Kiều hối và tỷ giá hối đoái: Nghiên cứu thực nghiệm tại các thị trường mới nổi

TÓM TẮT

Đối với một quốc gia mở cửa nền kinh tế,

tỷ giá hối đoái luôn đóng vai trò quan trọng, tỷ

giá tác động đến cả hoạt động thương mại, đầu

tư và rủi ro vĩ mô của các quốc gia này. Có

nhiều yếu tố tác động đến tỷ giá như lạm phát,

lãi suất, cán cân thanh toán quốc tế, trong đó

một trong những yếu tố có vai trò ngày càng

quan trọng trong hơn một thập kỷ qua là dòng

kiều hối khi giá trị của dòng kiều hối ngày càng

lớn, đặc biệt tại các nền kinh tế mới nổi. Nghiên

cứu này sử dụng dữ liệu tại 21 quốc gia có được

xếp vào nhóm nước là thị trường mới nổi trong

giai đoạn 2001 – 2013 để xem xét tác động của

kiều hối đến tỷ giá hối đoái của các quốc gia

này. Thông qua mô hình ước lượng cho dữ liệu

bảng, chúng tôi phát hiện rằng kiều hối làm

tăng giá trị đồng nội tệ, kết quả này không thay

đổi do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính

toàn cầu năm 2008.

pdf 13 trang phuongnguyen 7300
Bạn đang xem tài liệu "Kiều hối và tỷ giá hối đoái: Nghiên cứu thực nghiệm tại các thị trường mới nổi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiều hối và tỷ giá hối đoái: Nghiên cứu thực nghiệm tại các thị trường mới nổi

Kiều hối và tỷ giá hối đoái: Nghiên cứu thực nghiệm tại các thị trường mới nổi
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 19, SỐ Q1 - 2016 
Trang 39 
Kiều hối và tỷ giá hối đoái: Nghiên cứu 
thực nghiệm tại các thị trường mới nổi 
 Nguyễn Phúc Cảnh 
Trường Đại học Kinh tế TP HCM - Email: canhnguyen@ueh.edu.vn 
(Bài nhận ngày 21 tháng 09 năm 2015, hoàn chỉnh sửa chữa ngày 29 tháng 12 năm 2015) 
TÓM TẮT 
Đối với một quốc gia mở cửa nền kinh tế, 
tỷ giá hối đoái luôn đóng vai trò quan trọng, tỷ 
giá tác động đến cả hoạt động thương mại, đầu 
tư và rủi ro vĩ mô của các quốc gia này. Có 
nhiều yếu tố tác động đến tỷ giá như lạm phát, 
lãi suất, cán cân thanh toán quốc tế, trong đó 
một trong những yếu tố có vai trò ngày càng 
quan trọng trong hơn một thập kỷ qua là dòng 
kiều hối khi giá trị của dòng kiều hối ngày càng 
lớn, đặc biệt tại các nền kinh tế mới nổi. Nghiên 
cứu này sử dụng dữ liệu tại 21 quốc gia có được 
xếp vào nhóm nước là thị trường mới nổi trong 
giai đoạn 2001 – 2013 để xem xét tác động của 
kiều hối đến tỷ giá hối đoái của các quốc gia 
này. Thông qua mô hình ước lượng cho dữ liệu 
bảng, chúng tôi phát hiện rằng kiều hối làm 
tăng giá trị đồng nội tệ, kết quả này không thay 
đổi do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính 
toàn cầu năm 2008. 
Từ khóa: kiều hối, tỷ giá hối đoái, khủng hoảng, thị trường mới nổi. 
1. GIỚI THIỆU 
Mặc dù có bị ảnh hưởng nhẹ bởi khủng 
hoảng năm 2008, lượng kiều hối nhận được của 
các quốc gia được xếp vào nhóm thị trường mới 
nổi vẫn gia tăng về giá trị trong hơn 10 năm qua 
(hình 1). Với giá trị kiều hối tăng lên, vai trò của 
dòng tiền này với các quốc gia đang phát triển, 
đặc biệt các quốc gia được xếp vào nhóm các thị 
trường mới nổi cũng ngày càng quan trọng.
Hình 1. Kiều hối nhận đƣợc tại 20 thị trƣờng mới nổi 
Nguồn: Tổng hợp từ dữ liệu của Worldbank 
 -
 20000000,000
 40000000,000
 60000000,000
 80000000,000
2000 2002 2004 2006 2008 2010 2012 2014
Kiều hối (USD/năm) 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No Q1 - 2016 
Trang 40 
Trong khi đó, tăng trưởng GDP thực của các 
quốc gia này tăng lên trong giai đoạn 2001 – 2007 
thì bị ảnh hưởng tương đối mạnh trong giai đoạn 
2008 – 2009, sau đó tiếp tục xu hướng giảm trong 
giai đoạn 2011 – 2013. Điều này cho thấy rằng 
khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 có tác 
động mạnh mẽ đến tăng trưởng kinh tế và các yếu 
tố khác của các nền kinh tế mới nổi (hình 2). 
Trong khi đó, hoạt động thương mại và đặc 
biệt là xuất khẩu được xem là thế mạnh và là 
động cơ tăng trưởng trong những năm gần đây 
của các quốc gia này khi mở cửa nền kinh tế với 
lợi thế về lao động giá rẻ và nguồn tài nguyên dồi 
dào tạo cơ sở để các quốc gia này gia tăng xuất 
khẩu đồng thời cải thiện hoạt động sản xuất nội 
địa để tạo lợi thế cạnh tranh trên thị trường thế 
giới cho hàng hóa sản xuất nội địa. 
Hình 2. Tăng trƣởng GDP thực tại 20 thị trƣờng mới nổi 
Nguồn: Tổng hợp từ dữ liệu của Worldbank 
Tuy nhiên, biến động trong tỷ giá sẽ có tác 
động mạnh đến hoạt động thương mại của các 
quốc gia này, đặc biệt với thực tế đồng tiền của 
các thị trường mới nổi không phải là đồng tiền 
mạnh trên thế giới, cho nên biến động trong các 
dòng vốn hay các yếu tố vĩ mô sẽ có tác động 
mạnh đến thay đổi trong tỷ giá hối đoái và ảnh 
hưởng đến hoạt động thương mại và tăng trưởng 
kinh tế của các quốc gia này. Do đó việc xem 
xét các yếu tố tác động đến sự thay đổi trong tỷ 
giá hối đoái là cần thiết cho các nhà hoạch định 
chính sách, đặc biệt là Ngân hàng trung ương 
trong điều hình chính sách tỷ giá phù hợp. 
Trong khi đó, dòng kiều hối ngoài tác động tích 
cực đến tăng trưởng kinh tế thông qua hiệu ứng 
thu nhập thì dòng vốn này còn có hiệu ứng tiêu 
cực lên nền kinh tế của một quốc gia vì dòng 
vốn này tăng lên làm tăng giá trị đồng nội tệ và 
làm xấu đi cán cân thương mại nên ảnh hưởng 
tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Do đó, nghiên 
cứu này xem xét tác động của kiều hối đến tỷ 
giá hối đoái tại 20 quốc gia1 được xem là thị 
trường mới nổi trong giai đoạn 2001 - 2013. 
Phần tiếp theo trình bày cơ sở lý thuyết và mô 
hình nghiên cứu. 
2. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT 
Rất nhiều nghiên cứu thực nghiệm xem xét 
tác động của kiều hối đến các yếu tố vĩ mô của 
quốc gia như tiêu dùng tư nhân, đầu tư tư nhân, 
sự phát triển của hệ thống tài chính, thể chế, 
tham nhũng, tỷ giá và cả cán cân thương mại 
1 20 quốc gia đang phát triển có nhận kiều hối tại Châu Á 
Thái Bình Dương bao gồm: Bangladesh, Brazil, China, 
Colombia, Egypt, India, Indonesia, Malaysia, Mauritius, 
Mexico, Morocco, Nigeria, Pakistan, Peru, Philippines, 
South Africa, Thailand, Turkey, Ukraine, Vietnam 
-10
-5
0
5
10
15
2000 2002 2004 2006 2008 2010 2012 2014
Tăng trƣởng GDP thực (%/năm) 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 19, SỐ Q1 - 2016 
Trang 41 
(Abdih et al., 2012; Acosta et al., 2009; Adams 
Jr & Cuecuecha, 2010, 2013; Aggarwal et al., 
2011; Beine et al, 2012; Berdiev et al., 2013), 
thông qua tác động của kiều hối lên thu nhập 
hay của cải của hộ gia đình do đó có tác động 
đến tiêu dùng và đầu tư tư nhân (Adams Jr & 
Cuecuecha, 2010; Combes & Ebeke, 2011; 
Fransen & Mazzucato, 2014). Các nghiên cứu 
khác lại xem xét tác động của kiều hối lên chất 
lượng thể chế thông qua tình trạng tham nhũng 
và chất lượng của Chính phủ (Abdih et al., 
2012; Berdiev, Kim & Chang, 2013). Những 
nghiên cứu đó thường tập trung vào xem xét tác 
động của kiều hối lên khả năng giúp các quốc 
gia nhận kiều hối giảm nghèo đói và cải thiện 
chất lượng cuộc sống của người dân (Acosta et 
al., 2008; Adams Jr & Cuecuecha, 2013; Adams 
Jr & Page, 2005; Imai et al, 2014), hay tác động 
giúp phát triển hệ thống tài chính cũng như tiến 
trình mở cửa thị trường tài chính của các quốc 
gia (Aggarwal, Demirgüç-Kunt & Pería, 2011; 
Anzoategui et al., 2014; Beine, Lodigiani & 
Vermeulen, 2012; Chowdhury, 2011; Giuliano 
& Ruiz-Arranz, 2009). 
Tuy vậy, trọng tâm trong các nghiên cứu về 
ảnh hưởng của kiều hối lên các yếu tố vĩ mô là 
khả năng kích thích tăng trưởng kinh tế 
(Catrinescu et al., 2009; Giuliano & Ruiz-
Arranz, 2009; Imai et al., 2014; Jouini, 2015; 
King et al., 1988; Kumar, 2013; Lim & 
Simmons, 2015; Nyamongo et al., 2012; Rao & 
Hassan, 2011; Ziesemer, 2010), thông qua ảnh 
hưởng của kiều hối lên tỷ giá, cán cân thương 
mại, thu nhập, đầu tư, tiêu dùng, trong đó tác 
động của kiều hối đến tỷ giá hối đoái rồi truyền 
dẫn đến cán cân thương mại được quan tâm và 
nghiên cứu tại nhiều khu vực và đi đến lý thuyết 
được gọi tên là “căn bệnh Hà Lan” (Dutch 
disease) (Acosta, Lartey & Mandelman, 2009; 
Amuedo-Dorantes & Pozo, 2004; Bourdet & 
Falck, 2006). 
Tác động của kiều hối đến giá trị đồng nội tệ 
thông qua biến tỷ giá hối đoái được nghiên cứu 
và định nghĩa thành thuật ngữ “Căn bệnh Hà 
Lan”, thuật ngữ này được sử dụng lần đầu tiên 
để mô tả hiện tượng tại Hà Lan, khi ngành khai 
thác khí gas tự nhiên phát triển thu hút dòng vốn 
nước ngoài từ đó làm giá trị của đồng nội tệ 
nước này nên làm giảm khả năng cạnh tranh của 
hàng hóa xuất khẩu của Hà Lan vì vậy ảnh 
hưởng tiêu cực lên cán cân thương mại và tăng 
trưởng kinh tế trong các nghiên cứu của Corden 
& Neary (1982), Corden (1984). Các nghiên cứu 
thực nghiệm như nghiên cứu của Amuedo-
Dorantes & Pozo (2004) tại các quốc gia nhỏ và 
mở cửa khu vực Trung Mỹ và Nam Mỹ tìm thấy 
bằng chứng về tác động của kiều hối lên tỷ giá 
hối đoái và kết luận hiện tượng “căn bệnh Hà 
Lan” tồn tại. Cụ thể khi dòng kiều hối tăng lên 
làm tăng giá trị đồng nội tệ nên làm giảm tính 
cạnh tranh của hàng nội địa trên thị trường quốc 
tế của các quốc gia trong khu vực, do đó lĩnh 
vực sản xuất nội địa có sự dịch chuyển nguồn 
lực từ khu vực sản xuất hàng có thể giao thương 
sang khu vực sản xuất hàng không thể giao 
thương. Còn nghiên cứu của Bayangos & Jansen 
(2011) cũng phát hiện bằng chứng về hiện tượng 
“căn bệnh Hà Lan” tại Phillipines khi dòng kiều 
hối chuyển về nước này tăng lên. Nghiên cứu 
của Acosta, Lartey & Mandelman (2009) cũng 
phát hiện bằng chứng về tác động của kiều hối 
lên tỷ giá theo hiện tượng “căn bệnh Hà Lan” tại 
El Salvador. Đồng thời, nghiên cứu của Combes 
& Ebeke (2011) cũng phát hiện bằng chứng 
tương tự. 
Tuy nhiên, không phải trong trường hợp nào 
kiều hối cũng làm gia tăng giá trị đồng nội tệ và 
làm thay đổi tỷ giá hối đoái, tác động đó phụ 
thuộc vào phản ứng của chính sách vĩ mô, sự 
phát triển của thị trường sản xuất và thị trường 
tài chính tại các quốc gia nhận kiều hối và nhiều 
yếu tố khác (Acosta, Lartey & Mandelman, 
2009; Amuedo-Dorantes & Pozo, 2004; Bourdet 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No Q1 - 2016 
Trang 42 
& Falck, 2006). Đồng thời, các nghiên cứu trên 
thế giới gần như thường tiến hành nghiên cứu tại 
một khu vực lãnh thổ hoặc một nhóm các quốc 
gia nhỏ và nghèo mà chưa tiến hành tại nhóm 
các nước được xếp vào nhóm các quốc gia là thị 
trường mới nổi. Đặc biệt chưa có nghiên cứu về 
tác động của kiều hối lên các nước đang phát 
triển trước và sau khủng hoảng tài chính toàn 
cầu 2008, do đó nghiên cứu này đóng góp vào 
các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của 
kiều hối lên tỷ giá hối đoái tại các quốc gia có 
thị trường mới nổi và sự thay đổi trong giai đoạn 
trước và sau khủng hoảng. Phần tiếp theo trình 
bày mô hình nghiên cứu tác động của kiều hối 
lên tỷ giá hối đoái. 
3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Mô hình nghiên cứu 
Để xem xét tác động của kiều hối lên tỷ giá 
hối đoái thực, đồng thời kiểm tra tính bền vững 
của kết quả nghiên cứu, bài viết này sử dụng mô 
hình các yếu tố tác động đến tỷ giá hối đoái thực 
được xây dựng từ nghiên cứu của Blundell-
Wignall et al. (1993). Cụ thể hơn, trong nghiên 
cứu trước đó của Edwards’ (1988, 1989) khi xác 
định các yếu tố tác động đến tỷ giá hối đoái đã 
đưa ra mô hình cân bằng tổng quát cho trường 
hợp quốc gia nhỏ và mở cửa đồng thời kèm theo 
các điều kiện về tác động của hành vi người tiêu 
dùng, nhà sản xuất và cả khu vực chính phủ. 
Trong đó, nền kinh tế nhỏ và mở cửa được giả 
định sẽ sản xuất hai loại hàng hóa: hàng có thể 
giao thương (T) và hàng không thể giao thương 
(N), khu vực chính phủ được giả định có tiêu 
dùng cả hai loại hàng hóa và tài trợ các khoản 
chi tiêu đó bằng thuế và vay nợ, đồng thời giả 
định rằng trong nền kinh tế có nắm giữ cả nội tệ 
và ngoại tệ. Mô hình mà Edward xây dựng các 
yếu tố tác động đến tỷ giá cân bằng bao gồm các 
yếu tố thuộc hai khu vực: khu vực bên ngoài và 
khu vực nội địa. Các yếu tố thuộc khu vực bên 
ngoài bao gồm giá thế giới (được xác định bằng 
chỉ số điều kiện thương mại), các khoản chu 
chuyển vốn quốc tế, và lãi suất thực của thế 
giới. Các yếu tố thuộc khu vực nội địa bao gồm 
chính sách tiền tệ, chính sách nhập khẩu và xuất 
khẩu nội địa, chính sách kiểm soát tỷ giá và 
dòng vốn, chính sách tài khóa, và sự phát triển 
trong công nghệ. Dựa vào phân tích của 
Edward, đồng thời mô hình thực nghiệm trong 
nghiên cứu của Chowdhury (2012), bài viết đưa 
biến đại diện cho dòng kiều hối vào thành phần 
trong các khoản chu chuyển vốn quốc tế thuộc 
các yếu tố bên ngoài trong hàm số của tỷ giá hối 
đoái thực và ước lượng mô hình có dạng: 
 (1) 
Trong đó: DER là tỷ lệ thay đổi trong tỷ giá 
hối đoái, DRE là tỷ lệ thay đổi trong kiều hối 
nhận được, khi tỷ lệ kiều hối tăng lên sẽ làm gia 
tăng cung ngoại tệ và làm giảm giá đồng ngoại 
tệ tức làm giảm tỷ giá (tỷ giá đang niêm yếu 
theo phương pháp 1 ngoại tệ = x nội tệ); 
DrealGDPg là tỷ lệ thay đổi trong GDP thực, tỷ 
lệ tăng trưởng GDP thực cao hơn có nghĩa rằng 
nền kinh tế mạnh hơn và làm tăng giá trị đồng 
nội tệ; DEXDEBT là tỷ lệ thay đổi trong tổng giá 
trị nợ nước ngoài, nợ nước ngoài càng cao sẽ 
càng làm tăng cầu nội tệ tương lai nên làm giảm 
giá trị đồng nội tệ; DINF là tỷ lệ thay đổi trong 
lạm phát, lạm phát càng cao sẽ càng làm mất giá 
đồng nội tệ. Biến tỷ giá trễ một kỳ được sử dụng 
để xử lý hiện tượng tự tương quan trong tỷ giá. 
Cách tính và ý nghĩa của các biến được trình 
bày ở bảng 1. 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 19, SỐ Q1 - 2016 
Trang 43 
Bảng 1. Biến và mô tả 
Biến Cách tính Nguồn 
Kỳ vọng 
dấu 
Der Tỷ lệ thay đổi trong tỷ giá (%) 
Tính toán từ dữ liệu của 
Worldbank 
Dre Tỷ lệ thay đổi trong kiều hối (%) 
Tính toán từ dữ liệu của 
Worldbank 
- 
Drealgdpg Tỷ lệ thay đổi trong tăng trưởng GDP thực (%) 
Tính toán từ dữ liệu của 
Worldbank 
- 
Dinf Tỷ lệ thay đổi trong lạm phát (%) 
Tính toán từ dữ liệu của 
Worldbank 
+ 
Dextdebt Tỷ lệ thay đổi trong nợ nước ngoài (%) 
Tính toán từ dữ liệu của 
Worldbank 
+ 
Về mặt lý thuyết, tác động của cải tiến trong 
công nghệ và năng suất sản xuất đến tỷ giá hối 
đoái thực được xem là yếu tố nội địa không liên 
quan đến chính sách vĩ mô của chính phủ, và tác 
động của cải tiến công nghệ đến tỷ giá hối đoái 
thực thường thông qua tác động của yếu tố này 
đến khu vực sản xuất hàng có thể giao thương 
nội địa. Về phía cung, với cải tiến trong công 
nghệ và năng suất sản xuất sẽ giúp giảm chi phí 
sản xuất hàng hóa, đặc biệt là hàng hóa có thể 
giao thương do đó giúp gia tăng xuất khẩu đồng 
thời giảm nhập khẩu nên tạo ra hiệu ứng giúp 
gia tăng giá trị của nội tệ tức là làm giảm tỷ giá 
theo phương pháp yết giá trực tiếp. Trong khi đó 
về phía cầu, khi công nghệ được cải tiến, năng 
suất lao động tăng sẽ làm gia tăng thu nhập của 
người dân, thu nhập tăng lại làm gia tăng tiêu 
dùng nội địa nên tăng nhập khẩu và giảm xuất 
khẩu từ đó làm giảm giá trị của nội tệ tức là làm 
tăng tỷ giá (Chowdhury, 2012; Edwards, 1988). 
Như vậy, tác động của phát triển công nghệ và 
tăng năng suất lao động đến tỷ giá thực phụ 
thuộc vào tác động của phía cung hay phía cầu 
mạnh hơn. Nghiên cứu này sử dụng biến tăng 
trưởng trong GDP thực (DrealGDPg) để đại 
diện cho sự thay đổi trong chất lượng của nền 
kinh tế, thông qua đó đo lường tác động đến tỷ 
giá (Chowdhury, 2012; Edwards, 1988). 
Với chi tiêu của chính phủ, biến này được 
xem là đại diện cho chính sách tài khóa của 
chính phủ, và khi chính phủ tăng chi tiêu sẽ dẫn 
đến việc gia tăng thuế hoặc tăng vay nợ của 
chính phủ (Sutherland, 1997; Talvi & Vegh, 
2005). Tuy nhiên, khi Chính phủ gia tăng chi 
tiêu sẽ tăng cầu hàng hóa nội địa gồm cả hàng 
có thể và không thể giao thương. Nếu Chính phủ 
chủ yếu chi tiêu cho hàng hóa không thể giao 
thương thì giá của loại hàng này tăng lên làm 
cho sản xuất nội địa loại hàng này tăng lên và 
giá trị đồng nội tệ sẽ tăng và tỷ giá hối đoái thực 
sẽ giảm. Ngược lại nếu chính phủ chủ yếu chi 
tiêu cho loại hàng có thể giao thương sẽ dẫn đến 
nhập khẩu nhiều hơn và giá đồng nội tệ giảm và 
tỷ giá thực tăng. Đồng thời, việc Chính phủ chi 
tiêu nhiều hơn dẫn đến mong đợi rằng Chính 
phủ phải vay nợ nhiều hơn hoặc tăng thuế cao 
hơn trong tương lai, từ đó dẫn đến mức lãi suất 
cũng như rủi ro cao hơn làm cho đồng nội tệ mất 
giá dẫn đến tỷ giá thực tăng (Tarditi, 1996). Khi 
Chính phủ mở rộng chính sách tài khóa, đặc biệt 
ở các quốc gia đang phát triển như các nước có 
nền kinh tế mới nổi, thư ... quả có thể gây ra tác động tiêu cực lên cán 
cân thương mại của quốc gia nhận kiều hối, hiện 
tượng này được gọi tên là “căn bệnh Hà Lan”. 
Hệ số ước lượng của biến DRealGDPg cho 
kết quả âm với mức ý nghĩa thống kê 5% cho 
thấy rằng tăng trưởng trong GDP thực tăng lên 
sẽ làm tăng giá trị đồng nội tệ. Kết quả này cũng 
trùng khớp với lý thuyết và các nghiên cứu thực 
nghiệm khác. Tăng trưởng trong GDP thực sẽ 
làm gia tăng thu nhập và tăng giá trị đồng nội tệ 
của quốc gia đó. 
Trong khi đó hệ số ước lượng của biến DINF 
cho kết quả dương nhưng không có ý nghĩa 
thống kê, điều này cho thấy rằng lạm phát có thể 
có tác động làm giảm giá đồng nội tệ, tuy nhiên 
trong mô hình này chưa thể khẳng định được vì 
thiếu ý nghĩa thống kê. Cuối cùng, như lý thuyết 
đã phân tích, biến DEXTDEBT có hệ số ước 
lượng dương có ý nghĩa thống kê khẳng định lý 
thuyết rằng khi nợ nước ngoài tăng lên sẽ làm 
giảm giá đồng nội tệ vì tương lai quốc gia này 
phải huy động nhiều ngoại tệ hơn để thanh toán 
các khoản nợ đến hạn. 
Như đã giới thiệu, khủng hoảng tài chính 
toàn cầu năm 2008 có tác động nghiêm trọng 
đến nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới, 
đặc biệt tại các nước đã mở cửa và đang phát 
triển như các thị trường mới nổi. Do đó, nghiên 
cứu này chia bộ dữ liệu ra thành 2 giai đoạn: 
giai đoạn 2001 – 2007 và giai đoạn 2008 – 2013 
để kiểm tra sự thay đổi trong các mối quan hệ 
được nghiên cứu ở trên do ảnh hưởng của khủng 
hoảng. Kết quả ước lượng được trình bày ở bảng 
5. 
Kết quả ước lượng với mô hình cho giai 
đoạn 2001 – 2007 cho thấy kiều hối vẫn có tác 
động làm tăng giá trị đồng nội tệ. Tuy nhiên, 
tăng trưởng trong tăng trưởng GDP thực lại làm 
giảm giá trị đồng nội tệ, điều này có nghĩa rằng 
trong giai đoạn nền kinh tế phát triển ổn định 
khi tăng trưởng kinh tế cao hơn sẽ làm mất giá 
đồng nội tệ. Kết quả này có thể được giải thích 
thông qua hiệu ứng thu nhập, khi tăng trưởng 
kinh tế cao hơn sẽ tăng thu nhập của người dân 
qua đó tăng tiêu dùng mà đặc biệt là các loại 
hàng hóa có thể giao thương nên nhập khẩu 
tăng, đồng thời các nhà sản xuất hàng xuất khẩu 
có thể quay lại phục vụ cho nhu cầu nội địa nên 
xuất khẩu sẽ giảm từ đó làm giảm giá trị đồng 
nội tệ. Điều này có thể xảy ra tại các thị trường 
mới nổi với dân số đông và trẻ nên nhu cầu chi 
tiêu mà đặc biệt là các loại hàng hóa nhập khẩu 
cao, do đó khi thu nhập tăng hiệu ứng thu nhập 
có thể xảy ra. Bên cạnh đó, biến thay đổi trong 
lạm phát có tác động dương lên thay đổi trong tỷ 
giá, kết quả này trùng khớp với lý thuyết đã 
phân tích. Có nghĩa rằng trong giai đoạn kinh tế 
phát triển ổn định, sự gia tăng trong lạm phát sẽ 
làm giảm giá đồng nội tệ. 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 19, SỐ Q1 - 2016 
Trang 47 
Bảng 5. Kiều hối và tỷ giá hối đoái trƣớc và sau khủng hoảng 
Giai đoạn Trƣớc 2008 Sau 2008 
Der Hệ số P-value Hệ số P-value 
Der(-1) 0.276*** 0.000 0.266*** 0.000 
Dre -0.013*** 0.001 -0.025*** 0.006 
DrealGDPg 0.145* 0.077 -1.901*** 0.000 
Dinf 0.629*** 0.000 -1.440*** 0.000 
Dextdebt 0.000 0.970 0.002 0.459 
N 119 96 
Số quốc gia 20 20 
AR(2) test -1.00 0.317 0.04 0.971 
Sargan test 34.61 0.487 25.55 0.143 
*,**,*** tương ứng với mức ý nghĩa 10%, 5% và 1% 
Nguồn: tính toán của tác giả 
Với mô hình ước lượng cho giai đoạn 2008 – 
2013 cho thấy các kết quả thú vị. Trước tiên, tác 
động của kiều hối lên tỷ giá hối đoái là không 
thay đổi, như vậy mối quan hệ giữa kiều hối và 
tỷ giá không bị thay đổi do khủng hoảng. Tuy 
nhiên hệ số ước lượng của biến kiều hối trong 
giai đoạn khủng hoảng có giá trị tuyết đối 
(0.025) cao hơn trong giai đoạn trước khủng 
hoảng (0.013) cho thấy rằng tác động của kiều 
hối lên tỷ giá trong giai đoạn khủng hoảng có xu 
hướng mạnh hơn. 
Bên cạnh đó, tác động của thay đổi trong 
tăng trưởng GDP thực lên tỷ giá là âm, tức phù 
hợp với lý thuyết và ngược với mối quan hệ 
trong giai đoạn trước khủng hoảng. Như vậy, 
trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế, khi nền 
kinh tế có tăng trưởng GDP thực cao hơn sẽ làm 
gia tăng giá trị thực của đồng nội tệ. Điều này 
trùng với lý thuyết đã phân tích trước đó. Tuy 
nhiên với lạm phát, khác với giai đoạn trước 
khủng hoảng lạm phát làm mất giá đồng nội tệ, 
thì trong giai đoạn khủng hoảng lạm phát tăng 
lên làm tăng giá trị đồng nội tệ. Có thể giải thích 
rằng trong giai đoạn khủng hoảng sức chi tiêu 
kém, nền kinh tế tăng trưởng chậm lại, lạm phát 
rất thấp thì sự gia tăng trong lạm phát là dấu 
hiệu tích cực cho sự phục hồi của nền kinh tế 
nên làm gia tăng giá trị đồng nội tệ. 
5. KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH 
Kết luận 
Như vậy, thông qua ước lượng cho dữ liệu 
bảng tại 21 thị trường mới nổi trong giai đoạn 
2001 – 2013 để nghiên cứu tác động của kiều 
hối lên tỷ giá hối đoái của các quốc gia trên, bài 
viết này rút ra một số kết luận sau: 
Kiều hối làm tăng giá trị đồng nội tệ của 
quốc gia nhận, mối quan hệ này không thay đổi 
do khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008, nhưng 
mức độ tác động có xu hướng tăng lên trong 
khủng hoảng. Kết quả này cho thấy rằng dòng 
kiều hối tăng lên sẽ tạo ra sức ép gia tăng giá trị 
đồng nội tệ từ đó làm giảm sức cạnh tranh của 
hàng hóa nội địa và tạo ra hiện tượng kinh tế 
“căn bệnh Hà Lan”. 
Bên cạnh kiều hối, thay đổi trong tăng 
trưởng kinh tế thực cũng làm tăng giá đồng nội 
tệ, tuy nhiên mối quan hệ này khác biệt trong 
hai giai đoạn trước và sau khủng hoảng. Trong 
giai đoạn trước khủng hoảng, tăng trưởng kinh 
tế thực cao hơn làm giảm giá đồng nội tệ do 
hiệu ứng thu nhập và chi tiêu hàng có thể giao 
thương cao hơn của người dân nên tạo sức ép 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No Q1 - 2016 
Trang 48 
làm giảm giá đồng nội tệ. Nhưng trong giai đoạn 
khủng hoảng, tăng trưởng kinh tế thực cao hơn 
tạo hiệu ứng gia tăng giá trị đồng nội tệ của 
quốc gia đó. Nợ nước ngoài có tác động làm 
giảm giá đồng nội tệ, điều này tạo ra nhiều vấn 
đề về chính sách tài khóa và chính sách vay nợ 
của các quốc gia có thị trường mới nổi trong 
thời gian tới. Cuối cùng, lạm phát làm giảm giá 
của đồng nội tệ, tuy nhiên tác động này rất mạnh 
trong giai đoạn kinh tế phát triển ổn định, còn 
trong giai đoạn khủng hoảng lạm phát là dấu 
hiệu của sự hồi phục của nền kinh tế nên làm 
tăng giá trị đồng nội tệ. 
Gợi ý chính sách 
Với các kết quả nghiên cứu đó, bài viết đưa 
ra đề xuất chính sách như sau: bên cạnh chính 
sách khuyến khích dòng kiều hối thì Chính phủ 
các quốc gia nhận kiều hối cần chủ động phòng 
tránh các cú sốc do dòng kiều hối gây ra, đặc 
biệt là tác động của các cú sốc này lên tỷ giá làm 
giảm sức cạnh tranh của hàng hóa nội địa. Để 
làm được vấn đề này Chính phủ các quốc gia 
phải có chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt trong 
việc điều chỉnh lượng cung nội tệ phù hợp để 
thu được nguồn ngoại tệ từ kiều hối đồng thời 
tránh làm giảm tỷ giá (tức để đồng nội tệ tăng 
giá) từ đó làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa 
nội địa. 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 19, SỐ Q1 - 2016 
Trang 49 
Remittances and exchange rate - Empirical 
evidence from emerging economies 
Nguyen Phuc Canh 
University of Economics HCMC - Email: canhnguyen@ueh.edu.vn 
ABSTRACT 
The exchange rate plays an important role 
to trade, investment and macroeconomic risks of 
open economies. There are many factors that 
affect the exchange rate such as inflation, 
interest rates, balance of payments where 
remittance flows receive more and more 
attention of economists due to their increase in 
their values, particularly in emerging 
economies. This study uses data from 21 
countries which are classified as emerging 
markets in the period between 2001 and 2013 to 
investigate the impacts of remittances on 
exchange rate. Through panel data estimations, 
we found that remittances increase the value of 
the local currencies, which is not altered by the 
2008 global financial crisis. 
Keywords: personal remittance, exchange rate, crisis, emerging markets. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Abdih, Y., Chami, R., Dagher, J. & Montiel, P, Remittances and Institutions: Are Remittances a 
Curse?, World Development, vol. 40, no. 4, pp. 657-66 (2012). 
[2]. Acosta, P., Calderón, C., Fajnzylber, P. & Lopez, H X, What is the Impact of International 
Remittances on Poverty and Inequality in Latin America?, World Development, vol. 36, no. 1, pp. 
89-114 (2012). 
[3]. Acosta, P.A., Lartey, E.K.K. & Mandelman, F.S, Remittances and the Dutch disease, Journal of 
International Economics, vol. 79, no. 1, pp. 102-16 (2009). 
[4]. Adams Jr, R.H. & Cuecuecha, A, Remittances, Household Expenditure and Investment in 
Guatemala, World Development, vol. 38, no. 11, pp. 1626-41 (2010). 
[5]. Adams Jr, R.H. & Cuecuecha, A, The Impact of Remittances on Investment and Poverty in Ghana, 
World Development, vol. 50, pp. 24-40 (2013). 
[6]. Adams Jr, R.H. & Page, J, Do international migration and remittances reduce poverty in 
developing countries?, World Development, vol. 33, no. 10, pp. 1645-69 (2005). 
[7]. Aggarwal, R., Demirgüç-Kunt, A. & Pería, M.S.M, Do remittances promote financial 
development?, Journal of Development Economics, vol. 96, no. 2, pp. 255-64 (2011). 
[8]. Alogoskoufis, G.S. & Smith, R, The Phillips curve, the persistence of inflation, and the Lucas 
critique: Evidence from exchange-rate regimes, The American Economic Review, pp. 1254-75 
(1991). 
[9]. Amuedo-Dorantes, C. & Pozo, S, Workers' Remittances and the Real Exchange Rate: A Paradox 
of Gifts, World Development, vol. 32, no. 8, pp. 1407-17 (2004). 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No Q1 - 2016 
Trang 50 
[10]. Anzoategui, D., Demirgüç-Kunt, A. & Martínez Pería, M.S, Remittances and Financial 
Inclusion: Evidence from El Salvador, World Development, vol. 54, pp. 338-49 (2014). 
[11]. Arellano, M. & Bond, S, Some tests of specification for panel data: Monte Carlo evidence and an 
application to employment equations, The review of economic studies, vol. 58, no. 2, pp. 277-97 
(1991). 
[12]. Arellano, M. & Bover, O, Another look at the instrumental variable estimation of error-
components models, Journal of econometrics, vol. 68, no. 1, pp. 29-51 (1995). 
[13]. Bayangos, V. & Jansen, K, Remittances and Competitiveness: The Case of the Philippines, 
World Development, vol. 39, no. 10, pp. 1834-46 (2011). 
[14]. Beine, M., Lodigiani, E. & Vermeulen, R. 2012, Remittances and financial openness, Regional 
Science and Urban Economics, vol. 42, no. 5, pp. 844-57. 
[15]. Berdiev, A.N., Kim, Y. & Chang, C.-P, Remittances and corruption, Economics Letters, vol. 118, 
no. 1, pp. 182-5 (2013). 
[16]. Bourdet, Y. & Falck, H, Emigrants' remittances and Dutch disease in Cape Verde, International 
Economic Journal, vol. 20, no. 3, pp. 267-84 (2006). 
[17]. Catrinescu, N., Leon-Ledesma, M., Piracha, M. & Quillin, B, Remittances, Institutions, and 
Economic Growth, World Development, vol. 37, no. 1, pp. 81-92 (2009). 
[18]. Chowdhury, K, Modelling the dynamics, structural breaks and the determinants of the real 
exchange rate of Australia, Journal of International Financial Markets, Institutions and Money, 
vol. 22, no. 2, pp. 343-58 (2012). 
[19]. Chowdhury, M.B, Remittances flow and financial development in Bangladesh, Economic 
Modelling, vol. 28, no. 6, pp. 2600-8 (2011). 
[20]. Combes, J.-L. & Ebeke, C, Remittances and household consumption instability in developing 
countries, World Development, vol. 39, no. 7, pp. 1076-89 (2011). 
[21]. Corden, W.M, Booming sector and Dutch disease economics: survey and consolidation, oxford 
economic Papers, pp. 359-80 (1984). 
[22]. Corden, W.M. & Neary, J.P, Booming sector and de-industrialisation in a small open economy, 
The economic journal, pp. 825-48 (1982). 
[23]. De Gregorio, J., Giovannini, A. & Wolf, H.C, International evidence on tradables and 
nontradables inflation, European Economic Review, vol. 38, no. 6, pp. 1225-44 (1994). 
[24]. Dornbusch, R, Expectations and exchange rate dynamics, The Journal of Political Economy, pp. 
1161-76 (1976). 
[25]. Dornbusch, R, External debt, budget deficits and disequilibrium exchange rates, National bureau 
of Economic Research (1984). 
[26]. Edwards, S, Real and monetary determinants of real exchange rate behavior: Theory and 
evidence from developing countries, Journal of Development Economics, vol. 29, no. 3, pp. 311-
41 (1988). 
[27]. Edwards, S, Exchange rate misalignment in developing countries, The World Bank Research 
Observer, vol. 4, no. 1, pp. 3-21 (1989). 
[28]. Fransen, S. & Mazzucato, V, Remittances and Household Wealth after Conflict: A Case Study on 
Urban Burundi, World Development, vol. 60, pp. 57-68 (2014). 
[29]. Giuliano, P. & Ruiz-Arranz, M, Remittances, financial development, and growth, Journal of 
Development Economics, vol. 90, no. 1, pp. 144-52 (2009). 
[30]. Imai, K.S., Gaiha, R., Ali, A. & Kaicker, N, Remittances, growth and poverty: New evidence 
from Asian countries, Journal of Policy Modeling, vol. 36, no. 3, pp. 524-38 (2014). 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 19, SỐ Q1 - 2016 
Trang 51 
[31]. Jouini, J, Economic growth and remittances in Tunisia: Bi-directional causal links, Journal of 
Policy Modeling, vol. 37, no. 2, pp. 355-73 (2015). 
[32]. King, R.G., Plosser, C.I. & Rebelo, S.T, Production, growth and business cycles: I. The basic 
neoclassical model, Journal of monetary Economics, vol. 21, no. 2, pp. 195-232 (1988). 
[33]. Kumar, R.R, Remittances and economic growth: A study of Guyana, Economic Systems, vol. 37, 
no. 3, pp. 462-72 (2013). 
[34]. Lim, S. & Simmons, W.O, Do remittances promote economic growth in the Caribbean 
Community and Common Market?, Journal of Economics and Business, vol. 77, pp. 42-59 
(2015). 
[35]. Nyamongo, E.M., Misati, R.N., Kipyegon, L. & Ndirangu, L, Remittances, financial 
development and economic growth in Africa, Journal of Economics and Business, vol. 64, no. 3, 
pp. 240-60 (2012). 
[36]. Rao, B.B. & Hassan, G.M, A panel data analysis of the growth effects of remittances, Economic 
Modelling, vol. 28, no. 1–2, pp. 701-9 (2011). 
[37]. Shapiro, A.C, Exchange rate changes, inflation, and the value of the multinational corporation, 
The Journal of Finance, vol. 30, no. 2, pp. 485-502 (1975). 
[38]. Sutherland, A, Fiscal crises and aggregate demand: can high public debt reverse the effects of 
fiscal policy?, Journal of Public Economics, vol. 65, no. 2, pp. 147-62 (1997). 
[39]. Talvi, E. & Vegh, C.A, Tax base variability and procyclical fiscal policy in developing countries, 
Journal of Development economics, vol. 78, no. 1, pp. 156-90 (2005). 
[40]. Tarditi, A, Modelling the Australian exchange rate, long bond yield and inflationary 
expectations, Economic Research Department, Reserve Bank of Australia (1996). 
[41]. Ziesemer, T.H.W, The impact of the credit crisis on poor developing countries: Growth, worker 
remittances, accumulation and migration, Economic Modelling, vol. 27, no. 5, pp. 1230-45 
(2010). 

File đính kèm:

  • pdfkieu_hoi_va_ty_gia_hoi_doai_nghien_cuu_thuc_nghiem_tai_cac_t.pdf