng có thói quen chú ý, rèn đọc và sửa sai cho các em lớp dưới. Việc này được cha mẹ học sinh hoan nghênh. Tạo được dư luận tốt, đồng tình trong phụ huynh.
	c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp.
	Tất cả các biện pháp trên có mối quan hệ rất chặt chẽ, trong đó việc chỉ đạo đồng bộ tăng thời lượng dạy tiếng Việt cho học sinh đã giải quyết được rất nhiều khó khăn cho giáo viên và tạo được nhiều thuận lợi cho học sinh trong học tập môn Tiếng Việt nói chung và thời gian rèn kỹ năng đọc nói riêng.
 Phương pháp dạy học cũng là yêu cầu quan trọng để đạt hiệu quả cao trong tiết dạy. Học sinh được tổ chức học tập một cách hiệu quả, thiết thực. Được có điều kiện rèn luyện nhiều, được tất cả các giáo viên không chỉ là cô thầy chủ nhiệm quan tâm giúp đỡ, động viên và khuyến khích đọc trong mọi điều kiện. Nhà trường có các phong trào thi đua đọc, khuyến khích đọc, có sự phối hợp với gái đình và liên hệ kiểm tra nhắc nhỡ thường xuyên. 
Tất cả những điều đó đã tạo nên một thói quen tốt cho học sinh trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng đó là thói quen Đọc thành tiếng mọi nơi, mọi lúc. Thói quen đọc đúng, đọc hay, đọc đảm bảo tốc độ và yêu cầu.
 Vì thế các biện pháp trên cần được quan tâm và triển khai đồng bộ để kết quả đạt được cao nhất. 
	d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu, phạm vi và hiệu quả ứng dụng.
	Qua thời gian chỉ đạo thực hiện, kỹ năng đọc thành tiếng của học sinh trong toàn trường nâng lên rõ rệt. 
	100% học sinh lớp Năm khi hoàn thành chương trình Tiểu học đã đọc đạt Chuẩn kiến thức- Kỹ năng về yêu cầu đọc. Học sinh lớp Một khi hoàn thành chương trình lớp Một đã nhận diện được chữ và đã đọc được theo yêu cầu. Các khối lớp 2,3 và 4 cũng được kiểm tra đọc thành tiếng khi bàn giao chất lượng và đã đạt yêu cầu. Trường hợp học sinh đọc quá nhỏ như trước đây đã được hạn chế đáng kể, các em mạnh dạn hơn trong việc đọc thành tiếng. Chăm đọc hơn trong các hoạt động đọc từ đó, góp phần nâng cao chất lượng các môn học khác.
	Cuối học kỳ I, năm học 2016-2017, kết quả đọc của học sinh toàn trường qua khảo sát như sau:
Khối lớp
Tổng số học sinh
HS đọc diễn cảm tốt
HS đọc to, rõ, trôi chảy
HS đọc đạt yêu cầu( Đạt Chuẩn KT-KN)
HS đọc còn chậm, nhỏ, sai nhiều
HS chưa đọc được
Khối 1
57
5 
8,7%
22 
25,7%
21
36,8%
8
14,0%
1
1,7%
Khối 2
46
6 
 13,1%
15
32,6%
18
39,1%
7
15,2%
Khối 3
67
10 
14,9%
25
37,3%
26
38,8%
6
8,9%
Khối 4
78
16 
20,5%
27
34,6%
31
39,7%
4
5,1%
Khối 5
59
11 
18,6%
20
33,9%
25
42,4%
3
5,0%
	III. Phần kết luận, kiến nghị
	1. Kết luận 
	Việc đúc kết kinh nghiệm và chỉ đạo toàn trường thực hiện đổi mới và quan tâm đúng mức công việc rèn kỹ năng đọc cho học sinh đã đem lại hiệu quả thiết thực. Cho thấy đây là một việc làm đúng, có trọng tâm, sát hợp với đối tượng học sinh trường mình. 
	Trong năm học này và những năm học tiếp theo, nhà trường sẽ phát huy, sẽ quan tâm đúng mức việc dạy Tiếng Việt, việc dạy Tập đọc và chú trọng nội dung đọc thành tiếng cho học sinh toàn trường đặc biệt là học sinh dân tộc thiểu số. 
Trong thực tế thực hiện, giáo viên sẽ điều chỉnh, bổ sung những phương pháp, hình thức hay, phù hợp. Nhà trường sẽ đổi mới các hình thức có tính thi đua, khen thưởng để khuyến khích các em phát huy khả năng đọc của mình.
	2. Kiến nghị
	2.1. Với giáo viên
	Giáo viên phải coi trọng việc hướng dẫn học sinh đọc thành tiếng. Tránh chủ quan như trước đây để còn những hiện tượng không đọc được khi lên các lớp 3,4 và 5. Thời gian dành cho các em thực hành kỹ năng đọc phải được ưu tiên đúng mức. Phải chú ý nhiều đến học sinh đọc chưa đạt yêu cầu. Tuyệt đối tránh tình trạng đến cuối năm vẫn còn học sinh chưa đáp ứng yêu cầu tối thiểu về đọc.
	Giáo viên chủ nhiệm phải phối hợp với tất cả giáo viên dạy lớp mình và yêu cầu cùng quan tâm đến việc đọc cho học sinh, tạo cơ hội cho các em được đọc mọi lúc mọi nơi.
	2.2. Đối với cha mẹ học sinh
	Cần quan tâm nhắc nhở con em đọc, khuyến khích các em đọc thành tiếng to, rõ khi học bài để các em vừa rèn kỹ năng đọc thành tiếng vừa dễ thuộc bài.
	2.3. Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo
	Duy trì phong trào thi đua đọc diễn cảm trong học sinh.
	Quan tâm hơn nữa đến những trường có đông học sinh dân tộc thiểu số. Tạo điều kiện và có chế dộ ưu tiên cho giáo viên và học sinh dân tộc thiểu số đang chịu nhiều thiệt thòi và khó khăn.
	Trên đây là những kinh nghiệm mà bản thân tôi đã chỉ đạo thực hiện tại trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng. Chắc chắn các biện pháp, giải pháp trên chưa phải là tối ưu. Mong được mọi sự góp ý, tư vấn từ đồng nghiệp và các cấp lãnh đạo để tôi có thêm kinh nghiệm cho bản thân nhằm thực hiện tốt hơn nữa việc chỉ đạo các hoạt động chuyên môn trong nhà trường. Xin chân thành cảm ơn.
	Buôn Trấp, ngày 12 tháng 1 năm 2017 
	Người viết
	Hồ Thị Mỹ Hạnh
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
........................................................................................................................................................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................................................................................................................
	CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
	(Ký tên, đóng dấu)

File đính kèm:

  • dockinh_nghiem_chi_dao_thuc_hien_day_ky_nang_doc_thanh_tieng_ch.doc