Kiến thức về tình trạng sốt ở trẻ em của các bà mẹ có con dưới 5 tuổi điều trị tại Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định năm 2020

Mục tiêu: Mô tả thực trạng kiến thức về tình trạng sốt của các bà mẹ có con dưới 5 tuổi điều trị Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định năm 2020. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện từ tháng 12/2019 - 06/2019 trên 90 bà mẹ có con dưới 5 tuổi điều trị tại Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định. Các đối tượng được phỏng vấn trực tiếp bằng phiếu khảo sát thiết kế sẵn về các nội dung liên quan đến kiến thức xử trí sốt ở trẻ. Kết quả: Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng về định nghĩa sốt là 33,3%, bà mẹ xác định trẻ sốt bằng xúc giác là 82,2%, bà mẹ có kiến thức đúng về thời điểm dùng thuốc hạ sốt cho trẻ là 30%, bà mẹ biết liều lượng sử dụng thuốc hạ sốt cho trẻ là 33,3% và bà mẹ cho trẻ ăn kiêng khi sốt là 14,4%. Kết luận: Thực trạng kiến thức về tình trạng sốt của các bà mẹ có con dưới 5 tuổi điều trị tại Bệnh viện Nhi Nam Định là chưa tốt

pdf 7 trang phuongnguyen 60
Bạn đang xem tài liệu "Kiến thức về tình trạng sốt ở trẻ em của các bà mẹ có con dưới 5 tuổi điều trị tại Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định năm 2020", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến thức về tình trạng sốt ở trẻ em của các bà mẹ có con dưới 5 tuổi điều trị tại Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định năm 2020

Kiến thức về tình trạng sốt ở trẻ em của các bà mẹ có con dưới 5 tuổi điều trị tại Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định năm 2020
80
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
KIẾN THỨC VỀ TÌNH TRẠNG SỐT Ở TRẺ EM CỦA CÁC BÀ MẸ CÓ CON DƯỚI 5 
TUỔI ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN NHI TỈNH NAM ĐỊNH NĂM 2020
Nguyễn Thị Thanh Huyền1, Nguyễn Linh Chi1a, Đinh Thị Hạnh1, 
Trần Thị Thanh Mai1, Nguyễn Thị Lý1
1Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định; 
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả thực trạng kiến thức về 
tình trạng sốt của các bà mẹ có con dưới 
5 tuổi điều trị Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định 
năm 2020. Đối tượng và phương pháp 
nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 
được thực hiện từ tháng 12/2019 - 06/2019 
trên 90 bà mẹ có con dưới 5 tuổi điều trị tại 
Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định. Các đối tượng 
được phỏng vấn trực tiếp bằng phiếu khảo 
sát thiết kế sẵn về các nội dung liên quan 
đến kiến thức xử trí sốt ở trẻ. Kết quả: Tỷ lệ 
bà mẹ có kiến thức đúng về định nghĩa sốt 
là 33,3%, bà mẹ xác định trẻ sốt bằng xúc 
giác là 82,2%, bà mẹ có kiến thức đúng về 
thời điểm dùng thuốc hạ sốt cho trẻ là 30%, 
bà mẹ biết liều lượng sử dụng thuốc hạ sốt 
cho trẻ là 33,3% và bà mẹ cho trẻ ăn kiêng 
khi sốt là 14,4%. Kết luận: Thực trạng kiến 
thức về tình trạng sốt của các bà mẹ có con 
dưới 5 tuổi điều trị tại Bệnh viện Nhi Nam 
Định là chưa tốt.
Từ khóa: Kiến thức, xử trí sốt, Bệnh 
viện Nhi tỉnh Nam Định.
KNOWLEDGE OF FEVER MANAGEMENT AMONG MOTHERS WITH CHILDREN 
UNDER 5 YEARS OLD AT NAM DINH PAEDIATRIC HOSPITAL IN 2020
ABSTRACT
Objective: To describe the situation of 
fever management knowledge of mothers 
with children under 5 years old in Nam Dinh 
Paediatric Hospital in 2020. Method: Cross-
sectional descriptive study was conducted 
from December 2019 to June 2020 among 
90 mothers with children under 5 years old 
who are treated at Nam Dinh Paediatric 
Hospital. Those were interviewed directly 
by pre-designed survey questionnaire 
about the contents of fever management 
knowledge in children. Results: The 
percentage of mothers with correct 
knowledge of fever definition was 33.3%, 
mothers who identified a fever by touch 
was 82.2%, and mothers who have correct 
knowledge of when to use fever-reducing 
medicines was 30%.The mothers know 
the right dose of fever-reducing medicines 
for their children and put their child on a 
diet when they have a fever were 33.3% 
and 14.4%, respectively. Conclusion: The 
situation of fever management knowledge 
among mothers with children under 5 years 
old treated at Nam Dinh Paeiatric Hospital 
is very low.
Keywords: Knowledge, fever 
management, Nam Dinh Paeiatric Hospital.
Người chịu trách nhiệm: Nguyễn Thị Thanh Huyền
Email: [email protected]
Ngày phản biện: 22/9/2020
Ngày duyệt bài: 28/9/2020
Ngày xuất bản: 05/11/2020
81
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sốt là một phản ứng của cơ thể, có tác 
dụng làm tăng phản ứng hóa học để bảo 
vệ cơ thể khi cần thiết nhưng sốt quá cao, 
kéo dài lại gây ra nhiều hậu quả xấu đối 
với cơ thể như mất nước và điện giải, thiếu 
các chất dinh dưỡng do tăng chuyển hóa, 
giảm hấp thu, kém ăn. Trẻ sốt kéo dài dẫn 
đến nguy cơ suy dinh dưỡng, chậm phát 
triển thể chất. Ngoài ra, trẻ dưới 6 tuổi bị 
sốt cao có nguy cơ bị co giật và có thể để 
lại di chứng nặng nề nếu không xử trí kịp 
thời, cơn co giật kéo dài dẫn đến thiếu oxi 
não làm tổn thương các tế bào thần kinh, 
thậm chí hôn mê, tử vong hoặc làm tăng 
nguy co giật cho những lần sau khi trẻ sốt. 
Vì vậy, để kiểm soát tốt thân nhiệt cho trẻ 
thì kiến thức đúng về cách xử trí sốt là rất 
quan trọng.
Sốt ở trẻ em là một vấn đề được nhiều 
tác giả trong và ngoài nước quan tâm. Các 
nghiên cứu về kiến thức, thái độ, thực hành 
của bà mẹ về chăm sóc trẻ sốt được thực 
hiện nhằm hạn chế những biến chứng của 
sốt ở trẻ và bổ sung một số kiến thức về 
cách xử trí sốt cho các bà mẹ. Theo nghiên 
cứu của Awal Khan và cộng sự (2015), có 
37% bà mẹ không biết về nguyên nhân gây 
sốt, 90% bà mẹ phát hiện sốt bằng phương 
pháp xúc giác và 57% bà mẹ không biết 
cách đo nhiệt độ để ghi lại nhiệt độ chính 
xác [1]. 
Tại Việt Nam, những năm gần đây, có 
một số tác giả nghiên cứu về chăm sóc trẻ 
sốt của người nuôi dưỡng trẻ. Năm 2013, 
tại khoa Truyền Nhiễm bệnh viện Nhi Trung 
Ương, Hồ Thị Bích và Doãn Thúy Quỳnh đã 
tiến hành nghiên cứu đề tài và kết quả đã 
cho thấy gần ¾ bà mẹ hiểu sai khái niệm 
về sốt, gần 70% bà mẹ cho trẻ uống thuốc 
hạ sốt không theo đơn của bác sĩ và không 
quan tâm nhiều đến nhiệt độ sốt của trẻ và 
80% các bà mẹ có hành vi chăm sóc sai 
khi trẻ sốt [2]. Theo nghiên cứu của Vũ Thị 
Thanh Hoa (2019), tỉ lệ kiến thức đúng của 
các bà mẹ không cao chỉ chiếm 33,3% và 
tỉ lệ các bà mẹ biết khoảng cách an toàn 
giữa hai lần dùng thuốc hạ sốt Paracetamol 
chiếm 46,2% [3].
Tại Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định, tỷ lệ 
trẻ sốt nhập viện rất cao và đã có không ít 
các đề tài nghiên cứu về vấn đề này trước 
đây, song vẫn nhiều khoảng trống trong 
kiến thức về cách xử trí sốt của các bà mẹ. 
Từ thực tế đó, chúng tôi tiến hành nghiên 
cứu đề tài: “Thực trạng kiến thức xử trí sốt 
của các bà mẹ có con dưới 5 tuổi điều trị 
tại Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định năm 2020” 
với mục tiêu: Mô tả thực trạng kiến thức xử 
trí sốt của các bà mẹ có con dưới 5 tuổi 
điều trị Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định năm 
2020.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tiêu chuẩn lựa chọn: Các bà mẹ có 
con dưới 5 tuổi điều trị tại Bệnh viện Nhi 
Nam Định; đồng ý tham gia nghiên cứu.
- Tiêu chuẩn loại trừ: Các bà mẹ không 
thể tiếp nhận và trả lời được các câu hỏi.
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 
12/2019 - tháng 06/2020 tại Bệnh viện Nhi 
tỉnh Nam Định.
2.3. Thiết kế nghiên cứu
- Sử dụng thiết kế nghiên cứu mô tả cắt 
ngang 
2.4. Mẫu và phương pháp chọn mẫu
- Phương pháp chọn mẫu: chọn mẫu 
thuận tiện
- Cỡ mẫu: Cỡ mẫu cho nghiên cứu này 
được tính là 90 bà mẹ có con dưới 5 tuổi 
đủ tiêu chuẩn. 
2.5. Công cụ và phương pháp thu 
thập thông tin
- Phiếu khảo sát được xây dựng dựa 
82
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
trên nghiên cứu của Hồ Thị Bích (2012) 
theo tài liệu hướng dẫn Chăm sóc trẻ sốt 
tại nhà của Bệnh viện Nhi Trung ương.
- Phiếu khảo sát gồm 2 phần: Phần 1: 
Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu 
từ câu A1 – A8. Phần 2: Kiến thức về cách 
xử trí sốt tại nhà của các bà mẹ từ câu B1 
đến câu B15. 
- Sử dụng phương pháp phỏng vấn trực 
tiếp để thu thập thông tin cần thiết.
2.6. Tiêu chí đánh giá trong nghiên 
cứu
- Kiến thức về xử trí sốt: Bà mẹ tham gia 
trả lời phỏng vấn với mỗi câu trả lời đúng 
được 1 điểm, trả lời không đúng hoặc không 
biết 0 điểm. Bà mẹ trả lời đúng ≥ 70% (24 
– 33 điểm) là kiến thức đạt và < 70% (< 24 
điểm) là kiến thức không đạt.
2.7. Quản lý, xử lý và phân tích số liệu
- Số liệu sau khi được làm sạch, nhập và 
phân tích trên phần mềm SPSS 16.0
- Tính các giá trị phần trăm, bảng để mô 
tả các số liệu theo mục tiêu nghiên cứu.
3. KẾT QUẢ 
3.1. Đặc điểm chung đối tượng nghiên 
cứu
Phần lớn các bà mẹ thuộc nhóm tuổi 
từ 18 – 35 tuổi chiếm tỷ lệ là 88,8 % và 
bà mẹ sống chủ yếu ở nông thôn chiếm 
78,9%. Phân bố nghề nghiệp của các bà 
mẹ là nông dân chiếm tỷ lệ 5,6%, công 
nhân 40%, cán bộ viên chức 17,8%, kinh 
doanh 4,4% và các bà mẹ làm các công 
việc khác: nội trợ, tự do, là 32,2%. Các 
bà mẹ có trình độ học vấn là phổ thông 
trung học chiếm tỷ lệ cao nhất 41,1%, sau 
là các bà mẹ có trình độ học vấn là Trung 
cấp – Đại học chiếm 38,9%, còn lại là các 
bà mẹ có trình độ học vấn là Trung học cơ 
sở và sau Đại học chiếm tỷ lệ lần lượt là 
17,8% và 2,2%.
3.2. Thực trạng kiến thức về xử trí sốt 
của các bà mẹ 
Bảng 1. Kiến thức đúng của các bà mẹ 
về định nghĩa, nguyên nhân 
và hậu quả sốt (n=90)
Nội dung SL TL %
Định nghĩa
Sốt là hiện tượng tăng thân 
nhiệt của trẻ cao hơn mức 
bình thường
30 33,3
Nguyên nhân
Sốt là do virus 51 56,7
Sốt là do nhiễm khuẩn 46 51,1
Sốt là do tiêm chủng 60 66,7
Sốt là do mọc răng 70 77,8
Hậu quả
Mất nước và điện giải 30 33,3
Ăn kém 70 77,8
Co giật 67 74,4
Nhận xét: Kết quả nghiên cứu cho thấy, 
chỉ có 33,3% các bà mẹ có kiến thức đúng 
về định nghĩa sốt và 66,7% bà mẹ có kiến 
thức chưa đúng. Kiến thức đúng của các bà 
mẹ về nguyên nhân gây sốt hay gặp ở trẻ 
lần lượt từ thấp đến cao như sau: do virus 
(56,7%), do nhiễm khuẩn (51,1%), do tiêm 
chủng (66,7%), do mọc răng (77,8%). Kiến 
thức đúng của các bà mẹ về hậu quả hay 
gặp khi trẻ sốt lần lượt là: co giật (74,4%), 
ăn kém (77,8%), mất nước và điện giải 
(33,3%).
83
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Bảng 2. Kiến thức đúng của các bà mẹ về 
xác định trẻ sốt, thời gian đo thân nhiệt 
ở nách bằng nhiệt kế thủy ngân, ngưỡng 
thân nhiệt và cách hạ sốt để sốt (n=90)
Nội dung SL TL %
Xác định trẻ sốt
Dùng nhiệt kế 16 17,8
Thời gian đo thân nhiệt ở nách
5 – 10 phút 30 33,3
Ngưỡng thân nhiệt để đánh giá sốt
≥37,5˚C 25 27,8
Biện pháp chườm hạ sốt
Chườm ấm 55 61,1
Nhận xét: Hầu hết các bà mẹ dùng 
tay để xác định trẻ sốt chiếm tỷ lệ 82,2% 
và 17,8% các bà mẹ sử dụng nhiệt kế để 
xác định thân nhiệt của trẻ. Tỷ lệ bà mẹ có 
kiến thức đúng về thời gian đo thân nhiệt ở 
hõm nách (từ 5-10 phút) là 33,3%, bà mẹ 
kiến thức chưa đúng là 66,7%. Có 27,8% 
các bà mẹ có kiến thức đúng về ngưỡng đo 
thân nhiệt ở nách của trẻ để đánh giá sốt 
(≥37,5˚C) và có đến 72,2% các bà mẹ có 
kiến thức chưa đúng. Các bà mẹ có kiến 
thức đúng về các biện pháp chườm hạ sốt 
cho trẻ (chườm ấm) khá tốt chiếm 61,1% 
và tỷ lệ bà mẹ có kiến thức chưa đúng về 
phương pháp chườm hạ sốt là 38,9%.
Bảng 3. Kiến thức đúng của các bà mẹ về 
thời điểm, liều lượng và khoảng cách an 
toàn giữa 2 lần dùng thuốc hạ sốt (n=90)
Nội dung SL TL %
Thời điểm sử dụng thuốc hạ sốt
≥38˚,5C 27 30,0
Liều lượng thuốc hạ sốt
10 - 15mg/kg cân nặng/lần 30 33,3
Khoảng cách an toàn giữa 2 lần dùng 
thuốc
4 – 6 giờ 64 71,1
Nhận xét: Có đến 70% các bà mẹ có 
kiến thức chưa đúng về thời điểm chính xác 
để sử dụng thuốc hạ sốt cho trẻ và chỉ có 
30% các bà mẹ biết về thời điểm sử dụng 
thuốc hạ sốt cho trẻ (≥38˚,5C). Có 33,3% 
các bà mẹ có kiến thức đúng về liều lượng 
sử dụng thuốc hạ sốt Paracetamol cho trẻ 
(10 - 15mg/kg cân nặng/lần). Tỷ lệ các bà 
mẹ có kiến thức đúng về khoảng cách an 
toàn giữa 2 lần dùng thuốc hạ sốt cho trẻ 
(từ 4 – 6 giờ ) khá cao chiếm 71,1%.
Bảng 4. Kiến thức đúng của các bà mẹ về 
dấu hiệu đưa trẻ đến cơ sở y tế (n=90)
Dấu hiệu đưa trẻ đến cơ 
sở y tế SL TL %
Trẻ mệt, li bì 80 88,9
Trẻ bỏ ăn, bỏ bú 78 86,7
Khi trẻ co giật 79 87,8
Sốt cao, kéo dài trên 2 ngày 75 83,3
Nhận xét: Kết quả nghiên cứu cho thấy, 
các dấu hiệu nhận biết trẻ cần đến bệnh 
viện gấp mà các bà mẹ biết đến nhiều nhất 
là “Trẻ mệt, li bì” chiếm 88,9%, “Khi trẻ co 
giật” chiếm 87,8%, “Trẻ bỏ ăn, bỏ bú” chiếm 
86,7%, “Sốt cao, kéo dài trên 2 ngày” chiếm 
83,3%. 
Bảng 5. Kiến thức đúng của các bà mẹ 
chế độ dinh dưỡng cho trẻ sốt (n=90)
Nội dung SL TL %
Cho trẻ bú mẹ nhiều bất cứ 
khi nào trẻ muốn 73 81,2
Cho trẻ ăn lỏng, dễ tiêu 54 60,0
Không cho trẻ ăn kiêng 77 85,6
Nhận xét: Hầu hết các bà mẹ đều cho 
rằng “Cho trẻ bú mẹ nhiều bất cứ khi nào 
trẻ muốn” là điều cần thiết khi trẻ sốt, chiếm 
81,2%. Có đến 60% các bà mẹ sẽ “cho trẻ 
ăn lỏng, dễ tiêu” khi trẻ sốt. Tuy nhiên vẫn 
có không ít bà mẹ lại cho con ăn kiêng, 
chiếm 14,4%.
84
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
3.3. Phân loại kiến thức về tình trạng 
sốt ở trẻ của các bà mẹ có con dưới 5 
tuổi điều trị tại bệnh viện Nhi tỉnh Nam 
Định năm 2020
Bảng 6. Phân loại chung về kiến thức 
về tình trạng sốt của các bà mẹ (n=90)
Phân loại SL TL %
Đạt (≥70%) 33 36,7
Chưa đạt (<70%) 57 63,3
Nhận xét: Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức 
chung chưa đạt là 63,3% và bà mẹ đạt là 
36,7%.
4. BÀN LUẬN
Sốt là hiện tượng tăng thân nhiệt quá 
giới hạn bình thường của mỗi cá thể. Và 
sốt là một triệu chứng hay gặp ở trẻ nhỏ. 
Từ kết quả nghiên cứu ở bảng 1 cho thấy, 
đa số các bà mẹ chưa có kiến thức đúng về 
định nghĩa sốt chiếm tỉ lệ cao 66,7%. Kết 
quả của chúng tôi tương đồng với nghiên 
cứu của Hồ Thị Bích và Doãn Thúy Quỳnh 
(2013), tỷ lệ các bà mẹ hiểu sai về định 
nghĩa sốt là 62,6% [2]. Có thể lý giải điều 
này là do các bà mẹ thường ít quan tâm 
đến định nghĩa. 
Sốt là một triệu chứng thường gặp của 
rất nhiều bệnh. Có lúc dễ dàng tìm được 
nguyên nhân gây sốt, nhưng cũng có lúc 
sốt không rõ nguyên nhân Và không 
phải bà mẹ nào cũng có hiểu biết về vấn 
đề này, chính vì vậy, việc không xác định 
được nguyên nhân gây sốt chính là yếu 
tố làm ảnh hưởng đến hành vi của các bà 
mẹ trong việc xử trí trẻ sốt. Nguyên nhân 
gây sốt các bà mẹ biết đến nhiều nhất là 
“sốt là do mọc răng” chiếm tỷ lệ 77,8% 
và 66,7% các bà mẹ cho rằng “sốt là do 
tiêm chủng”, chỉ có 56,7% các bà mẹ biết 
đến “sốt là do virus” và 51,1% “sốt là do 
nhiễm khuẩn”. Kết quả này cao hơn kết 
quả nghiên cứu của Vũ Thị Thanh Hoa 
(2019) có 40,4% các bà mẹ cho rằng “sốt 
là do nhiễm khuẩn” và 57,1% “sốt là do 
tiêm chủng” [3]. Điều này có thể lý giải là 
do có sự khác biệt về đặc điểm của đối 
tượng nghiên cứu.
Sốt là phản ứng có lợi nhưng khi trẻ sốt 
cao, kéo dài gây ảnh hưởng nhiều đến cơ 
thể như bú kém, ăn kém, quấy khóc, mất 
nước, điện giải, thiếu các chất dinh dưỡng 
do tăng chuyển hóa, giảm hấp thu, đặc 
biệt ở trẻ nhỏ có thể co giật do sốt cao. 
Theo kết quả nghiên cứu ở bảng 1, hầu hết 
các bà mẹ cho rằng khi sốt trẻ sẽ ăn kém, 
bú kém chiếm 77,8% và có đến 74,4% các 
bà mẹ cho rằng khi sốt trẻ rất dễ bị co giật. 
Tuy nhiên, tỷ lệ bà mẹ biết trường hợp trẻ 
sẽ mất nước và điện giải khi sốt chỉ chiếm 
33,3%. Kết quả của chúng tôi tương đồng 
với kết quả của Vũ Thị Thanh Hoa (2019) 
về tỷ lệ các bà mẹ biết đến hậu quả của sốt 
gây “co giật” chiếm 74,4% và “mất nước” 
chiếm 13,5% [3].
Theo khuyến cáo của WHO, để xác 
định nhiệt độ cho trẻ một cách chính 
xác nhất phải sử dụng nhiệt kế. Với kết 
quả nghiên cứu ở bảng 2, tỷ lệ các bà 
mẹ dùng tay để cảm nhận trẻ sốt rất cao 
chiếm 82,2%, kết quả này tương đồng với 
nghiên cứu của Nguyễn Thị Dịu và Trần 
Thị Hằng (2010) là 86,2% [4]. Và cao hơn 
kết quả nghiên cứu của Hồ Thị Bích và 
Doãn Thúy Quỳnh (2013), tỷ lệ các bà mẹ 
cảm nhận sốt bằng tay sờ là 32,1% [2]. 
Điều này có thể lý giải có lẽ do các bà 
mẹ đã quá chủ quan khi tin vào trực giác 
hoặc theo kinh nghiệm của bản thân để 
đánh giá mức độ sốt cho trẻ. Tuy nhiệt kế 
là vật dụng cần thiết và nên có để chăm 
sóc sức khỏe từng thành viên trong gia 
đình nhưng việc lựa chọn loại nhiệt kế 
phù hợp cũng như vị trí đo nhiệt kế trên 
cơ thể cũng là câu hỏi khiến các bà mẹ 
85
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
cảm thấy mới mẻ. Tỷ lệ bà mẹ bà mẹ có 
kiến thức đúng về thời gian đo thân nhiệt 
ở nách từ 5 – 10 phút là có 33,3% và tỷ lệ 
các bà mẹ có kiến thức chưa đúng chiếm 
tới 66,7%. Kết quả nghiên cứu của chúng 
tôi tương đồng với kết quả của Vũ Thị 
Thanh Hoa (2019), thời gian đo nhiệt độ 
ở nách đúng chiếm 30,1% [3].
Theo Viện Hàn lâm Gia đình Mỹ, một 
cơn sốt được chỉ ra khi nhiệt độ cơ thế tăng 
lên khoảng một độ trở lên so nhiệt độ bình 
thường. Vậy khi đo thân nhiệt cho trẻ, nếu 
phát hiện trẻ sốt thì các bà mẹ cần nới rộng 
quần áo, mặc cho trẻ những bộ quần áo 
rộng rãi, thoáng mát, dễ thấm mồ hôi và 
chườm ấm tích cực. Tuy nhiên, từ kết quả 
ở bảng 2, chỉ có 61,1% các bà mẹ chườm 
ấm cho trẻ khi trẻ sốt. Kết quả của chúng 
tôi tương đồng với kết quả của Hồ Thị Bích 
và Doãn Thúy Quỳnh (2013), tỷ lệ các bà 
mẹ đã chườm ấm cho trẻ khi trẻ sốt chiếm 
54,8% [2]. Và cao hơn kết quả của Phạm 
Hải Yến (2013), chỉ có 41,9% các bà mẹ sẽ 
chườm ấm khi trẻ bị sốt [5]. Điều này cho 
thấy sự cần thiết của việc phải tăng cường 
thông tin tư vấn để các bà mẹ chăm sóc 
con tốt hơn.
Paracetamol là một thuốc hạ sốt không 
cần kê đơn, người dùng có thể mua thuốc 
tại hiệu thuốc mà không bắt buộc phải có 
chỉ định của bác sĩ. Thế nhưng điều này 
không có nghĩa là thuốc vô hại hay có thể 
dùng thoải mái. Bất kỳ loại thuốc nào, nếu 
sử dụng quá liều đều có thể gây hậu quả 
nghiêm trọng. Thuốc hạ sốt được chỉ định 
dùng cho trẻ em trong những trường hợp 
trẻ sốt ≥ 38.5 oC và liều dùng Paracetamol 
thông thường cho trẻ dựa vào trọng lượng 
cơ thể từ 10 – 15mg/kg cân nặng/lần, 
cách 4 – 6 giờ/lần. Từ kết quả của bảng 
3, tỷ lệ các bà mẹ kiến thức đúng về thời 
điểm sử dụng thuốc hạ sốt cho trẻ khi sốt 
là ≥ 38.5 oC chiếm 30%, về liều lượng sử 
dụng thuốc hạ sốt cho trẻ là 10 – 15 mg/
kg chiếm 33,3%, còn khoảng cách an toàn 
giữa hai lần dùng thuốc hạ sốt là 4 – 6 
giờ chiếm 71,1%. Kết quả tương đồng 
với nghiên cứu Vũ Thị Thanh Hoa (2019), 
tỷ lệ kiến thức đúng của các bà mẹ về 
dùng thuốc hạ sốt đúng chiếm 33,3% và 
tỷ lệ của các bà mẹ có kiến thức đúng về 
khoảng cách giữa hai lần dùng thuốc hạ 
sốt đúng chiếm 46,2% thấp hơn so với kết 
quả của chúng tôi [3]. Còn nghiên cứu của 
Phạm Hải Yến (2013), tỷ lệ các bà mẹ có 
kiến thức về sử dụng thuốc hạ sốt đúng 
chiếm 76,7% tương đồng với kết quả của 
nghiên cứu của chúng tôi [5]. Một nghiên 
cứu khác của Hồ Thị Bích và Doãn Thúy 
Quỳnh (2013), tỷ lệ các bà mẹ có kiến 
thức đúng về thời điểm dùng thuốc hạ 
sốt chiếm 32,2% tương đồng với kết quả 
nghiên cứu của chúng tôi, còn tỷ lệ các bà 
mẹ có kiến thức đúng về khoảng cách an 
toàn giữa hai lần dùng thuốc chiếm 46,1% 
thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của 
chúng tôi, và 62.6% các bà mẹ dùng thuốc 
theo lứa tuổi [2].
Hậu quả và biến chứng do sốt để lại trên 
trẻ thật sự rất nguy hiểm, gây ảnh hưởng 
đến sức khỏe, trí tuệ và thể trạng của trẻ 
sau này. Vậy “nếu trẻ sốt khi nào nên đưa 
trẻ đến bệnh viện?”, theo kết quả của bảng 
4, có 83,3% các bà mẹ sẽ đưa con đến bệnh 
viện khi trẻ “Sốt cao, kéo dài trên 2 ngày”, 
86,7% là tỷ lệ các bà mẹ cho rằng “Trẻ bỏ 
ăn, bỏ bú” cần đến bệnh viện ngay và cao 
hơn cả là dấu hiệu “Khi trẻ co giật” và “Trẻ 
mệt, li bì” chiếm tỷ lệ lần lượt là 87,8%, và 
88,9%. Kết quả tương đồng với nghiên cứu 
của Awal Khan và cộng sự (2015), tỷ lệ các 
bà mẹ cho rằng khi trẻ không uống, không 
bú cần đưa trẻ đến viện được chiếm 12%, 
khi trẻ ngủ li bì khó đánh thức chiếm 28%, 
khi trẻ co giật 42%, khi trẻ co giật, ngủ li bì 
khó đánh thức chiếm 82% [1].
86
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Và cuối cùng, khi trẻ sốt nhu cầu về năng 
lượng của trẻ sẽ tăng lên rất nhiều lần. Vì 
vậy, chế độ dinh dưỡng trong thời điểm này 
vẫn cần phải đảm bảo đầy đủ các thành 
phần. Đồng thời khi bé sốt cơ thể cũng mất 
nhiều nước và các chất điện giải qua da, 
nên cần cho bé uống nước đầy đủ. Ngoài ra 
khi trẻ sốt cao, các men tiêu hóa bị ức chế, 
bé chán ăn, bỏ bữa vì vậy cần cho bé ăn 
những loại thức ăn dễ tiêu hóa mà lại cũng 
cấp đủ chất dinh dưỡng. Kết quả nghiên 
cứu cho thấy, có 81,2% các bà mẹ sẽ “cho 
trẻ bú mẹ nhiều bất cứ khi nào trẻ muốn” và 
60% bà mẹ “cho trẻ ăn lỏng, dễ tiêu” khi trẻ 
sốt. Bên cạnh đó, vẫn còn 14,4% là tỷ lệ các 
bà mẹ sẽ “cho trẻ ăn kiêng”.
Đề tài nghiên cứu được tiến hành trên 
90 bà mẹ có con dưới 5 tuổi điều trị tại bệnh 
viện Nhi tỉnh Nam Định tuổi tình nguyện 
tham gia phỏng vấn, với kết quả thu được 
tỷ lệ các bà mẹ có kiến thức đạt chưa cao 
chiếm 36,7%, trong khi đó, có đến 63,3% 
các bà mẹ có kiến thức chưa đạt. Kết quả 
nghiên cứu này tương đồng với nghiên 
cứu của Hồ Thị Bích và Doãn Thúy Quỳnh 
(2013), tỷ lệ các bà mẹ có kiến thức đúng 
về tình trạng sốt chiếm 36,8% [2].
5. KẾT LUẬN
Thực trạng kiến thức về tình trạng sốt 
của các bà mẹ có con dưới 5 tuổi điều trị tại 
Bệnh viện Nhi Nam Định là chưa tốt: 
- Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức về tình trạng 
sốt ở trẻ em chưa đạt là 63,3%.
+ Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng về định 
nghĩa sốt là 33,3%.
+ Tỷ lệ bà mẹ xác định trẻ sốt bằng xúc 
giác là 82,2%.
+ Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng thời 
điểm dùng thuốc hạ sốt cho trẻ là 30%.
+ Tỷ lệ bà mẹ biết liều lượng sử dụng 
thuốc hạ sốt cho trẻ là 33,3%.
+ Tỷ lệ bà mẹ cho trẻ ăn kiêng khi sốt là 
14,4%.
Với kết quả trên, nhóm nghiên cứu đưa 
ra khuyến nghị là cần thường xuyên tổ 
chức các buổi truyền thông giáo dục sức 
khỏe về các vấn đề liên quan đến chăm sóc 
trẻ sốt trẻ tại nhà.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Awal khan, Hedayatullah Khan, 
Afsha Badshah Said, Aurang Zeb & Fak 
(2015), Knowledge attitudes and practice 
of parents regarding Fever in children and 
its management at home, Original Article, 
vol 3.
2. Hồ Thị Bích, Doãn Thúy Quỳnh, 
(2013), Kiến thức, thái độ và cách chăm 
sóc trẻ sốt của người nuôi dưỡng trẻ, Tạp 
chí y học thực hành, số 3/2012.
3. Vũ Thị Thanh Hoa (2019), Thay đổi 
kiến thức, thực hành dự phòng và xử trí co 
giật do sốt cho các bà mẹ có con điều trị 
tại Bệnh viện trẻ em Hải Phòng – Luận văn 
thạc sỹ - Đại học Điều dưỡng Nam Định
4. Nguyễn Thị Dịu, Trần Thị Hằng, 
(2010), Đặc điểm lâm sàng và kiến thức 
chăm sóc của bà mẹ có con dưới 6 tuổi bị 
sốt cao co giật tại Bệnh viện Thái Bình năm 
2010.
5. Phạm Hải Yến (2013), Nghiên cứu 
đặc điểm sốt của trẻ nhập viện và một số 
biểu hiện hành vi, kiến thức của các bà 
mẹ khi có con bị sốt tại khoa Nhi bệnh viện 
Quân Y 103, Bộ môn – khoa Nhi, Bệnh viện 
Quân Y 103.

File đính kèm:

  • pdfkien_thuc_ve_tinh_trang_sot_o_tre_em_cua_cac_ba_me_co_con_du.pdf